Khi đã ra xa khỏi dãy bê tông, không khí đã bớt không còn nhiễm độc nữa, và Rebecca thấy vô cùng biết ơn điều đó. Chỉ chút xíu nữa thôi là cô đã “cho chó ăn chè” rồi, cái mùi đó thật kinh khủng – cái mùi hôi thới nhớp nháp đầy dầu mỡ dường như là tồn tại ở đây, như một phần của chính nó vậy.
Trong khi họ di chuyển lặng lẽ qua căn phòng lớn, cô thấy mình lại nghĩ về Nicolas Griffith, về câu chuyện những nạn nhân ở Marburg, và cho dù không hề có gì chứng tỏ rằng Nicolas Griffith đứng sau cuộc tàn sát hàng loạt của những người trong Umbrella, cô không thể gạt bỏ cái ý nghĩ rằng lão ta chịu trách nhiệm trong chuyện này.
Hành lang dẫn họ đi qua một vài căn phòng để mở, phòng nào cũng trống trơn, trơ trọi như toà nhà mà họ vừa đi ra. Mọi người đi qua một lối ở phía xa của dãy bê tông, và sau khi lần mò một hồi trong căn phòng lớn, cuối cùng họ cũng đến được cánh cửa đánh dấu chữ A, và phía dưới là 1-4. Có 3 hình tam giác phía dưới những con số với 3 màu khác nhau – đỏ, xanh lục và xanh biển.
David mở cánh cửa, để lộ ra một căn phòng khác thấp hơn, ánh đèn huỳnh quang ảm đạm lan đến những nơi tối tăm ẩm mốc, có hai cánh cửa ở mỗi bên. Steve tìm thấy công tắc và bật đèn lên, Rebecca nhận thấy là còn có những hình tam giác với màu sắc khác nhau trên cánh cửa ở bên tay phải. Cánh cửa còn lại thì không có gì.
“Tôi sẽ kiểm tra lối này”,David nói. “Steve, anh và Rebacca kiểm tra phòng kia, chúng ta sẽ gặp nhau ở đây.”
Rebecca gật đầu, Steve cũng vậy. Trông mặt anh ta hơi tái, nhưng có lẽ vẫn đủ bình tĩnh, và anh đã lườm Rebecca khi nhận thấy cô đang quan sát mình. Cô cảm thấy một chút day dứt khi thể hiện sự thông cảm với anh, chắc chắn là anh ta cảm thấy khó chịu vì đã nôn ra hết bữa trưa.
Họ mở cánh cửa không đóng dấu và bước vào trong, lại một căn phòng khác không có cửa sổ, ngột ngạt và nguy hiểm như hầu hết những nơi còn lại trong toà nhà. Rebecca mở đèn lên, một văn phòng làm việc khá lớn với những hàng kệ sách hiện ra trước mắt. Một cái bàn làm việc ở góc phòng cạnh một cái tủ hồ sơ, những ngăn kéo trống rỗng đã mở sẵn. Steve thở dài.
“Có vẻ như là lại phải có một cuộc lục soát khác đó”.Anh ta lên tiếng, “Em thích cái bàn hay là đống kệ?”
Rebecca nhún vai:“Em nghĩ là những cái kệ sách sẽ thú vị hơn.”
Anh ta nhăn mặt một cách ngượng nghịu.
“Hừm, cũng được. Biết đâu anh sẽ tìm được mấy thanh kẹo bạc hà hay vài thứ khác trong những cái ngăn kéo này.”
“Vậy thì dành cho em một cái nhé. Em sẽ ăn nó ngay lập tức. Ở đây khó thở quá.”
Cả hai nhìn nhau mỉm cười, và Rebecca cảm thấy một thoáng rùng mình của sự phấn khích, nhịp tim của cô đập chậm hơn hẳn bình thường.
Steve quay mặt đi trước, sắc mặt anh ta có vẻ đã bình thường trở lại, khuôn mặt đã bớt xanh như lúc nãy. Anh ta đi về phía cái bàn và Rebecca quay mặt lại những hàng sách, cảm thấy hơi xúc động. Có một sự cuốn hút rõ ràng ở đây, có vẻ như hai người đang có cảm tình với nhau.
“ Đây là thời điểm và nơi chốn tồi tệ nhất để nghĩ về nó”.Tư tưởng của cô bị cắt ngang. Phải ngăn những suy nghĩ bậy bạ đó, ngay lập tức.
Những quyển sách chứa đúng những gì mà cô đã trông chờ, xét đến những gì mà họ đã biết về những cái tên Trisquad và Umbrella. Hoá học, sinh học, và cả một tập tài liệu bằng giấy da ghi chép về những biến đổi hành vi, một số ghi chép y học. Trong khi Steve lục lọi cái bàn phía sau lưng, Rebecca đưa tay dọc theo hàng sách, ấn chúng sâu vào phía trong, sau khi cô đọc qua những tựa sách. Lỡ có cái gì giấu ở phía sau chúng thì sao.
“... Xã hội học, Pavlov, bực thật, rối rắm quá, bệnh lý…”
Cô dừng lại, cau mày nhìn một quyển sổ nhỏ màu đen bị kẹp giữa hai quyển sách bự chảng. Không có tựa. Cô lôi nó ra và cảm thấy tim mình đập loạn lên khi mở nó ra, nhìn thấy những dòng chữ viết ngoằng ngoèo trên những trang giấy nhăn nhúm. Cô lật về phía trước, và thấy “Tom Athens” được viết một cách ngay ngắn phía trong bìa sách. Cái tên này có ở trong danh sách đó, một trong những nhà nghiên cứu.
“Này, em tìm thấy một quyển nhật ký”,cô nói, “Nó là của một người trong danh sách của Trent, Tom Athens.”
Steve ngẩng đầu lên khỏi cái bàn, đôi mắt đen của anh sáng lên.
“Hy vọng nó không viết những thứ vô nghĩa chứ? Lật trang cuối ra, ngày cuối cùng ghi trên đó là khi nào vậy?”
Rebecca lật vội về những trang cuối, đọc lướt qua khi cô lật chúng.
“Ngày 18 tháng 7, nhưng có vẻ như ông ta không thường xuyên viết nó lắm. Trang trước đó là ngày 9 tháng 7…”
“Cứ đọc trang cuối đi”,Steve nói với cô. “Biết đâu nó sẽ cho chúng ta biết chuyện gì đang diễn ra ở đây.”
Rebecca đi về phía cái bàn và dựa vào đó, lấy giọng.
“Thứ 7 ngày 18 tháng 7. Hôm nay là ngày cuối cùng của một tuần lễ dài đằng đẵng và toàn những chuyện nực cười. Thề có Chúa, mình sẽ đập cái thằng Louis đó một trận ra trò nếu nó lại gọi cho mình vì một cuộc họp ngu ngốc nào nữa. Hôm nãy có vẻ điều mà chúng ta sẽ làm là thêm vào một chiến dịch mới cho chương trình Trisquad, bất kể là đúng hay sai. Và tất cả những gì thằng khốn đó thực sự muốn là mọi việc phải được ghi chép chi tiết lên giấy tờ, những thứ còn lại như thường lệ toàn là rác rưởi – sự quan trọng của tính tập thể, sự cần thiết của việc chia sẻ thông tin, để tất cả đều có thể nắm rõ được tiến trình và làm việc đúng kế hoạch. Nghĩa là, mẹ kiếp, thằng khốn đó cứ nghĩ là không có nó thì mọi chuyện sẽ rối tung lên hết vậy. Mà nó có làm cái quái gì đâu sau thảm hoạ với đám Ma7, ngoại trừ việc cố gắng thuyết phục mọi người rằng đó là do lỗi của Chin; người chẳng nói được gì vì đang bệnh sắp chết. Đúng là cái gai đáng kiếp…
Alan và mình đã nói chuyện về những mô cấy ghép hồi hôm qua, mọi chuyện đều tốt đẹp. Anh ta sẽ viết kế hoạch đề xuất trong tuần, và tụi này sẽ không để cho Louis đánh hơi được chuyện này. Với một chút may mắn nào đó, chúng tôi có thể sẽ nhận được sự cho phép vào cuối tháng. Alan đang hình dung ra cảnh lũ White boys thèm muốn sử dụng nó để qua mặt Birkin, có Chúa mới biết tại sao. Birkin chẳng cho biết cái khỉ gì mà chúng tôi đang làm ở đây, hắn đã không còn sự sáng suốt nữa rồi. Phải thừa nhận là mình đang chờ đợi một sự tổng hợp mới của hắn; biết đâu chừng lại có thể giải quyết được một vài lỗi kỹ thuật của chương trình Trisquad.
Có một nỗi lo sợ nho nhỏ trong khu D vào thứ tư, phòng 101. Có ai đó đã quên không đóng tủ đông lạnh, và Kim thề rằng một số hoá chất đã biến mất, mặc dù mình đang nghi ngờ rằng có thể cô ta đã lại đếm thiếu chúng. Khó mà tin được là cô ta bị bắt giữ vì sự lây nhiễm. Cô ta là một người cẩu thả tuỳ tiện, đặc biệt là trong những chuyện như như bảo quản thiết bị. Mình khá là ngạc nhiên khi cô ta vẫn chưa làm lây nhiễm toàn bộ khu vực. Ngoài cô ta ra có Chúa mới biết tại sao.
Mình đã phải tự kiểm tra lại khu D để chắc chắn là mọi chuyện sẽ sẵn sàng cho ngày mai. Nhận một đợt vận chuyển mới, và rõ ràng là Griffith đòi quan sát tiến trình làm việc; lần đầu tiên ông ta ra khỏi phòng thí nghiệm trong mấy tuần liền, lần đầu tiên ông ta có vẻ quan tâm đến những gì mà những người chúng tôi đang làm. Mình biết điều này có vẻ ngu xuẩn, nhưng mình vẫn muốn gây ấn tượng với ông ta. Một thiên tài, giống như Birkin vậy, nhưng theo cái kiểu điên rồ của riêng mình. Mình nghĩ là có lẽ ông ta đã từng hăm doạ Birkin, nhưng hắn ta đại khái là quá ngu để mà biết sợ.”
“Còn nữa.”
Những trang còn lại đều bỏ trống. Rebecca ngẩng lên nhìn Steve, không rõ là phải nói cái gì nữa, cô đang cố tổng hợp lại các thông tin rời rạc trong đầu mình. Có cái gì đó khiến cô cảm thấy bất an, nhưng cô không rõ đó là cái gì. Những hoá chất bị biến mất, sự lây nhiễm. Một gã thiên tài, bệnh hoạn …
Cô cảm thấy chắc chắn là Griffith đã giết những người kia, nhưng đó không phải là điều khiến cô cảm thấy lo lắng, mà là …
“Khu D”,Steve la lên, một cái nhìn khiếp sợ hiện lên trên khuôn mặt của anh, “Nếu chúng ta đang ở trong khu A, thì Karen và John đang ở khu D.”
Nơi có thừa T-virus để lây nhiễm cho toàn bộ khu vực, nơi mà sự lây nhiễm đã diễn ra.
“Chúng ta phải gọi David ngay thôi”,Rebecca nói nhanh, Steve gật đầu, cả hai nhanh chóng chạy ra cửa, Rebecca hy vọng là họ sẽ không tìm ra căn phòng 101, và cho dù có tìm ra thì cũng sẽ không động chạm đến bất kỳ thứ gì có thể làm hại họ.
Phòng phân tích rất lớn, ba dãy tường đều là những phòng ngủ nhỏ. Khi đã mở đèn lên, anh nhận thấy là mỗi phòng đều được đánh số cẩn thận và có màu nhất định, các kí hiệu ở trên nền xi măng trước cửa.
Tất cả dãy màu đỏ đều ở bên tay phải, gần cái cửa nhất. Anh thấy những vật màu sắc rực rỡ, những khối hình đơn giản trên bàn ở mỗi phòng khi anh đi ngang qua chúng, phía cuối phòng. Những dãy màu xanh ở bức tường đối diện. Dù sao thì anh ta cũng phớt lờ chúng hết. Bức tường phía sau được đánh dấu bằng những tam giác màu xanh. Phòng số 4 nằm ở góc xa bên phải.
Khi đi gần đến cuối phòng, anh nghe thấy một tiếng ầm ì yếu ớt của năng lượng ở khu kiểm nghiệm màu xanh. Có một cái máy vi tính ở phòng số 2, một bàn phím, một điện đài ở số 3. Như đã hứa, các dãy đều đã được kích hoạt, cho dù là chúng được kết nối với cái gì đi nữa, anh không thể tưởng tượng được.
“ Không thể tưởng tượng được, và mình cũng chẳng quan tâm. Một khi đã giải quyết xong bài toán nhỏ này, chúng ta sẽ tìm thấy thứ đã bị giấu, cho dù nó là cái gì đi nữa, và chuồn khỏi cái nơi chết chóc này. Nhưng nó không thể xảy ra sớm như vậy được.”
David đã thấy tất cả những gì mà anh muốn thấy ở vịnh Caliban này rồi. Những xác chết ở hành lang cửa vào thật là kinh khủng, nhưng việc chúng sống lại khiến anh cảm thấy muốn bệnh, muốn ngay lập tức đưa đội của mình ra khỏi cái nơi chết tiệt này càng sớm càng tốt. Lũ Trisquad quá nguy hiểm và chết chóc, lại còn lũ quái vật trong vịnh nữa, chúng đúng là khủng khiếp, nhưng vẫn còn một thứ quái vật không giống bất kỳ thứ gì ẩn náu ở đâu đó, thứ đã giết chết người của anh và chất họ thành đống ở một nơi tối tăm. Nỗi sợ ớn lạnh này còn hơn cả nỗi sợ sự xảo trá của tập đoàn Umbrella, và anh lo rằng không biết một người có thể làm gì khi có cả một đội quân trang bị kỹ càng tìm cách ngăn chặn mình.
“ Chúng ta sẽ tìm ra những nguyên liệu, những ghi chép về Umbrella, và có khi là về cả loại T-Virus, sau đó sẽ vượt qua hàng rào an ninh, rời khỏi cái nơi điên loạn này. Để cho Feds lo phần còn lại. Nếu khôn thì họ sẽ cho nổ tung cả khu này, và thu thập tin tức lại trong đống tro tàn.”
Anh dừng lại ở ngăn cuối cùng, sực nhớ ra nhiệm vụ của mình. Nhưng anh không rõ là mình đang hy vọng tìm thấy cái gì. Nhưng dù sao thì bài kiểm tra số 4 cũng chẳng làm anh ngạc nhiên chút nào. Một cái bàn, một cái ghế, bằng kim loại xám. Trên bàn có một tập giấy, một cây bút chì, và một bộ cờ, các quân cờ đều được xếp ở đúng vị trí của nó. Khi bước vào trong, anh nhận thấy có một tấm thẻ bằng kim loại ở trên mặt bàn, một dãy số được khắc trên đó. David ngồi xuống ghế và nhìn ngó chúng.
9-22-3//14-26-9-16-8//7-19-22//8-11-12-7
Anh cau mày lại, ngó lên bàn cờ rồi lại nhìn những con số. Chẳng có gì khác nữa cả; chỉ có vậy. Anh sắp xếp lại những manh mối trong thông điệp của Ammon, tự hỏi câu trả lời sẽ là cái gì. Có phải là “Chữ và số đảo ngược lại,” hay là “đừng đếm?”. Khi mà mọi thứ có vẻ chẳng liên can gì đến thời gian, hay cầu vồng thì chắc chắn nó phải là một trong hai gợi ý trên …
“ Nếu như những hàng này có cùng một trật tự như câu đố, thì đây sẽ là dãy số và ký tự đảo ngược lại. Nhưng những ký tự nào, chẳng thấy đâu hết …”
Tự nhiên anh mỉm cười, lắc đầu. Những con số trên thẻ không vượt quá số 26; đây là một dạng mật thư, và là một dạng mật thư đơn giản đến khó tin. Anh vớ lây cây bút chì và ghi nhanh lại những chữ cái trong bảng chữ latinh, và sau đó là đánh dấu chúng ngược lại; A là 26, B là 25, cứ thế ngược lại đến chữ chữ cuối cùng Z: 1. Ngó qua ngó lại giữa tờ giấy và tấm thẻ. Anh viết những con số xuống và bắt đầu giải mã thông điệp.
R…E…X…M…
Chữ cuối cùng là “T”, anh nhìn xuống tờ giấy, rồi lại nhìn lên bàn cờ. Có vẻ đây là một người khá hài hước.
REX GHI ĐIỂM.
“Rex” tiếng la-tinh có nghĩa là “vua”.
“ Quân trắng luôn đi trước, vậy thì …"
Anh đưa tay với lấy quân vua trắng. Ngay khi ngón tay anh vừa chạm vào con vua, nó tự xoay tại chỗ, quay ngược ra về cái bảng. Ngay tức khắc, có một âm thanh nhẹ, giống như tiếng chuông ở ngay trên đầu. Anh ngẩng lên nhìn và thấy một loa nhỏ gắn ở trên trần nhà. Chẳng có gì khác xảy ra cả, không ánh đèn chớp hay lối đi bí mật phía sau bức tường nào hết. Có vẻ như anh đã vượt qua được rồi.
“ Nhảm nhí thật."
Có vẻ như đây là một bài kiểm tra tàn nhẫn đối với những thứ hầu như có trí não rỗng tuếch, một con Trisquad zombie chẳng hạn, có vẻ như những người nghiên cứu có kế hoạch cho một thứ gì khác, một thứ gì đó thông minh,… Một ý tưởng chẳng ai có thể nghĩ đến. Anh đứng dậy và đi ngược ra căn phòng ban nãy.
…Ngay lúc đó cánh cửa bật tung ra, Rebecca và Steve vội vã lao vào, cả hai đều mang nét mặt sợ hãi, lo lắng.
“Có chuyện gì vậy?”
Rebecca giơ quyển sách lên, nói nhanh:
“Chúng tôi tìm thấy một quyển nhật ký. Nó nói rằng loại virus được dùng để lây nhiễm lũ Trisquads ở trong khu D, trong phòng 101. Có thể sẽ chẳng có gì xảy ra hết, nhưng lỡ như John hay Karen đụng vào bất kỳ thứ gì đã bị nhiễm…”
Anh đã nghe quá đủ:“Nhanh lên.”
Họ quay lại và anh sải bước nhanh qua họ, dẫn tất cả theo lối họ vừa đi qua, tâm trí anh đang loạn cả lên. Họ đã đi qua lối ra ở phía cuối toà nhà, và anh bảo Steve và Rebecca đến khu vực tiếp theo trong khi anh đến khu D, theo đúng kế hoạch ban đầu, như thế nhanh hơn. Anh cảm thấy một nỗi sợ hãi tồi tệ cho hai người kia, chẳng may họ đã vô tình tìm thấy T-virus rồi thì sao.
“ Nó không thể xảy ra được, họ sẽ rất cẩn thận, khả năng họ bị trầy xước và đụng vào thứ gì đó nguy hiểm trong một nơi đã bị đánh dấu như phòng thí nghiệm là không thể."
Sự thật chắc chắn này chẳng làm cho anh yên tâm chút nào cả. Họ nhanh chóng đi đến cửa ra, có một nỗi lo sợ nhói lên trong người David.
Karen và John đứng trong một hành lang sáng trưng ở trung tâm khu D, lắng nghe bất kỳ âm thanh nào có thể cho thấy là David đã đến. Từ vị trí của mình họ có thể nghe thấy âm thanh phát ra từ cả 3 cánh cửa bên ngoài nếu chúng được sử dụng. Sau khi đã kiểm tra hết toà nhà và tìm ra phòng kiểm tra, họ đã chắn hết tất cả các lối dẫn đến cửa ra của dãy hầm. Karen kiểm tra đồng hồ và lấy tay dụi mắt, cô cảm thấy mệt lả đi sau tất cả những sự kiện tối nay, và vẫn thấy ghê tởm những gì họ đã tìm thấy ở phòng 101. Ngay cả John cũng có vẻ thờ ơ, và im lặng hơn hẳn bình thường. Anh không hề nói những câu bông đùa như mọi khi trong lúc họ quay lại chỗ hẹn.
“ Có khi là anh ta đang nghĩ đến những cái cán đẩy cứu thương, hay là những ống tiêm, hay là những dụng cụ phẫu thuật chất thành đống trong chậu rửa…"
Cả hai tìm thấy phòng kiểm tra trước, một căn phòng lớn với một đống bàn nhỏ, mỗi cái được đánh số từ 5 đến 8. Karen tỏ ra hơi thất vọng khi dãy màu xanh số 7 chỉ là một nhúm ngói, với những chữ cái ở bên trên, hơn nửa cái đống đó bị lật úp xuống và không thể đọc được gì hết. Tất cả đều phù hợp với màu của cầu vồng, ngoại trừ 2 mảng màu tím ở cái cột chống cũ rích. Khi mà họ không thể liều lĩnh đảo lộn mọi thứ ở đây cho đến khi David giải quyết xong bài kiểm tra đầu tiên, cô miễn cưỡng bỏ đi, tự nhủ là mình nên kiểm tra các nơi còn lại cái đã.
Họ đi qua một, hai phòng làm việc, chẳng có gì trong đó cả; và một căn phòng bừa bộn, nơi họ tìm thấy một cái hộp nhỏ xíu, mốc meo một cách kì lạ. Chính phòng thí nghiệm hóa học đã cho họ thấy những nơi mà Umbrella có thể xây nên, và mặc dù Karen không tin vào ma, căn phòng này khiến cô có một cảm giác kì lạ mà mình chưa bao giờ trải qua. Nơi này bị ma ám, điều này thật quá rõ ràng và đơn giản; nó bị ám bởi nỗi sợ hãi cùng cực, bầu không khí ảm đạm lạnh lẽo, sự chính xác của những nhà khoa học đã dẫn đến những hành đồng tàn khốc chống lại chính người của mình.
“Cô đang nghĩ về căn phòng đó đấy à?”,John nhẹ nhàng hỏi.
Karen gật đầu, nhưng cô không nói gì. John có lẽ đã nhận thấy là cô thực sự không muốn nhắc đến chuyện đó nữa, và cô rất lấy làm biết ơn vì điều này. Sức nặng của cái bùa may mắn cô đang đeo là thứ duy nhất có thể khiến cô dễ chịu vào lúc này, cô rất muốn tháo nó ra, để có thể nhớ lại những kí ức về cha cô, và về những nhiệm vụ đã qua. Bất kì thứ gì có thể khiến cô không nghĩ đến phòng thí nghiệm đó nữa … Cánh cửa bên ngoài lối vào phòng 101 đã được đánh dấu rõ ràng bởi dấu hiệu “chất độc nguy hiểm”, và họ đã nhanh chóng đồng ý là không thể đi kiểm tra tất cả các cửa được, John thì phản đối quyết liệt việc đi vào một khu vực chắc chắn bị nhiễm khuẩn. Karen đã chỉ ra là không ai trong hai người có bất kì vết cắt, hay trầy xước nào cả, và họ còn có thể tìm thấy thứ gì đó có liên quan đến T-virus để mà mang theo. Sự thật là cô không thể chấp nhận một cơ hội như vậy bị bỏ lỡ, cô muốn biết có thứ gì đằng sau cánh cửa bị khoá đó, chắc chắn là phải có thứ gì đó rồi. Bởi vì cứ để mặc cho nó bị khoá lại khiến cô không chịu được.
Cuối cùng thì John mới chịu đồng ý đi vào, bước vào một lối đi nhỏ, với những phiến nhựa lớn. Có một bảng chỉ dẫn chẳng có gì đáng chú ý ở ngay trên đầu, một bộ ống dẫn trên sàn, một khu vực khử độc. Cánh cửa thứ hai dẫn họ vào một giấc mơ điên loạn của những nhà khoa học. Thuỷ tinh lạo xạo dưới chân. Một thứ mùi hôi trộn lẫn với mùi thuốc tẩy. John tìm thấy công tắc đèn, nhưng thậm chí ngay cả trước khi mọi thứ trong phòng lọt vào tầm nhìn, Karen cảm thấy tim mình bắt đầu đánh trống trong lồng ngực. Có một sự căng thẳng bao trùm khắp mọi nơi, có cảm giác là mọi chuyện xuất phát từ những bức tường. Nó trông như hàng tá những phòng thí nghiệm mà cô đã từng làm, một số máy tính, vài cái kệ, hai bồn chứa kim loại, một cái tủ đông lạnh bự chảng bằng thép không gỉ ở một góc phòng với một cái khoá ở ngay móc. Nhưng còn một thứ tệ hơn nữa, khung cảnh này quá gần gũi quen thuộc, nơi mà cô luôn cảm thấy như ở nhà.
Những điểm khác biệt ít ỏi thì quả thật là gây ấn tượng rất mạnh mẽ. Chiếm chỗ gần hết căn phòng là một bàn mổ bằng kim loại không gỉ với những cái khoá dính, có thêm hai cái giường đẩy cũng được trang bị như vậy. Khi đi ngang qua để nhìn chúng, cô để ý thấy có những vệt bẩn đen bầm đã khô ở một đầu, có vẻ như miếng đệm mỏng đã bị thấm máu ở vị trí khớp với cổ chân và mắt cá của một người nào đó.
Ở cuối phòng có một cái lồng lớn, thậm chí là đủ lớn để một người có thể bước vào nữa, những thanh chắn bự chảng vây quanh một cái ghế dài. Ngay cạnh cái lồng có mấy cái cọc nhỏ dựng ngược vào tường, cái nào cũng dài 1m hay cỡ đó, bị khâu bịt kín đầu lại bằng da. Cái này giống như một loại nhạc cụ nào đó dùng thể thôi miên mấy con thú, cái này giúp cho người mổ không thật sự phải tiếp cận chúng. Karen ngó xuống cái giường đẩy, lấy tay chạm nhẹ vào một vệt bẩn đã khô. Cô thắc mắc là không biết loại người nào lại có thể tình nguyện tham gia vào mấy thí nghiệm kiểu này cơ chứ. Vệt máu đã khô từ lâu, đầy bụi, nó khiến cô thắc mắc không biết những nạn nhân đã phải chịu đựng thứ quái gì nữa, chờ đợi trong một cái lồng đến khi có người đeo găng đi vào và tiêm một thứ chất độc gì đó vào người, đưa virus vào một con người vô phương tự vệ…
Một nơi vô cùng tồi tệ, dành cho những việc làm mờ ám. Cả hai người đều cảm thấy như vậy, đều bị ám ảnh sau khi nhận ra những việc đã diễn ra ở đây.
Karen lại bị máy mắt nữa, nó kéo cô ra khỏi những hồi tưởng đáng sợ trở lại với thực tại. Cô dụi mắt rồi lại nhìn đồng hồ. Chỉ mới có 20 phút kể từ lúc họ tách nhóm, mặc dù là nó có vẻ lâu hơn rất nhiều.
Có tiếng cửa mở cùng tiếng hét kích động của David dọc theo dãy hành lang. Anh ta đã đi vào từ lối phía tây.
“Karen, John!”
John nhe răng ra cười với Karen, và cô cảm thấy yên tâm chút ít; David không sao hết.
“Đây này, cứ đi tiếp đi”,John gọi ngược lại “Rẽ phải ở ngã ba đấy.”
Tiếng bước chân của David vang vọng khắp đại sảnh, sau vài giây anh ta đã xuất hiện ở góc phòng, và chạy lại chỗ họ, nét mặt anh ta có vẻ lo lắng.
“Mọi chuyện có…?”,Karen vừa định hỏi thì anh ta đã cắt ngang lời cô:
“Hai người có tìm thấy phòng thí nghiệm không, phòng 101?”
John cau mày lại, nụ cười của anh hơi héo đi:“Ờ… nó ở ngược lại lối anh vừa vào đấy.”
“Có bất kì ai đụng vào thứ gì không? Có ai bị thương hay vết trầy xước nào có thể tiếp xúc với bất cứ thứ gì trong đó không?”
Sự bối rối của họ hẳn là đã lộ rõ ra. David nói nhanh, ngó nghiêng khắp người họ. “Bọn tôi tìm thấy một cuốn nhật ký, trong đó cho biết nơi mà lũ chúng nó đã lây nhiễm bọn Trisquad.”
John mỉm cười lại:“Không, chết tiệt thật. Tụi này đã hình dung ra được mọi thứ trong vài giây.”
Karen giơ tay lên, xoay chúng qua lại cho David thấy:“Không có vết trầy nào cả.”
David đã thở phào một cách dễ hiểu, vai anh chùng xuống:
“Cảm ơn trời, tôi đã có cảm giác tồi tệ nhất suốt đoạn đường đến đây là có thể có chuyện gì đó đã xảy ra với hai người. Chúng tôi đã tìm ra những nhà nghiên cứu ở khu A; Ammon đã đúng, hắn đã giết mọi người, và “hắn” của chúng ta đã có một cái tên rồi. Rebecca có vẻ chắc chắn đó là Nicolas Griffith, người duy nhất cô nhận ra trong danh sách của Trent, và hắn có một lý lịch khá là nhớp nhúa. Cô ta sẽ nói rõ hơn khi chúng ta tập họp lại…”.Anh lắc đầu, cười một cách lưỡng lự. “Tôi chỉ… tôi nghĩ là đã để cho trí tưởng tượng của mình đi quá xa trong chốc lát.”
John cười lớn hơn:“Ui dào, tôi chẳng biết anh lo lắng chuyện gì nữa. Hay anh nghĩ là chúng tôi sẽ chọc mấy cái thứ kinh tởm đó vào người ở một nơi như thế này.”
David cười lớn, nói một cách yếu ớt:“Tôi thành thật xin lỗi.”
“Steve và Rebecca đâu rồi?”,Karen hỏi anh.
“Chắc là cả hai đang ở khu thí nghiệm tiếp theo rồi. Tôi thấy họ đã đến khu B một cách an toàn trên đường đến đây … hai người có tìm thấy bài kiểm tra số 7 không?”
“Lối này”,John nói, và trong khi tất cả đang đi thì anh kể lại vụ rượt đuổi với đám Trisquad, Karen đi theo, dụi mắt liên tục một cách điên tiết khi mà mắt phải cô cứ thấy ngứa. Cô hẳn là đã làm nó sưng tấy lên khi cứ dụi như vậy. Nó có vẻ càng lúc càng tệ hơn. Và có lẽ cuối cùng thì cô cũng bắt đầu cảm thấy một cơn đau đầu sắp đến.
Cô lau mắt, tự thở dài với mình, cô không bao giờ bị đau đầu cả, trừ khi là sắp có chuyện. Bơi lòng vòng trong biển hẳn là đã khiến cô gần bệnh rồi, lại còn những thứ trong toà nhà này nữa, chuyện này chắc rồi sẽ tồi tệ lắm.