Tạ Bạch trời sinh đã không giỏi xác định phương hướng, những đêm sao giăng khắp trời mà hắn còn có thể rẽ nhầm đường, huống hồ gì cái đêm trên cao vỏn vẹn hai đốm sao lúc sáng lúc mờ chớp mắt là không thấy kia. Cũng may, trong rừng về đêm không chỉ có sao mà còn có vài thứ khác —
Một con quạ đột ngột bay ra khỏi chạc cây, lượn thành vòng cung rồi tung mình ra ngoài Hoàng Đầu Sơn. Nó quạt cánh kêu “Aa — Aa —” hai tiếng vang vọng đến tận trong thôn làng giữa bóng đêm tĩnh lặng.
Đêm không sao mà còn nhìn thấy quạ, Tạ Bạch vỗ vỗ đầu mèo mun nhí, rồi sảng khoái bước về hướng quạ đen vừa bay khỏi ban nãy.
Toàn bộ Hoàng Đầu Sơn thực chất là ba ngọn núi dài và hẹp nối liền, chẳng qua mấy ngọn núi này không nằm thẳng kề nhau mà quanh co uốn khúc, tựa vầng trăng lưỡi liềm bao quanh một cái hồ nhỏ. Đi về hướng ngôi làng chính là mặt ngoài Hoàng Đầu Sơn, còn hướng vào hồ là mặt trong.
Hiện tại Tạ Bạch muốn băng qua đỉnh núi thấp, đi từ sườn ngoài vào khe núi bên trong. Cành cây khô khốc và lá rụng rơi ngổn ngang khắp nền đất, Tạ Bạch bước bên trên song không phát ra một tiếng động nào. Chẳng mấy chốc, hắn đã tới nơi sáng sủa nhất trong khe núi.
Đây là mặt hồ có bề sâu chưa tới năm mét, xét theo địa hình xung quanh thì lẽ ra nó là một cái hồ rất sâu, nhưng trên thực tế có một đụn đất nhô cao với đường kính tầm hai mét. Sự hiện diện của đụn đất này cũng không nổi bật, nó chỉ hơi nhô hơn nền đất một xíu, nếu như Tạ Bạch không cực kỳ chú ý thì chưa chắc sẽ phát hiện ra.
Tạ Bạch quẹt hờ chân bên viền đụn đất, tay sờ đầu mèo mun và nói khẽ:
– Mộ không tên…
Hắn liếc nhìn xung quanh đụn đất thì thấy đúng là có ba cây liễu cạnh phần mộ, có điều ba cây liễu này đều đã úa tàn như đã bị người rút khô hết tinh khí và sức sống. Chúng nằm trơ trọi trên khoảnh đá lởm chởm với một tư thế rất kỳ dị. Thoạt trông chúng như ba bóng người còng lưng dang rộng hai tay.
Cây liễu vốn mang âm khí nặng, đặt bên cạnh mộ phần thì chắc chắn có lý do. Phương thức đặt ba cây liễu này trông như vô tình nhưng thật ra rất có chủ đích.
Tạ Bạch ôm mèo mun vòng quanh ba gốc cây một vòng, tính thầm trong lòng. Bước từ gốc cây thứ nhất sang gốc cây thứ hai và bước từ gốc cây thứ hai sang gốc cây thứ ba, sau đó từ gốc thứ ba về lại gốc thứ nhất thì khoảng cách tương tự nhau, như vậy ba cây liễu này bọc cả phần mộ không tên này vào bên trong.
Mà nhìn về hướng cành của ba cây liễu héo úa này thì thấy một cây chỉ hướng đông bắc, một cây chỉ hướng tây nam, cây còn lại một nhánh chỉ lên trời một nhánh chỉ xuống đất… đây chính là trận pháp “Đinh hồn liễu”.
Nói cách khác, có ai đó đã cố tình trồng ba cây liễu héo ở đây để trấn thứ nằm bên dưới mộ không tên này, cho nó vĩnh viễn không siêu sinh.
Song về sau không rõ xảy ra chuyện gì mà ba cành liễu này tu thành yêu, không chỉ thế tu vi còn không thấp. Kế đó bị người diệt mất, phân thây thành nhiều mảng khác nhau và dùng để lập trận trong bệnh viện Khang Hòa…
Tạ Bạch tặc lưỡi, quyết định chọn một điểm âm trước mộ không tên ngồi xuống, sau đó duỗi cánh tay xám xanh của mình bên trên đất mộ, ngón cái đưa hướng đông bắc, bốn ngón còn lại hướng tây nam để trấn quỷ môn. Hắn cúi đầu ho khan hai cái, kế đó ôm mèo đen và nhắm hai mắt lại.
Đúng như hắn dự đoán, không có bất kỳ thứ gì bên dưới phần mộ không tên này cả, đồ vật bên trong đã biệt tăm biệt tích tự khi nào, nó chỉ còn là một cái hố chứa đầy khí âm thi.
Thứ này có độc tính khá cao đối với người khác, nếu tiếp xúc nhẹ thì rữa thịt gây đau đớn, còn nặng e khó giữ được tính mạng. Song đối với Tạ Bạch nó chính là nhu yếu phẩm.
Khi còn nhỏ, hắn không ăn được đồ ăn như người bình thường, nhưng dù vậy khứu giác vẫn còn nên có thể ngửi được mùi. Ngặt nỗi ăn vào bụng sẽ có phản ứng bài xích rất nghiêm trọng, sau đó ói ra toàn bộ. Chỉ hút khí âm thi mới giúp hắn “nhét đầy bao tử” được mà thôi.
Hiện tại, hắn đã có thể hấp thụ thức ăn bình thường, nhưng khi thật sự “đói bụng” vẫn phải đi tìm khí âm thi ăn vào mới có tác dụng.
Hắn cau mày, khẽ nhếch một bên miệng thành một nụ cười châm biếm rồi hút sạch khí âm thi bên trong mộ không tên vào cơ thể. Thi khí vừa lạnh vừa ẩm bốc khỏi phần mộ không mấy dày dặn, liên tục xuyên vào bàn tay hắn đi vào thân thể.
Mèo mun nhí cúi thấp đầu, không biết đang nhìn phần mộ không tên kia hay đang nhìn Tạ Bạch.
Cánh tay phủ trên đất mộ của hắn vẫn gầy gò, mảnh mai và thẳng thớm như trước, do hơi cong xuống nên phần cơ xương trên mu bàn tay như phồng lên. Làn da chuyển màu xanh xám dần khôi phục trạng thái bình thường, trở lại vẻ nhợt nhạt, những đốm đỏ như tụ máu kia cũng dần tan ra, phai mờ và sau cùng biến mất hoàn toàn.
Đến khi hút sạch sẽ khí âm thi xong, hắn mới thu tay về đứng dậy.
Vì hút quá nhiều khí âm thi nên cánh tay hắn lạnh buốt cực kỳ, khí lạnh như tản ra từ từng khớp xương. Hắn vô thức định sờ lớp lông mềm ấm áp trên thân mèo mun nhí, song trước khi chạm vào đến nó thì dừng tay lại.
Hắn cúi đầu nhìn mèo mun nhí và hỏi khẽ:
– Tay ta vừa sờ mộ phần và hút thi khí, có sợ bẩn không?
Nhóc con này thế mà phản ứng lạ thường, nó ngửa mặt kêu meo một tiếng với Tạ Bạch rồi, ôm cổ hắn rồi dụi đầu vào lòng bàn tay Tạ Bạch, rất có khí khái một mực hy sinh chịu chết tràn trề bi thương.
Tạ Bạch: …
Hắn nhìn nhóc con này hứng khởi cọ cọ trong lòng bàn tay lạnh buốt của mình, nét cười châm biếm nơi khoé miệng nhạt dần, dường như mềm dịu đi song cuối cùng vẫn quay về vẻ mặt vô cảm.
Được chú mèo làm nũng lấy lòng như vậy, Tạ Bạch cũng không quên bản thân nó cũng cần được ăn. Hắn bèn sờ sờ nhúm lông mềm trên đỉnh đầu nó làm ấm tay, đồng thời bước tiếp đến bờ sông.
Con sông này còn nồng nặc tử khí âm u hơn cả Hoàng Đầu Sơn, giữa khe núi không một ngọn gió, trên mặt hồ phẳng lặng không gợn sóng, song nhìn vào lại có cảm giác dị thường không hài hòa như thể giả tạo. Hắn đi một vòng dọc bờ hồ nhưng không tìm được bất kỳ chỗ nào có sức sống.
Tạ Bạch vỗ cái đầu tròn vo của mèo con:
– Thôi, đến Ngư Dân Độ trước.
Nhóc con kia không biết có phải cọ trong tay Tạ Bạch đến chóng mặt rồi hay sao mà chỉ nằm tựa đầu trên vai Tạ Bạch chứ không đáp lời, không biết đang nghĩ gì.
Tạ Bạch cũng sẽ không hỏi ý thêm, khoát tay ném sương đen ra rồi lập tức rời khỏi Hoàng Đầu Sơn.
Ngư Dân Độ cách Hoàng Đầu Sơn một khoảng trung bình, tầm hai thành phố, nhưng đối với Tạ Bạch cũng chỉ tốn một chớp mắt là đến nơi. Đây là một bến thuyền cũ ở phía tây thành phố Sầm Vân, có cầu vòm bắc ngang, một dãy thuyền đánh cá đang xếp thành hàng bên dưới cầu. Tuy nhiên trên thuyền tối mịt không thấy một bóng người.
Nơi này hơi chếch về hướng bắc của thành phố Lâm, nhiệt độ ban đêm không chỉ hơi thấp hơn mà còn loáng thoáng đổ tuyết. Ánh đèn hai bên cầu soi tỏ những hạt bụi lất phất trong không khí.
Tạ Bạch hạ xuống trên cầu, liếc mắt nhìn bốn phía quanh thành cầu một lần rồi ôm sát mèo mun nhí bên mình, chống tay lên trụ cầu xoay người nhảy xuống.
Hắn lặng lẽ đáp trên một chiếc thuyền đánh cá, cả khi giẫm chân lên boong thuyền mà chiếc thuyền cũng không lay động dù chỉ đôi chút, chừng như nó chỉ vừa tiếp nhận một chiếc lá khô vậy.
Bến thuyền này không bị bao phủ xung quanh như Hoàng Đầu Sơn nên hắn cũng áng chừng được phương hướng. Tiếp đó hắn dùng thuyền đánh cá làm bàn đạp đi thẳng tới.
Qua bến thuyền này là nhánh nhỏ của một con sông, ở đằng xa rộng mênh mông, khi đến gần thì bị đất hai bên bờ đột ngột siết hẹp vào như một cái miệng phễu dài dẵng. Nơi đặt cây cầu vòm kia chính là điểm chót của miệng phễu. Bấy giờ, Tạ Bạch đã vòng qua miệng phễu và đến khu vực cửa sông rộng thoáng.
Chỗ hắn đứng ở phía đông, theo lý thuyết bờ tây là chỗ đối diện. Song đối diện nơi này là bên kia sông xa không thấy bờ, chỉ có một hòn cù lao nhỏ trơ trọi trên mặt sông có thể miễn cưỡng xem như hướng tây.
Tạ Bạch tặc lưỡi, lắc đầu lẩm bẩm:
– Xuống sai chỗ rồi.
Mèo mun nhí rầm rì trong cổ họng, nghe như một tiếng cười thô bỉ tỏ vẻ không nhờ cậy gì được ở khả năng dẫn đường của Tạ Bạch.
Tạ Bạch không chút nể nang gõ lên trán nó một cái, kế đó toan ném một tảng sương đen ra để di chuyển sang bên kia sông thì nhác thấy trên mặt đất cạnh chân mình có một món đồ màu đen, ở trên còn có linh khí phảng phất.
Hắn nghiêng người bước sang một bên rồi ngồi xuống, hơi chần chờ song vẫn quấn sương đen quanh tay rồi nhặt món đồ đen kia lên một cách chán ghét. Hắn xoa một chốc trên đầu ngón tay thì phần cháy đen lập tức tan thành tro, để lại một mảnh nhỏ màu nâu bên trong.
Đây rõ ràng là một tờ giấy đã sử dụng bị ai đó dùng linh hỏa đốt, nhưng giữa chừng thì bị thứ gì đó cản trở nên chưa cháy hết đã rơi xuống đất, để lại chút dấu vết như vậy.
Mảnh giấy trong tay Tạ Bạch còn nhỏ hơn cái móng tay, hắn cũng không nhận ra trước khi bị linh hỏa đốt thì đây là loại giấy gì.
Hẳn nhiên hắn cũng không thể cứ ngơ ngác đứng giữa trời tuyết như vậy, bèn cất mảnh giấy vào rồi dùng cổng Linh Âm mang mèo mun nhí sang sông, đích đến là hòn cù lao nhỏ giữa lòng sông.
Hòn cù lao này trông từ đằng xa không lấy gì làm lớn, mà nhìn gần thì nó bé xíu. Nói là cù lao nhỏ chứ thật ra bước mười bước đã tới bờ bên kia, thà bảo là một gò đất nhô ra giữa lòng sông thì đúng hơn. Nơi đây lau sậy thưa thớt, trên đỉnh có những cành lá dài úa vàng rủ xuống, đọng một lớp sương muối cực mỏng bên trên.
Tạ Bạch vừa đáp xuống đã thấy gò đất này có hơi dị thường, dọc bờ gò có một số nơi bước chân trở nặng giống như bị một thứ vô hình nào đó kéo xuống mặt đất vậy.
Hắn đi quanh hai vòng thì xác định được hai điểm: một là trung tâm gò đất và một là ở bên rìa. Từ rìa bên này tới rìa bên kia nếu không nhầm thì chính là “Bờ tây Ngư Dân Độ.”
– Tìm ra rồi.
Hắn gãi đầu mèo đen nói một câu xong duỗi tay bẻ một cán lau dài bên cạnh. Tay hắn cầm một đầu cán lau thử đập hai lần lên mặt sông, rồi khẽ lật cổ tay đẩy tới.
Nước sông bên mép gò đất bất chợt cuộn sóng lớn nổi bọt trắng như tuyết tựa chừng muốn nhấc tất cả mọi thứ dưới đáy sông lên.
Thực tế đúng là như vậy, hai con sóng lớn đổ ào qua kéo theo hai con cá múa may quay cuồng và một khối đen thui vào bờ.
Tạ Bạch bước lên một bước, bắt từng con cá lên lần lượt nhìn. Hai con cá hình thù kỳ dị, cổ dài thân đen bóng phản chiếu sắc nước, trông trơn tru như không vảy, cả vùng bụng đều thuần một màu đen, chỉ duy nhất con mắt cá trắng dã khảm trên đầu nó. Kỳ dị hơn chính là nó chỉ có một con mắt, bên còn lại không có bất kỳ thứ gì.
Tạ Bạch đã gặp đủ loại cá rồi nên cũng không mấy ngạc nhiên. Hắn cúi đầu, dùng ngón tay đã quấn băng đen kéo nhẹ bong bóng cá rồi ngồi xuống, khoát nước sông rửa sạch thân hai con cá rồi ném một cái phạch trước mặt mèo con:
– Giải trói linh thần cho mi rồi, đến ăn đi.
Mèo mun nhí: ……….
Giải trói linh thần rồi, mèo mun quả thật có thể cử động lại. Mà hẳn nhiên, nó đã bị đứng hình thành quan tài trước món đồ ăn đơn giản và thô thiển này, cứng đờ đến mức không kịp nảy ra phản ứng muốn nhảy xuống. Nó rơi trên đất chỉ đơn giản vì Tạ Bạch khoanh tay đứng dậy làm nó té ụp xuống.
Trừ bản thân và Ân Vô Thư, đời này của Tạ Bạch chưa nuôi qua bất kỳ vật sống nào, và dĩ nhiên ý nghĩa thật của nửa câu đầu phải nói trên phương diện khác.
Tóm lại, cho dù lai lịch chú mèo mun này bí ẩn thế nào đi nữa thì nó vẫn là thú cưng đầu tiên Tạ Bạch nuôi trong đời. Vạn sự khởi đầu nan, Tạ Bạch có thể khẳng định như vậy trong bi thương. Mèo mun ngồi trước mặt hai con cá đen kỳ dị thiếu điều còn to hơn cả người nó, mặt chàu quạu rõ ràng là muốn nhiệt liệt lên án Tạ Bạch.
Nhưng sự chú ý của Tạ Bạch dồn hết vào khối đen thùi nên hoàn toàn không hề để ý đến ánh mắt của mèo con.
Vừa rồi, hắn không phải ngẫu nhiên dùng cỏ lau vớt thứ dưới nước lên mà dựa vào thông tin từ cỗ yêu thi, không ngờ vớt lên hai con âm ngư còn sống nhăn răng với một khối rắn màu đen không rõ xuất xứ. Âm ngư là vì cùng nguyên hình với yêu thi, còn khối đen…
Tạ Bạch gõ gõ lên khối đen kia, sau dó thẳng tay lột lớp ngoài của nó ra.
Một khi lột bỏ phần da bên ngoài thì thứ bên trong sẽ lộ ra. Tạ Bạch nhìn kỹ đường vân một chút rồi nhận định đây là một khúc liễu.
Và hình dáng khúc liễu này khá thú vị, vuông đoạn trên và nhọn đoạn dưới, giống như một cây đinh gỗ được đẽo bằng tay. Nếu đầu gỗ rơi trong nước chắc chắn sẽ nổi lên bề mặt, nhưng khối đinh gỗ liễu này được bọc trong một lớp da rất nặng nề và còn khắc chú bên trên, nên nó vừa vào nước đã chìm, nằm yên dưới đáy sông.
Nhớ đến ba cây liễu trên mộ phần ban nãy, Tạ Bạch hiểu ngay tác dụng khối gỗ vuông này, nếu đoán không nhầm thì nó dùng để đóng đinh linh hồn giống như cây liễu chỗ mộ phần kia.
Thế nhưng thứ bị đóng đinh ở đây là gì? Tạ Bạch đoán mãi không ra — là đóng đinh con yêu âm ngư kia? Hay là có liên quan đến chính cái đinh?
Tuyết mịn rơi càng lúc càng dày trên mặt sông. Loại tuyết này quá nhỏ nên không thể đọng mà chỉ cần chạm vào thứ gì đó có nhiệt độ sẽ lập tức tan ra, không bám trên người bình thường được, hễ rơi vào đồ sẽ hóa thành nước, ám một tầng ẩm ướt bên ngoài quần áo.
Nhưng nó rơi trên người Tạ Bạch lại tan rất chậm, cuối cùng vẫn phủ một tầng mỏng trên vai hắn.
Ánh mắt mèo mun chù ụ không rõ vì sao bị thu hút bởi lớp tuyết đó, nó im lặng nhìn ngây ngốc một hồi lâu. Mãi đến khi Tạ Bạch cử động, trên cơ thể lại tỏa nhiệt làm lớp tuyết kia dần tan ra, mèo mun nhí mới dời mắt đi chỗ khác.
Tạ bạch thu khúc gỗ liễu về, ngoái đầu thấy mèo mun mắt đối mắt trợn trừng với con âm ngư, không hề có ý định ăn nó, bèn nói:
– Sao không ăn đi?
Ánh mắt Tạ Bạch dời từ mèo đen sang âm ngư rồi vòng lại, đằm giọng hỏi:
– Không đói à?
Mèo mun nhí: …
Tạ Bạch hỏi tiếp:
– Không ăn cá sống à?
Mèo mun nhí quẫy đuôi hai cái, cuối cùng cũng phản ứng lại.
Tạ Bạch đứng nhìn nó cả buổi từ trên cao cũng không nói gì, một lúc lâu sau mới trơ mặt hỏi thêm lần nữa:
– Mi cũng không ăn cá sống à?
Đặc biệt nhấn mạnh vào chữ “cũng”.
Mèo mun nhí: …
Một người một mèo đấu tranh trong thầm lặng một lát, Tạ Bạch mới nheo mắt, duỗi tay thu hai con âm ngư lại, cười như không cười bảo:
– Thôi được, mang nó về trước, về nấu Ngọc trắng điểm mực cho mi được không?
Mèo mun nhí: ………
Mèo không biết nói chuyện, ít nhất là trông có vẻ không biết. Thế nên khi nó cứ căng tròn mắt lên không kêu tiếng nào thì cũng khó lòng mà nói là nó giả ngu hay ngu thật.
Tạ Bạch để nó đó một hồi, đi thu thập những thứ cần thiết xong mới ôm nó lên, trói lại linh thần rồi toan rời khỏi gò đất giữa sông này.
Kết quả khi đã ôm mèo, sẵn sàng bước vào sương đen thì một cơn sóng lớn lại vỗ lên bờ, bọt sóng trắng xóa phủ trên một món đồ mỏng mảnh bị dạt vào gò đất.
Tạ Bạch: …
Hắn còn chưa kịp nghĩ còn sót lại thứ gì, cũng không biết cán lau sậy còn vớt tới tập sau nữa hay là nó bị kẹt từ đợt trước bây giờ mới hiện ra.
Hắn không rời đi nữa mà bước chân qua nhìn thử thì thấy món đồ bị dạt vào bờ trông như một mảnh lụa rách, mỏng manh gần trong suốt che trên cỏ khô dưới mặt đất.
Đây là gì? Vải quần áo à?
Tạ Bạch duỗi tay tính nhặt món đồ kia lên, ngờ đâu tay vừa chạm đến món đồ đã cảm thấy như bị một thứ gì đó đập mạnh vào tim, mang theo nỗi đau âm ỉ khó chịu, ngay tiếp đó não bộ cũng hụt hẫng mơ hồ trong nháy mắt.
Thế rồi, hắn nhận ra không chỉ con tim mình bị đóng đinh nặng nề, mà cả gò đất, thậm chí lòng sông đều chấn động hai đợt, những đợt sóng lớn bé lấy gò đất cuộn xa ra ngoài khắp bốn phía. Tạ Bạch cảm thấy hai chân bị rung động đến tê dại.
Hắn lắc đầu nguầy nguậy, muốn đẩy tiếng ong ong inh ỏi ra khỏi đầu.
Kết quả ngay khi thoát khỏi cơn choáng váng, hắn liền cảm thấy mảnh đất rắn chắc dưới chân sụp xuống, tan ra như tuyết giữa lòng sông, chỉ trong nháy mắt mà hoàn toàn đổ vỡ. Đó là kiểu sụp đổ như thể có người ở phía dưới kéo thẳng gò đất xuống đáy sông. Ngay khi lớp đất bên chân lún xuống, Tạ Bạch tức thì cảm thấy mắt cá chân bị một thứ gì đó với lực cực lớn khoá chặt lại, sau đó kéo mạnh hắn vào lòng sông.
Vị trí vốn dĩ của gò đất đã hoá thành vũng nước, tạo thành một lốc xoáy khổng lồ lấy Tạ Bạch làm tâm, sóng bạc cuồn cuộn quét qua nhanh chóng.
Tạ Bạch sặc một ngụm nước lớn, kế đó vung tay ném ra một mảng sương đen lớn, hắn vừa lật tay lại nó đã cắt ngang toàn bộ mặt sông như một lưỡi dao bén ngót. Nhân lúc bản thân vừa tách ra khỏi vòng xoáy, Tạ Bạch nhảy ngay vào sương đen.
Một lát sau, hắn xuất hiện giữa nơi ở với một thân thể ướt sũng, tay ôm con mèo.
Bởi trong nhà có cây Vạn Linh, hắn vốn không nên mở cổng Linh Âm thường xuyên vì mỗi lần như vậy sẽ gây nguy hiểm cho cây Vạn Linh và gián tiếp gây nguy hiểm cho chính bản thân. Nhưng những lúc thế này hắn không thể bận tâm nhiều vậy…
Nếu là một năm về trước, với hắn chuyện như vậy chẳng qua cũng chỉ là gãi ngứa chứ không đáng sợ và cũng không có bất kỳ hệ quả gì về sau, song hiện tại hắn không thể thoải mái hành động như thế được. Bởi tầm một năm trở lại đây, cơ thể hắn trở xấu một cách khó hiểu. Trước đây nếu có ai bảo Âm khách sợ lạnh, dễ ớn lạnh, mắc những căn bệnh của người thường thì nghe vào nực cười lắm. Nhưng năm nay hắn cảm thấy cơ thể mình đang có xu hướng chuyển sang trạng thái của người bình thường thật. Nhất là khoảng hơn nửa tháng nay, không hiểu sao hắn lại ho khan vì trở trời, cơn ho liên miên không dứt mà càng lúc càng nghiêm trọng hơn.
Tận khi hắn đứng vững trên nền đất rồi mà dư chấn từ lòng sông ban nãy vẫn chưa biến mất hoàn toàn, trong tai trong đầu hắn vẫn văng vẳng tiếng ù ù khiến hắn có chút buồn nôn.
Hắn tái mặt ôm mèo đứng yên tại chỗ, đầu hơi cúi nhưng lưng vẫn thẳng tắp theo thói quen. Chờ một chốc sau, hắn mới truất hết nước khỏi thân thể, sải bước tới ngồi xuống sô pha.
Không rõ vì sao, khi nhắm hai mắt lại để cân bằng cảm giác choáng váng, hắn chợt nhớ về điều Ân Vô Thư nói với hắn khi còn nhỏ.
– Hết chương 10 –