Cho đến lúc đó, Christian de Montfont, vị công tước trẻ của xứ Lexington đã sống một cuộc sống tuyệt vời.
Niềm đam mê của ngài là thế giới tự nhiên. Khi còn là một đứa trẻ, hạnh phúc lớn nhất của ngài là những lúc có thể quan sát một con chim mới nở mổ vỡ vỏ trứng mong manh, hay dành nhiều giờ liên tiếp theo dõi những con rùa và bọ nước sinh sống rất nhiều trong dòng suốt của gia đình. Ngài giữ những con sâu bướm trong nhà kính để khám phá ra kết quả biến hình của chúng – những con bướm sặc sỡ hay những con muỗi xấu xí đều hấp dẫn ngài như nhau. Mùa hè đến, khi ngài được đưa đến bờ biển, ngài đắm mình trong những vũng nước do thủy triều tạo nên và theo bản năng hiểu được rằng mình đang chứng kiến sự vật lộn mãnh liệt để sinh tồn, mà không đánh mất cảm giác ngưỡng mộ trước vẻ đẹp và sự phức tạp của cuộc sống.
Sau khi học cưỡi ngựa, ngài thường xuyên biến mất trong vùng nông thôn bao quanh dinh thự bề thế của mình. Dinh thự Algernon – cơ ngơi của nhà Lexington nằm ở một góc của Peak District. Trên mặt những vách đá vôi và đá phiên, theo sau là một tay giữ ngựa, Christian săn lùng hóa thạch ốc biển và động vật thân mềm.
Đôi khi, ngài vấp phải sự phản đối. Cha ngài không tán thành niềm say mê khoa học này. Nhưng Christian được sinh ra với sự tự tin bẩm sinh mà hầu hết những người đàn ông khác phải mất nhiều thập kỷ mới hình thành được, nếu có thể. Khi vị công tước quá cố nạt nộ cách thức sử dụng thời gian lãng phí của ngài, Christian lạnh lùng hỏi liệu mình có phải luyện tập thói quen đuổi bắt mấy cô hầu gái quanh dinh thự vẫn được công tước quá cố yêu thích vào độ tuổi đó hay không.
Như thể khí phách và sự tự tin như thế vẫn chưa đủ, ngài còn cao lớn, rắn rỏi và đẹp trai theo phong cách cổ điển. Ngài lướt đi trong cuộc sống với quyền lực và sự chắn chắn của một chiếc tàu bọc thép, tự hào về nguồn gốc của mình và tin chắc vào mục đích bản thân.
Lần đầu tiên thoáng nhìn thấy Venetia Fitzhugh Townsend, cảm giác chắc chắn đó của ngài càng tăng thêm.
*
* *
Trận đấu cri-kê hàng năm của trường Eton và Harrow, một sự kiện nổi bật của mùa lễ hội Luân Đôn, vừa dừng lại để người chơi dùng trà chiều. Christian rời khỏi lều vải của đội Harrow để đến nói chuyện với mẹ kế - thực ra là mẹ kế trước đây, vị bà vừa mới trở về từ tuần trăng mật với người chồng mới.
Cha của Christian – vị công tước quá cố luôn đem lại một sự thất vọng, vừa tự phụ, vừa phù phiếm. Tuy nhiên, ông đã gặp may trong việc chọn vợ. Mẹ của Christian, đã qua đời khi anh còn quá bé để có thể nhớ gì về bà, thường được mọi người ca tụng là Thánh. Mẹ kế của anh, người đã xuất hiện không lâu sau đó, đã chứng tỏ là một người bạn tuyệt vời và là một đồng minh đáng tin cậy.
Anh đã nhìn thấy nữ công tước quả phụ lúc đang thi đấu. Nhưng lúc này bà không còn đứng ở chỗ cũ. Khi Christian chăm chú quan sát rìa cánh đồng xa xa, hình ảnh của một phụ nữ trẻ ngay lập tức khiến ánh mắt anh dừng khựng lại.
Thư thái ngồi ở phía sau một cỗ xe ngựa bốn bánh mui trần, cô đang ngáp ở sau quạt, tư thế thõng thượt, như đang bí mật gỡ mình ra khỏi lớp quần áo trong bằng sừng voi luôn buộc các quý cô phải ngồi cứng đơ như hình nộm. Nhưng thứ làm cô nổi bật so với đám đông là chiếc mũ miện nhỏ, với những chiếc lông màu mơ nhắc anh nhớ đến những con ò chân ngỗng biển đã hấp dẫn anh trong suốt thời thơ ấu.
Cô gập phắt quạt lại và anh quên hết về những con cò chân ngỗng.
Khuôn mặt cô – anh đánh mất hơi thở. Anh chưa bao giờ gặp một sắc đẹp lộng lẫy và ấn tượng như thế. Nó không phải là sự mê hoặc, mà là một ơn huệ, giống như hình ảnh đất liền đối với một người bị đắm tàu. Và anh, người chưa từng bị lật thuyền kể từ khi lên sáu, nếu có thì cũng chỉ là bị lật xuồng ở sông, đột nhiên cảm thấy như mình đã trôi dạt trên biển khơi cả cuộc đời.
Ai đó nói chuyện với anh. Anh không thể nghe nổi một từ nào.
Vẻ đẹp của cô có gì đó siêu phàm, như một đám mây giông trên cao, một trận tuyết lở dồn dập, hay một con hổ Bengal rình mò trong bóng tối của rừng xanh. Một biểu tượng nguy hiểm cố hữu và một sự hoàn hảo thái quá.
Anh cảm thấy một cơn đau nhức nhối sắc nhọn và ngọt ngào trong ngực: Cuộc đời anh sẽ không bao giờ hoàn chỉnh nếu không có cô. Nhưng anh không hề cảm thấy sợ hãi, chỉ có phấn khích, bâng khuâng và khao khát.
“Ai kia?” Anh hỏi vu vơ.
“Đó là bà Townsend,” ai đó trả lời.
“Cô ấy còn quá trẻ để trở thành góa phụ,” anh nói.
Sự ngạo mạn của câu khẳng định đó vẫn làm anh kinh ngạc trong nhiều năm sau – rằng anh có thể nghe thấy cô được gọi là bà và ngay lập tức cho rằng chồng cô đã chết. Rằng việc anh cho là không có gì có thể đứng chắn ngang ý muốn của mình là một điều nghiễm nhiên.
“Cô ấy không phải là góa phụ,” anh được thông báo. “Ngẫu nhiên cô ấy vẫn đang trong tình trạng kết hôn.”
Anh đãkhông chú ý đến bất kỳ ai đi cùng cô. Đối với anh, cô xuất hiện giống như diễn viên đang ở trên sân khấu, đơn độc và ngập trong ánh đèn. Nhưng bây giờ anh nhìn thấy người bên cạnh cô. Bàn tay cô thư thái đặt trên cánh tay của một người đàn ông. Khuôn mặt cô hướng về người đàn ông đó. Và khi anh ta nói, cô mỉm cười.
Christian cảm thấy như thể anh đang rơi xuống từ một độ cao, rất cao.
Anh luôn xem mình là một người xuất chúng. Bây giờ anh cũng chỉ là một kẻ tầm thường khác, có thể khao khát và đấu tranh, nhưng không bao giờ giành được niềm khao khát của trái tim mình.
*
* *
“Hôm nay em phô diễn khá nhiều đấy,” Tony nói.
Venetia bám vào sợi dây da của cỗ xe. Cỗ xe ngựa đang ì ạch chen lấn trên đường phố Luân Đôn đông đúc nên không cần thiết phải dùng đến sợi dây. Nhưng dường như cô không thể thả lỏng những ngón tay ra khỏi sợi dây da.
“Một cầu thủ bên đội Harrow không thể thôi nhìn em hau háu,” Tony tiếp tục. “Nếu ai đó đưa cho hắn một cái đĩa, hắn đã nuốt chửng em bằng một miếng rồi!”
Cô không trả lời. Khi Tony rơi vào tâm trạng bực bội, nói sao cũng chẳng có ích gì. Mây đang tụ lại trên đầu. Dưới bóng râm trải rộng, những chiếc lá mùa hè chuyển sang màu xám – không có gì có thể thoát khỏi khói bụi bao trùm Luân Đôn.
“Nếu bất cần, anh sẽ nói với hắn ta rằng em không thể sinh con. Em là một mưu mẹo tinh vi của Chúa trời, Venetia ạ. Bề ngoài thì rất đẹp đẽ, nhưng lại rất vô dụng khi cần đến.”
Những từ ngữ của anh ta như axit nhỏ vào trái tim cô, bỏng rát, ăn mòn. Trên lối đi bộ, những người khách bộ hành mở ô, giơ lên sẵn sàng. Hai hạt mưa to đập vào cửa sổ xe. Chúng trượt xuống ô cửa kính tạo thành những vệt dài mờ mờ.
“Việc em không thể mang thai là không chắc chắn,” cô nói. Cô không nên nói gì. Cô biết anh ta đang dằn vặt cô. Nhưng cho dù thế nào đi nữa, mỗi lần nhắc đến chủ đề này là cô lại cắn câu.
“Cần phải có bao nhiêu bác sỹ nữa để thuyết phục em? Bên cạnh đó, bạn của anh kết hôn và có người nối dõi trong vòng một năm. Chúng ta kết hôn hai năm roòi và em không có dấu hiệu to ra chút nào.”
Cô cắn môi. Thất bại trong chuyện sinh nở có thể là do lỗi của anh ta, nhưng anh ta thậm chí không chịu cân nhắc khả năng đó.
“Nhưng em sẽ vui mừng khi biết rằng diện mạo của em không phải hoàn toàn là vô dụng. Howard đã đồng ý tham gia đầu tư vào đường ray tàu hỏa anh, và anh dám nói rằng hắn ta làm thế có thêm cơ hội quyến rũ em,” Tony nói.
Cuối cùng cô nhìn anh ta. Sự cay nghiệt trong giọng nói thể hiện trên khuôn mặt, những đường nét hấp dẫn ngày trước giờ đã trở nên cứng nhắc và cáu bẳn. Suốt thời gian yêu nhau, cô đã nghĩ anh ta là một người đàn ông cuốn hút hết mức: hài hước, thông minh và tỏa sáng từ bên trong bởi một khao khát mãnh liệt với cuộc sống. Anh ta đã thực sự thay đổi quá nhiều hay cô đã thực sự mù quáng bởi tình yêu?
Và nếu anh ta khinh bỉ Howard vì ham muốn cô, tại sao lại đưa Howard dấn sâu hơn vào cuộc sống của họ? Họ không cần thương vụ đầu tư đường ray tàu hỏa, hay một nguồn cung khó chịu khác cho anh ta.
“Em có phản bội anh không?” Đột nhiên anh ta hỏi.
"Không,” cô nói, mệt mỏi quá sức chịu đựng. Sự khinh miệt và ghét bỏ của anh ta đã trở thành một tình trạng gần như thường trực trong cuộc hôn nhân của họ. Thứ duy nhất anh ta quan tâm, hay thỉnh thoảng ra vẻ như thế, là lòng chung thủy của cô.
“Tốt. Sau khi em đã biến anh trở thành thế này, chung thủy là điều tối thiểu em có thể làm vì anh.”
“Thế em đã biến anh trở thành như thế nào?” Cô có lẽ không phải là một người vợ mẫu mực, nhưng cô đã là một người vợ đúng mực. Cô chăm sóc mọi nhu cầu của anh ta, không bao giờ chi tiêu quá tiền trợ cấp của mình, và không khuyến khích những người đàn ông như Howard.
Giọng anh ta đầy cay đắng. “Đừng hỏi những câu hỏi vô ích.”
Cô quay mặt lại cửa sổ. Vỉa hè đã biến mất dưới một rừng ô đen.
Ngay cả ngồi trong xe, cô vẫn cảm thấy cơn ớn lạnh tràn qua. Mùa hè năm nay sẽ kết thúc sớm.
*
* *
Một thời gian ngắn sau đó Christian kết thúc học kỳ cuối cùng ở Harrow và tiếp tục tham gia kỳ thi sinh viên giỏi Khoa học Tự nhiên của trường Cambridge. Mùa hè năm học thứ hai ở đại học Trinity, anh tham gia vào một cuộc khai quật ở Đức. Trên đường quay lại dinh thự Algernon, anh dừng lại ở Luân Đôn để xem những mẫu hóa thạch biển ở bộ phận Lịch sử tự nhiên của Bảo tàng Anh quốc, những hóa thạch này sẽ không trưng bày công khai trong vài tháng nữa.
Cuộc thảo luận về những hóa thạch mới diễn ra sôi nổi đến mức thay vì tiếp tục hành trình về nhà, Christian chấp nhận lời mời dùng bữa tối với người quản lý và rất nhiều đồng nghiệp. Sau đó, thay vì ngay lập tức về nghỉ ngơi ở ngôi nhà trong thành phố, nơi anh vẫn giữ vài người làm để trông nom ngôi nhà sẵn sàng cho anh sử dụng lúc cần, anh quyết định giết thì giờ ở câu lạc bộ. Mọi người đã rời Luân Đôn vào cuối mùa lễ hội, anh có thể hy vọng không bị làm phiền nhiều.
Câu lạc bộ đúng là rất vắng vẻ. Với một ly brandi bên cạnh, anh ngồi xuống và cố gắng đọc tờ Times.
Ban ngày Christian dễ dàng bị công việc, gia sản và bạn bè choán hết thời gian. Nhưng vào ban đêm, khi thế giới yên tĩnh và chỉ còn mình anh với những suy tư, tâm trí anh quay lại một cách quá thường xuyên với hình ảnh người phụ nữ đã đánh cắp trái tim anh mà không cần đến một cái nhìn.
Anh mơ về cô. Thỉnh thoảng những giấc mơ thật đáng sợ, cơ thể mềm dẻo, trần truồng của cô ở bên dưới anh, đôi môi cô thì thầm những lời âu yếm đầy dâm đãng vào tai anh. Có những lần cô hoàn toàn ở ngoài tầm với, bước đi xa trong khi anh mọc rễ xuống đất, hoặc đi đến bên anh chỉ sau khi anh đã biến thành một bức tượng đá. Anh vật lộn và gào thét bên trong cỗ quan tài đá, nhưng cô không hề chú ý, thật đáng yêu nhưng cũng thật vô tâm.
Có người bước vào phòng đọc ốp gỗ tối màu. Christian nhận ra người đàn ông này ngay tức khắc: Anthony Townsend. Chồng của cô.
Khoảng thời gian tính từ khi anh gặp bà Townsend đã trở thành một bài giảng đạo dài về những khía cạnh yếu đuối của con người. Trước khi gặp cô, anh không hề biết đến ghen tị, đau khổ hay tuyệt vọng. Anh cũng không hề biết đến cảm giác tội lỗi, thứ cảm giác đang chạy trong mạch máu anh khi nhìn thến Townsend.
Anh chưa bao giờ mong cho người đàn ông này ốm yếu, và hiếm khi nghĩ gì về anh ta ngoài việc anh ta là một chướng ngại vật không thể gỡ bỏ. Nhưng anh đã ăn nằm với vợ của người đàn ông này vô số lần trong tưởng tượng. Và nếu có chuyện gì xảy đến với Townsend, anh sẽ là người đứng đầu tiên trong một hàng dài những người mong muốn được giới thiệu với góa phụ của anh ta.
Những cảm giác đó đủ khiến Christian uống cạn ly brandi và đặt tờ báo vẫn còn mới cứng sang một bên. Anh đứng dậy để ra về.
“Tôi đã nhìn thấy ngài trước đây,” Townsend nói.
Sau một phút sững sờ, Christian lạnh lùng nói. “Tôi không nghĩ là chúng ta đã gặp nhau.”
Anh không tôn sùng di sản của gia tộc như những tiền nhân, nhưng anh cũng khó gần giống như bất kỳ người họ de Montfort nào từng sống.
Tuy nhiên, Townsend vẫn ngoan cố. “Tôi không nói chúng ta đã gặp, nhưng tôi nhìn thấy ngài ở nơi nào đó. Phải rồi, bây giờ tôi nhớ ra rồi. Sân thi đấu cri-kê, hai năm trước. Ngài đội một chiếc mũ kẻ sọc của đội Harrow, trố mắt nhìn vợ tôi.”
Hình ảnh phản chiếu của Christian trên cửa sổ là một người đàn ông sững sờ bất động, như thể anh đã nhìn thẳng vào khuôn mặt của Medusa, một bản khắc a-xit cứng đờ của ánh sáng trên nền bóng tối mờ mờ của con đường bên ngoài.
“Tôi không thể nhớ mặt những cô hầu gái trong nhà mình, nhưng tôi lại nhớ mặt tất cả những người đàn ông nhỏ rãi khi nhìn thấy vợ tôi.” Giọng Townsend thờ ơ đến kỳ lạ, như thể anh ta không thèm quan tâm.
Mặt Christian nóng bừng, nhưng anh vẫn giữ im lặng: Cho dù việc thảo luận về vợ mình theo kiểu này và việc sỉ vả những người thèm muốn vợ anh ta có thô tục đến đâu, Townsend vẫn có quyền làm thế.
“Ngài khiến tôi nhớ đến người nào đó,” Townsend tiếp tục. “Ngài có quan hệ với công tước Lexington quá cố không?”
Nếu Christian thừa nhận danh tính của mình, Townsend có bôi nhọ tên anh trước mặt vợ mình không? Anh nhìn môi mình chuyển động trên kính cửa sổ. “Công tước quá cố là cha của tôi.”
“Đúng rồi, tất nhiên. Vậy ngài là một người nhà Lexington. Cô ấy sẽ phấn khích khi biết rằng một người có địa vị cao quý như ngài xem cô ấy là một phần thưởng.” Townsend cười giòn, một âm thanh khô khan, không chút hài hước. “Có lẽ ngài sẽ được toại nguyện, thưa đức ngài. Nhưng hãy nghĩ cho kỹ. Hoặc là ngài sẽ có kết thúc giống như tôi.”
Lần này Christian không thể giấu được sự khinh bỉ của mình. “Anh đang nói về vợ mình với người lạ? Tôi không nghĩ thế.”
“Tôi cũng đã không nghĩ mình là hạng người đó.” Townsend nhún vai. “Thứ lỗi cho tôi, thưa ngài, vì đã cản trở ngài với những lời nói ngớ ngẩn hèn yếu của tôi.”
Anh ta cúi đầu chào. Christian đáp lại với một cái gật đầu cụt lủn.
Không cần phải đến ngày hôm sau anh đã tự hỏi ý của Townsend khi nói “có lẽ ngài sẽ được toại nguyện” nghĩa là gì.
*
* *
Cáo phó của Townsend lên báo trong tuần đó. Sửng sốt, Christian thăm dò và biết rằng Townsend đã ngấp nghé bờ vực phá sản. Hơn nữa, anh ta mắc nợ các cửa hàng trang sức ở Luân Đôn và lục địa châu Âu một số tiền khổng lồ. Có phải anh ta đã buộc phải gánh lấy những khoản nợ chồng chất ấy để làm vợ mình hạnh phúc, để ánh mắt của cô ta sẽ không lạc đến những kẻ say mê quá hăm hở, sẵn sàng chen vào với những món quà xa xỉ để đổi lại ân huệ của cô ta hay không?
Một năm thêm một ngày sau cái chết của chồng, bà Townsend kết hôn lần nữa – một vụ kết hôn tai tiếng vì quá sớm so với thời gian để tang quy định là hai năm. Người chồng mới của cô, ông Easterbrook là một người đàn ông giàu có hơn cô ba mươi tuổi. Tin đồn về một cuộc tình vụng trộm không che đậy của cô nhanh chóng xuất hiện, ngay dưới mũi ông Easterbrook, với một trong những người bạn thân nhất của ông, chứ không phải ai khác.
Rõ ràng người Christian yêu là một người đàn bà nông cạn, tham lam và ích kỷ. Cô ta gây tổn thương và gạt bỏ những người xung quanh mình.
Anh buộc phải chấp nhận sự thật đó.
Tránh mặt cô ta cũng không phải quá khó. Anh không sống trong cùng vòng quay cuộc sống như cô ta, không tham dự mùa lễ hội của Luân Đôn, và không tham gia những sự kiện nổi tiếng đương thời. Vì thế anh lẽ ra đã không nhìn thấy cô ra khi ra khỏi tòa nhà Waterhouse trên đường Cromwell, nơi lưu trữ những bộ sưu tầm lịch sử tự nhiên của Bảo tàng Anh quốc.
Ngọn lửa hoang dại cháy hừng hực trong tim anh. Cho dù cô là loại đàn bà nào, điều quan trọng duy nhất là cô phải trở thành của anh.
Anh quay lưng và bỏ đi.
Cambridge, Massachusetts 1986
Bộ xương thằn lằn cá ở Bảo tàng Động vật học của trường đại học Harvard không hoàn chỉnh. Nhưng con thằn lằn này là hóa thạch đầu tiên được tìm thấy trên đất Mỹ, bang Wyoming, nên có thể hiểu được rằng trường đại học Mỹ này nóng vội đưa nó ra triển lãm.
Venetia Fitzhugh Townsend Easterbrook bước lại gần hơn để nhìn kỹ những cái răng cưa cắt bánh mỳ, cho thấy chế độ an của một sinh vật biển thân mềm ăn thực vật. Có lẽ là mực ống, một loại sinh vật sinh sôi rất phong phú trong những vùng biển thời kỳ Tam Điệp[1]. Cô săm soi những chiếc xương trên mái chèo, xếp sít vào nhau như những hạt ngô trên bắp ngô. Cô đếm số xương sườn, dài và mỏng như răng của một chiếc lược cong.
[1] Kỷ địa chất cách đây 251-200 triệu năm.
Bây giờ, sau khi đã làm ra đúng vẻ nghiên cứu khoa học, cô cho phép mình lùi lại và chiêm ngưỡng chiều dài của sinh vật này, gần bốn mét tín từ đầu đến chân, ngay cả khi cái đuôi đã bị mật đi một phần lớn. Cô sẽ không nói dối: Kích thước của những con vật thời tiền sử này luôn là điểm thu hút cô nhất.
“Em đã nói với chị là chị ấy ở đây mà,” giọng nói quen thuộc của em gái Venetia, Helena vang lên.
“Và em đã đúng,” Millie, vợ em trai Fitz của cô nói.
Venetia quay lại. Helena cao đến một mét tám ngay cả khi không tính giày. Dường như thế cũng chưa thu hút đủ sự chú ý, em cô còn có mái tóc đỏ, mái tóc đẹp nhất kẻ từ thời nữ hoàng Elizabert đệ nhất, và đôi mắt màu xanh lá cây của khoáng chất malachite. Millie, cao một mét sáu, tóc và mắt màu nâu, có thể dễ dàng biến mất trong đám đông – nhưng đó là một sai lầm của đám đông, vì Millie đẹp một cách tinh tế và quyến rũ hơn nhiều so với những gì cô bộc lộ ra ngoài.
Venetia mỉm cười. “Em thấy cuộc phỏng vấn với các phụ huynh có kết quả không, em yêu quý?”
“Cũng tạm được,” Helena trả lời.
Khóa tốt nghiệp sắp tới của trường Radcliffe – một trường đại học dành cho phụ nữ liên kết với đại học Havard sẽ là khóa tốt nghiệp đầu tiên có chữ ký của hiệu trưởng Havard trên bằng tốt nghiệp, một đặc quyền mà các quý cô người Anh học tại trường Lady Margaret Hall and Girton đang bị từ chối tuyệt đối. Helena chịu trách nhiệm viết bài về những quý cô của khó học lịch sử này cho tạp chí Queen. Venetia và Millie đã đi cùng với tư cách là người đi kèm.
*
* *
Xét về bề ngoài, Helena dường như là một tác giả hoàn hảo cho một bài báo như thế này. Cô là một phụ nữ trẻ thành đạt đã học ở trường Lady Margaret Hall và hiện nay đang sở hữu một nhà xuất bản nhỏ nhưng làm ăn phát đạt. Trên thực tế, cô đã phản đối dữ dội nhiệm vụ này.
Nhưng gia đình cô có chứng cớ là Helena, một cô gái chưa kết hôn, đang theo đuổi một cuộc tình vụng trộm có khả năng hủy hoại chính mình. Đây là một tình huống rất khó xử, Helena không những đã đứng tuổi từ lâu, mà còn đã tiếp nhận tài sản thừa kế. Nói cách khác, quá già và quá độc lập về mặt tài chính để phải chịu ép buộc vào những hành vi đúng mực hơn.
Venetia, Fitz và Millie đã khổ sở để tìm cách bảo vệ người em gái yêu quý này. Cuối cùng, họ quyết định tách Helena ra khỏi nguồn gốc của sự cám dỗ mà không đề cập đến lý do, với hy vọng rằng cô sẽ hiểu ra khi có thời gian nhắc lại những lựa chọn của mình.
Venetia gần như đã mua chuộc chủ bút của tờ Queen để ông ta trao công việc ở Mỹ này cho Helena, sau đó tiếp tục làm mòn nỗ lực phản đối rời khỏi nước Anh của Helena. Họ đến bang Massachusetts vào đầu học kỳ mùa xuân. Kể từ đó, Venetia và Millie đã giữ Helena bận rộn với hết vòng phỏng vấn này đến vòng phỏng vấn khác, thăm quan các lớp học và nghiên cứu chương trình giảng dạy.
Nhưng họ không thể giữ Helena ở bờ bên này của Đại Tây Dương lâu hơn nữa. Thay vì quên lãng, sự xa cách chỉ làm trái tim Helena khao khát người cô đã bỏ lại sau lưng mãnh liệt hơn.
Đúng như dự đoán, Helena lại bắt đầu phản đối. “Millie nói với em rằng chị lại sắp xếp thêm những cuộc phỏng vấn khác. Chắc chắn em đã thu thập quá đủ tư liệu cho một bài báo rồi. Thêm nữa em sẽ viết được cả một cuốn sách về chủ đề này.”
Venetia và Millie liếc nhìn nhau.
“Có đủ tư liệu cho một cuốn sách chuyên khảo không phải là một ý tưởng tồi. Em có thể tự mình xuất bản,” Millie nói theo cách nhẹ nhàng, nhã nhặn đặc trưng của cô.
“Đúng thế, nhưng cho dù các quý cô trường Radcliffe giỏi giang đến đâu, em cũng không định dành cho họ thêm thời gian nữa,” Helena trả lời bằng giọng gay gắt.
Hai mươi bảy là một tuổi khó khăn đối với phụ nữ chưa kết hôn. Những lời cầu hôn trở lên thưa thớt, mùa lễ hội ở Luân Đôn kém thú vị hơn cả một công việc nặng nhọc kéo dài. Bất chấp nguy cơ ế ẩm đè xuống đầu, cô ta vẫn phải được một người hầu hay một người tháp tùng đi kèm đến bất kỳ nơi nào.
Đó có phải lý do khiến Helena, người mà Venetia luôn nghĩ là sáng suốt nhất trong tất cả bọn họ, đã nổi loạn và quyết định mình không muốn cư xử đúng đắn nữa hay không? Venetia vẫn chưa hỏi câu hỏi đó. Không ai trong bọn họ hỏi. Điều mà họ muốn làm là vờ như hành động sai lầm này của Helena chưa bao giờ xảy ra. Thừa nhận nó có nghĩa là thừa nhận rằng Helena đang tiến đến gần sự hủy hoại – không ai trong bọn họ có thể hãm phanh cuộc tình như cỗ xe ngựa đang lồng lên của em gái mình.
Venetia khoác tay Helena. Tốt hơn là giữ em cô ở xa nước Anh lâu hết mức có thể, nhưng họ phải làm một cách khéo léo, chứ không phải ép buộc.
“Nếu em chắc rằng mình đã có đủ tư liệu, chị sẽ viết thư cho những người mà chúng ta đã liên lạc và nói rằng chúng ta không cần họ tham gia phỏng vấn nữa,” cô nói khi họ đẩy cánh cửa bảo tàng mở.
Một làn gió lạnh chào đón họ. Helena kéo áo khoác vào người chặt hơn, có vẻ vừa nhẹ nhõm vừa nghi ngờ. “Em chắc chắn mình đã có đủ tư liệu rồi.”
“Thế thì chị sẽ viết những lá thư đó ngay sau khi chúng ta uống trà xong. Nói thật với em, chị cũng đang cảm thấy hơi bồn chồn. Bây giờ em đã hoàn thành công việc, chúng ta có thể nhân cơ hội này đi ngắm cảnh.”
“Trong thời tiết này?” Helena ngờ vực hỏi.
Mùa xuân trên Tân Anh quốc đang xám xịt và khắc nghiệt. Những làn gió thổi như kim châm vào má Venetia. Những ngôi nhà gạch đỏ xung quanh mang vẻ khắc khổ và nghiêm trang như những nhà sáng lập Thanh giáo của trường đại học này. “Chắc chắn em sẽ không để một chút lạnh lẽo này ngăn cản mình. Còn lâu nữa chúng ta mới quay lại Mỹ. Chúng ta sẽ tham quan lục địa này nhiều nhất có thể trước khi ra về.”
“Nhưng nhà xuất bản của em…Em không thể tiếp tục bỏ mặc nó.”
“Tất nhiên là không, em vẫn nắm bắt đầy đủ tất cả sự thay đổi của nó đấy thôi.” Venetia đã thấy số lượng thư Helena nhận được từ nhà xuất bản của mình. “Trong bất cứ hoàn cảnh nào, bọn chị không giữ em ở đây lâu được. Em biết là chúng ta phải đưa em trở về Luân Đôn vào mùa lễ hội.”
Một làn gió lạnh mạnh suýt nữa cuốn phăng chiếc mũ của cô. Người đàn ông trên vỉa hè vất vả giữ lại một chồng trang quảng cáo đang ôm trong tay. Một tờ thoát khỏi tay anh ta và bay về phía Venetia. Cô vừa kịp bắt được trước khi nó đập vào mặt.
“Nhưng…”, Helena lại bắt đầu.
“Thôi nào, Helena.” Venetia cứng rắn nói. “Bọn chị có cần phải nghĩ rằng em không thích đi cùng bọn chị không?”
Helena ngập ngừng. Họ đã không nói thẳng ra điều gì và có lẽ sẽ không bao giờ nói thẳng ra, nhưng cô phải nghi ngờ lý do họ đột ngột rời khỏi nước Anh. Và ít nhất cô phải cảm thấy một chút tội lỗi vì đã hoàn toàn phản bội lòng tin mà gia đình đã dành cho mình.
“Ôi, được rồi,” cô làu bàu.
Đứng bên kia Venetia, Millie máy miệng, Làm tốt lắm. “Còn tờ quảng cáo kia nói gì thế?”
Venetia đã hoàn toàn quên mất tờ giấy mình bắt được. Cô cố gắng giữ tờ giấy thẳng để đọc nhưng gió cứ làm nó gập lên gập xuống – rồi giật nó từ trong tay cô, chỉ để lại một góc nói rằng Hiệp hội các nhà tự nhiên Mỹ…
“Có phải giống tờ kia không?” Millie chỉ vào một cột đèn họ vừa bước qua.
Tờ quảng cáo dán vào cột đèn viết rằng:
Hiệp hội các nhà tự nhiên Mỹ và Hiệp hội lịch sử tự nhiên Boston hợp tác giới thiệu:
Lamarck và Darwin: Ai đúng?
Đức ngài công tước của Lexington
Thứ Năm, 26 tháng Ba, 3 giờ chiều
Nhà hát Sanders, đại học Havard
Vào cửa tự do.
“Ôi, Chúa tôi, đó là Lexington.” Venetia níu lấy cánh tay Millie. “Ngài ấy sẽ nói chuyện ở đây vào thứ Năm tới.”
Sự thịnh vượng của giới quý tộc Anh đang gánh chịu một cuộc suy thoái chung, do thu nhập từ nông nghiệp sụt giảm. Ở mọi noi, mỗi khi quay đầu lại, người ta lại nhìn thấy một nhà quý tộc buộc phải đầu hàng trước những mái nhà dột nát và những ống khói tắc nghẽn. Fitz, em trai của Venetia là một ví dụ. Anh đã phải kết hôn vì tiền ở tuổi mười chín khi bất ngờ thừa hưởng một lãnh địa bá tước đổ nát.
Tuy nhiên, công tước Lexington không hề gặp phải những khó khăn như thế. Anh ta thu lợi lớn từ việc sở hữu gần một nửa những vùng đất màu mỡ nhất Luân Đôn được hoàng gia ban cho, trong khi rất nhiều đất đai khác chỉ còn là những đồng cỏ.
Anh ta hiếm khi xuất hiện ở những nơi công cộng. Mọi người thường đùa rằng nếu một quý cô trẻ muốn có cơ hội tán tỉnh vị công tước này, cô ta phải có một chiếc bản đồ trong tay này và một chiếc xẻng ở tay kia. Anh ta có đủ khả năng để sống cuộc đời ẩn dật: Anh ta không cần giành giật các nữ thừa kế nổi tiếng, với hy vọng tước hiệu quý tộc sẽ câu cho mình một gia tài khổng lồ. Thay vào đó, anh ta đi đến những vùng xa xôi, khai quật những địa điểm có hóa thạch và xuất bản những bài báo trên các tạp chí khoa học.
Điều này thực quá tệ. Thực ra, khi Venetia và Millie bày tỏ sự ái ngại với nhau vì Helena lại thất bại ở một mùa lễ hội nữa, họ vẫn luôn kéo Lexington vào cuộc nói chuyện.
Cô nói: Belfort không đủ nghiêm túc.
Em cá là Lexington nghiêm túc và cao thượng hơn.
Cô nghĩ: Linwood hay cười điệu quá nhiều.
Một bảng để cá rằng Lexington chưa bao giờ trải qua một suy nghĩ dâm đãng trong đời mình.
Widmore quá vô tích sự. Helena tin rằng anh ta sẽ phàn nàn về những nỗ lực công việc của nó.
Lexington hiện đại và lập dị - một người đàn ông đào bới hóa thạch sẽ không phản đối một phụ nữ xuất bản sách.
Họ không quá nghiêm túc. Lexington trong thực tế có thể ngạo mạn và kỳ quái, giống như những người lập dị ẩn dật thường thế. Nhưng miễn là anh ta vẫn chưa được giới thiệu, họ có thể coi anh ta như là một tia sáng hy vọng mỏng manh trong nỗ lực ngày càng khiến họ nản lòng.
Việc tìm chồng cho Helena gặp nhiều khó khăn đến thế khiến mọi người đều ngạc nhiên. Helena là một cô gái đáng yêu, thông minh và duyên dáng. Venetia chưa bao giờ có ấn tượng là em cô không biết điều hay đặc biệt khó hài lòng. Vậy mà kể từ mùa lễ hội đầu tiên, em cô đã gạt bỏ những quý ông danh giá, đáng mềm một cách hoàn hảo, như thể họ là một nhóm phạm nhân giết người.
“Chị luôn muốn gặp Lexington phải không, Venetia?” Millie hỏi.
Thật thú vị là Millie, với bản tính điềm tĩnh và đáng tin lại là người nói dối thuyết phục nhất trong bọn họ. Venetia bắt ngay lấy gợi ý của em dâu. “Anh ta thích hóa thạch. Điều đó khá đủ để làm cho một người đàn trở nên đáng mến trong mắt chị.”
Họ đang đi dọc những bãi cỏ của trường Luật. Những thân cây trơ trụi run rẩy trong gió. Những bãi cỏ trở thành vô hình bên dưới tấm chăn tuyết của ngày hôm trước. Khu giảng đường chính tròn trĩnh theo kiểu kiến trúc nghiêm trang vuông vắn đồng nhất còn lại của trường đại học này.
Một nhóm sinh viên đang đi về phía họ bỗng nhiên đi chậm dần rồi dừng khựng lại, há hốc miệng khi nhìn thấy Venetia. Cô hờ hững gật đầu về phía họ.
“Vậy là chị định tham dự bài diễn thuyết?” Helena hỏi trong lúc đọc lướt qua tờ bướm. “Còn hơn một tuần nữa đấy.”
“Đúng thế, nhưng chúng ta không thể gặp anh ta ở Anh. Em biết không, chị nghe nói là anh ta có một bảo tàng lịch sử tự nhiên riêng ở dinh thự Algernon. Chị sẽ giống như một con mèo ngập trong đống kem, nếu chị trở thành chủ nhân của dinh thự đó.”
Helena hơi cau mày. “Em chưa bao giờ nghe chị nói rằng chị đặc biệt quan tâm đến anh ta.”
Bởi vì cô không hề. Nhưng cô sẽ trở thành người chị kiểu gì nếu không đưa được anh chàng độc thân xứng đáng nhất, và có thể là phù hợp nhất nước Anh đến giới thiệu với Helena? “À, anh ta là một triển vọng tốt. Thật tiếc nếu không gặp anh ta khi chị có thể. Và trong khi chờ đợi, chúng ta có thể bắt đầu du ngoạn. Chị nghe nói rằng có rất nhiều hòn đảo đáng yêu ngoài mũi Cod. Mọi người bảo là Connecticut rất đẹp, và Montreal chỉ cách đây một chuyến tàu ngắn.”
“Thật tuyệt vời,” Millie nối lời.
“Một sự nghỉ ngơi và thư giãn thực sự trước khi mùa lễ hội bắt đầu,” Venetia nói.
Helena mím môi vào nhau. “Tốt hơn là công tước phải xứng đáng với phiền phức đó.”
“Một người đàn ông giàu có về cả đồng bảng và hóa thạch?” Venetia giả vờ quạt cho mình. “Anh ta sẽ xứng đáng với mọi phiền phức. Rồi em xem.”
*
* *
“Em nhận được thư của Fitz,” Millie nói.
Helena đang tắm, Venetia và Millie đang ở riêng với nhau trong phòng khách của căn nhà họ đã thuê trong thời gian ở trường Radcliffe.
Venetia đến gần Millie hơn và hạ thấp giọng. “Cậu ấy nói gì?”
Vào tháng Giêng, Helena đã đến Huntington, dinh thự đồng quê của ngài Wrenworth, với sự tháp tùng của bạn mình, bà Denbigh. Tử tước Hastings, bạn thân nhất của Fitz cũng tham dự. Hastings rời khỏi bữa tiệc sớm và đến gặp Fitz và Millie ở nhà của họ, đúng lúc Venetia vô tình đến chơi. Anh nói với họ rằng trong thời gian ở Huntington, trong ba đêm liên tiếp, anh đã nhìn thấy Helena đi về phòng lúc bốn giờ sáng.
Venetia ngay tức khắc lên đường đến Huntington, rạng rỡ xuất hiện với những lời xin lỗi hớn hở vì đường đột có mặt do cô quá nhớ em gái. Huntington vẫn còn phòng, nhưng cô khăng khăng muốn ở cùng phòng với Helena và chắc chắn không bao giờ để Helena ra khỏi tầm mắt.
Sau đó họ lôi Helena ra nước ngoài nhanh hết mức có thể và để Fitz ở lại xác định danh tính người tình vụng trộm của Helena.
“Tính cả Huntington, con bé đã tham gia bốn bữa tiệc tại nhà từ khi kết thúc mùa lễ hội, nếu tính cả bữa tiệc ở dinh thự Henley mà Fitz và em tổ chức thì là năm. Hastings có mặt trong bốn bữa tiệc đó, nhưng rõ ràng anh ấy không phải là đối tượng tình nghi của chúng ta. Quý bà Avery và Somersby đều có mặt ở bốn bữa tiệc đó, bao gồm cả bữa tiệc ở Huntington.”
Venetia lắc đầu. “Chị không thể tin được con bé dám làm thế khi những kẻ buôn chuyện tầm phào đó sống chung một mái nhà.”
Millie rà xuống theo danh sách. “Nhà Rowley cũng có mặt ở ba bữa tiệc. Và nhà Jack Dormer cũng thế.”
Nhưng ông Rowley đã năm lăm tuổi. Và vợ chồng Jack Dormer là một cặp đôi mới cưới hết lòng với nhau. Venetia hít một hơi thở sâu. “Thế còn nhà Andrew Martin?”
Vài năm trước, Helena đã nảy sinh tình cảm với Andrew Martin. Tất cả chứng cứ đều cho thấy tình cảm của cô được đáp lại nồng nhiệt. Nhưng đúng lúc đó, Martin lại cầu hơn và cưới một quý cô trẻ đã được hứa hôn cho anh ta từ khi mới chào đời.
Millie vuốt thẳng những nếp gấp của lá thư, mắt cô chứa đầy lo lắng. “Bây giờ khi nghĩ đến điều này, em thấy vợ chồng Andrew Martin đã không đi cùng nhau trong một thời gian rồi. Anh Martin đến ba bữa tiệc một mình. Và lần nàu anh ta cũng yêu cầu một căn phòng tách biệt, nói rằng anh ta cần sự yên bình và tĩnh lặng để làm việc với cuốn sách kế tiếp.”
Thuận tiện hơn để tiến hành một cuộc tình lén lút. “Fitz có nghi ngờ ai khác không?” Venetia hỏi nhưng không mấy hy vọng.
“Không có ai ở Huntington.”
Nếu người tình của Helena thực sự là Martin, chuyện này sẽ không thể kết thúc tốt đẹp. Nếu họ bị phát hiện, gia đình Fitzhugh thập chí còn không thể buộc anh ta làm điều đúng đắn với Helena, vì Martin vẫn còn kết hôn và vợ anh ta vẫn còn khỏe mạnh như rượu vang.
Venetia day day thái dương. “Fitz nghĩ chúng ta nên làm gì?”
“Fitz sẽ hành động một cách kín kẽ trong lúc này. Anh ấy lo rằng việc đối mặt với anh Martin có thể gây hại cho Helena nhiều hơn. Nếu anh Martin không phải người đó thì sao? Sau đó tin tức có thể rò rỉ ra ngoài rằng Helena này nọ trong khi có thể không phải thế.”
Danh tiếng của một phụ nữ mong manh như cánh của một con chuồn chuồn. “Tạ ơn Chúa vì Fitz là người có đầu óc suy xét.”
“Vâng, anh ấy xử lý những khó khăn rất giỏi,” Millie nói, bỏ lá thư vào trong túi. “Chị nghĩ giới thiệu công tước với Helena có tác dụng gì không?”
“Không, nhưng chúng ta vẫn phải cố gắng thôi.”
“Hãy hy vọng rằng công tước không ngã lòng với người chị em khác,” Millie nói với một nụ cười mỉm.
“Chà!” Venetia nói. “Chị đã gần đến tuổi trung niên rồi và gần như chắc chắn là già hơn anh ta.”
“Em đảm bảo là đức ngài sẵn lòng bỏ qua sự khác biệt tuổi tác rất nhỏ đó.”
“Chị đã có nhiều chồng hơn mức cần thiết rồi và có dự định sống vui vẻ mà không kết hôn nữa trong phần còn lại của…”
Tiếng bước chân của Helena.
“Tất nhiên chị sẽ không đồng ý một cách dễ dãi,” Venetia cao giọng nói. “Nhưng nếu công tước tán tỉnh chị bằng hóa thạch của một con thú khổng lồ, ai biết chị sẽ đền đáp anh ta thế nào.”
*
* *
Helena cẩn thận lắng nghe. Venetia đang tắm. Millie đã đi thay bộ váy dành để đi bộ. Cô đang rất an toàn.
Cô kéo rèm sang một bên và mở cửa sổ phòng khách. Cậu bé cô thuê để mang lá thư gửi cho Andrew đến thẳng bưu điện đang đứng đợi ở đó. Cậu bé đưa tay ra. Cô để lá thư và hai đồng xu màu đồng lấp lánh vào lòng bàn tay cậu bé và nhanh chóng đóng cửa sổ lại.
Bây giờ quay lại với những lá thư đã gửi đến cho cô vào buổi chiều. Cô xem xét những lá thư nằm trong phong bì riêng của Fitzhugh & Co. Trước khi rời khỏi Anh, cô đã đưa cho Andrew những phong bì đó và hướng dẫn anh ghi địa chỉ ở Mỹ của cô lên mặt trước phong bì khi nhận được chúng. Sau đó anh sẽ vẽ hình ngôi sao nhỏ dưới tem, để cô biết lá thư là của anh chứ không phải của cô thư ký.
Ngoại trừ trên lá thư này, anh không vẽ một ngôi sao, mà là một trái tim nhỏ xíu bên dưới bức ảnh của nữ hoàng. Cô trìu mến lắc lắc đầu. Ôi, Andrew ngọt ngào của cô.
Em yêu quý,
Thật là vui làm sao! Thật hạnh phúc làm sao! Khi sáng nay anh đến văn phòng phát bưu kiện ở St.Martin’s le Grand, có không phải một, không phải hai, mà là ba lá thư của em. Niềm vui sướng của anh càng lớn hơn bởi sự thất vọng trong hai ngày qua, khi chuyến đi đến bưu điện ở Luân Đôn chẳng có kết quả gì.
Và để trả lời câu hỏi của em, tác phẩm ba tập Lịch sử miền Đông nước Anh đang tiến triển chậm chạp. Vua Ethelberht sắp bị giết và Offa của Mercia sắp chiếm đoạt vương quốc. Vì vài lý do anh khá run sợ với giai đoạn này của lịch sử, nhưng anh tin rằng tiến độ sẽ lại tăng tốc khi đến giai đoạn nổi loạn ba mươi năm sau đó để khôi phục lại nền độc lập cho Vương quốc miền Đông nước Anh.
Anh muốn viết thêm nữa, nhưng anh phải lên đường về nhà – anh phải ghé thăm mẹ ở Lawton Priory và em biết bà ấy hay phàn nàn về việc không đúng giờ như thế nào, đặc biệt là đối với anh.
Vì thế anh sẽ kết thúc ở đây với một mong ước nồng nhiệt là em sớm quay về.
Đầy tớ của em.
Helena lắc đầu. Cô đã hướng dẫn Andrew đừng bao giờ ký tên vào thu. Sự phòng ngừa đó trở nên vô ích khi anh nhắc đến tên cuốn sách và ngôi nhà của mẹ anh. Nhưng đây không phải là lỗi của anh. Nếu anh có khả năng dối trá như thế, anh sẽ không phải là người cô yêu.
Cô đang nhét lá thư vào túi áo khoác thì Venetia quay lại phòng, mỉm cười. “Em thấy sao nếu chúng ta làm một chuyến đến Boston vào ngày mai, em yêu, và xem những người làm mũ có gì? Những chiếc mũ em đã mua hoàn toàn phù hợp với những cuộc nói chuyện với các giáo sư và nữ sinh. Nhưng chúng ta phải chuẩn bị tốt hơn cho việc gặp công tước.”
“Anh ta sẽ chỉ để mắt tới chị thôi.”
“Vớ vẩn,” Venetia nói cứng. “Em là cô gái đáng yêu nhất mà chị biết. Bên cạnh đó, nếu anh ta có tí khả năng phán đoán nào, anh ta sẽ biết rằng cách tốt nhất để đánh giá một phụ nữ là quan sát cô ta đối xử với những phụ nữ khác như thế nào. Và khi anh ta nhìn thấy em với chiếc mũ đơn giản từ hai mùa lễ hội trước, ngay lập tức anh ta sẽ kết luận rằng chị là một con bò ích kỳ, người đã trang hoàng cho mình như một cây thông Giáng Sinh và để em ăn mặc rách rưới.”
Nếu Venetia muốn Helena tin rằng cô quan tâm đến vị công tước này, thì cô không nên dành bốn năm kể từ khi trở thành góa phụ lần thứ hai chân thành từ chối mọi lời cầu hôn bay đến với mình. Thực ra, Helena đã tin rằng Venetia sẽ bơi vượt biển Măng sơ trước khi lấy một người chồng khác.
Nhưng Helena sẽ hùy theo, như cô đã hùa theo kể từ khi Venetia bất ngờ xuất hiện ở Huntington. “Được rồi, nhưng chỉ là vì chị thôi, và chỉ vì chị đang ngày càng già đi và chẳng mấy chốc chỉ có các quý ông ghé chơi vì họ nhầm cửa nhà chị với nhà bà họ.”
Venetia cười phá lên, xinh đẹp rạng rỡ. “Nhảm nhí. Hai chín tuổi chưa già đến thế. Nhưng đúng là chị sẽ không có cơ hội khác để trở thành một nữ công tước nếu cơ hội này trôi đi. Vì thế tốt hơn là em nên có một cái mũ phù hợp.”
“Em sẽ cho phép chị chọn cho em một chiếc mũ giống như dùng trong lễ hội.”
Venetia vòng tay ôm Helena. “Nếu em gặp một người đàn ông hoàn hảo vào mùa lễ hội này và chấp nhận lời cầu hôn của anh ta thì có phải là tuyệt vời không? Thế là chúng ta có thể có một đám cưới đôi.”
Em đã gặp một người đàn ông hoàn hảo. Em sẽ không kết hôn với người khác.
Helena mỉm cười. “Vâng, sao lại không?”