Chương 104: Chương 31 - Phần 2
Thở dài, Renly nghiêng người quay lại. “Tôi nên làm gì với người anh trai này của mình đây, Brienne? Anh ta từ chối quả đào của tôi, từ chối lâu đài của tôi, anh ta thậm chí còn từ chối tham dự đám cưới của tôi…”
“Cả tôi và cậu đều biết đám cưới đó là một trò khôi hài vụng về. Một năm trước cậu vẫn đang có kế hoạch biến đứa con gái đấy thành người tình của Robert.”
“Một năm trước tôi có kế hoạch biến cô gái đó thành hoàng hậu của Robert,” Renly sửa lại, “nhưng cái đó thì có vấn đề gì? Con lợn rừng có Robert và ta có Margaery. Anh sẽ rất mừng khi biết rằng cô ấy còn là trinh nữ khi đến với ta.”
“Cô ta thà chọn số phận của Robert còn hơn phải lên giường với cậu.”
“Ồ, ta hy vọng sẽ có con trai với cô ấy trong năm nay. Nhân thể, anh có bao nhiêu đứa con trai vậy, Stannis? Ô, ta quên mất, anh chẳng có đứa nào.” Renly độc ác mỉm cười. “Về sự tình xảy ra với đứa con gái của anh, ta hoàn toàn hiểu. Nếu vợ ta cũng trông giống vợ anh, ta cũng sẵn sàng cử thằng hề đến phục vụ như thế.”
“Đủ!” Stannis gầm gừ. “Ta sẽ không cho phép cậu xúc phạm ta thêm nữa, nghe rõ không? Ta không cho phép.” Hắn đột nhiên rút kiếm, lưỡi kiếm sáng lên trong ánh mặt trời nhạt, lúc thì màu đỏ, lúc thì màu vàng, lúc thì trắng sáng. Không khí xung quanh dường như cũng cảm nhận được nhiệt lực từ mũi kiếm theo mỗi lần chuyển màu. Brienne di chuyển vào giữa các anh, tay nắm chặt thanh kiếm. “Buông thanh kiếm ra,” cô hét với Stannis.
Catelyn vô lực nghĩ: Cersei Lannister mà có mặt ở đây chắc cười chết mất.
Stannis chỉ thanh kiếm lấp lánh về phía anh trai. “Ta không phải là người khắc nghiệt,” ám chỉ hắn luôn bị mang danh ác là khắc nghiệt, “ta cũng không muốn dùng thanh Lightbringer lấy máu em trai, vì nghĩ đến người mẹ đã sinh thành ra cả hai anh em, vì vậy ta sẽ cho cậu cơ hội cuối cùng là tối nay để suy nghĩ lại về những lỗi lầm của mình, Renly. Hãy hạ cờ và đến gặp ta trước bình minh, ta sẽ cho cậu quyền quản lý Storm’s End và cái ghế ngồi trong hội đồng như trước kia, thậm chí ta sẽ trao cho cậu quyền thừa kế của ta cho đến khi con trai ta được sinh ra. Ngược lại những điều trên, ta sẽ phá hủy cậu.”
Renly bật cười lớn. “Stannis, anh có thanh kiếm thật đẹp. Ta thật ghen tị, nhưng ta thực nghi ngờ ánh sáng của nó đã ảnh hưởng đến tầm nhìn của anh. Hãy nhìn khắp bình nguyên này xem, anh trai, anh có thể nhìn thấy tất cả những cờ hiệu đó không?”
“Cậu nghĩ vài tay giá áo túi cơm đó sẽ giúp cậu xưng vương được à?”
“Quân đội Tyrell sẽ giúp ta xưng vương. Nhà Rowan, Tarly và Caron cũng tôn ta là vua, với búa và rìu. Những cung thủ nhà Tarth và thương nhà Pensose, Fossoway, Cuy, Mullendore, Estermont, Selmy, Hightower, Oakheart, Crane, Caswell, Blackbar, Morrigen, Beesby, Shermer, Dunn, Footly… thậm chí gia tộc Florent, huynh đệ và chú bác của vợ anh, cũng giúp ta xưng vương. Tất cả các hiệp sĩ miền Nam đều đồng hành cùng ta. Và đó là phần nhỏ nhất trong quân lực của ta.”
Bộ binh của ta sẽ tới sau, hàng trăm ngàn lính được trang bị gươm và giáo. Và anh muốn hủy diệt ta sao? Bằng cái gì? Cầu nguyện à? Hay bằng đám quân ô hợp dưới tường thành kia? Ta cho nhiều nhất được năm ngàn, những quý tộc cá tuyết và những hiệp sĩ hành và những tay lính đánh thuê. Một nửa trong số họ đã rất muốn đầu nhập ta trước khi trận chiến này bắt đầu. Lính trinh sát nói với ta, anh có ít hơn bôn trăm con ngựa - những kỵ sĩ tự do chỉ mật áo giáp da đánh lại áo giáp sắt. Ta không quan tâm anh có bao nhiêu kinh nghiệm chiến trường và nghĩ rằng mình bất khả chiến bại, Stannis, nhưng đội quân của anh sẽ tan tác chỉ bằng cú tấn công đầu tiên của ta.”
“Chúng ta hãy cùng xem, em trai.” Vài tia sáng có vẻ lọt ra ngoài khi Stannis đút thanh kiếm vào trong vỏ. “Để bình minh lên rồi chúng ta hãy xem kết quả.”
“Ta hy vọng tân thần sẽ thương xót anh, anh trai.”
Stannis khịt mũi và quay người đi đầy khinh bỉ. Nữ hồng tế khẽ quay người ra sau. “Hãy nhìn vào tội lỗi của chính mình, lãnh chúa Renly,” cô ta nói khi quay ngựa.
Catelyn và lãnh chúa Renly cùng nhau về về trại, nơi có hàng ngàn lính của hắn và vài người của bà đang đợi họ quay về. “Buổi diễn thú vị nếu không xét đến giá trị nghèo nàn,” hắn bình luận. “Ta tự hỏi có thể kiếm được thanh kiếm giống thế ở đâu đây? À, chắc chắn Loras sẽ dâng ta món quà đó sau trận chiến này.
N.g.u.ồ.n. .t.ừ. .s.i.t.e. .T.r.u.y.e.n.G.i.C.u.n.g.C.o...c.o.m. Bảo vật này giờ phải chuyển chủ khiến ta khá buồn.”
“Cậu có cách bày tỏ nỗi buồn thật vui,” Catelyn nói, không thể che giấu nổi nỗi thất vọng của mình.
“Ta sao,” Renly nhún vai, “có lẽ đúng thế thật. Ta thừa nhận, Stannis chưa bao giờ là người ta thích nhất. Bà nghĩ câu chuyện của anh ấy có đáng tin không? Liệu Joffrey có thật là con của Kẻ Giết Vua…”
“… và anh trai ngài là người thừa kế hợp pháp.”
“Khi anh ấy còn sống,” Renly thừa nhận, “dù luật đó thật ngu ngốc, bà có đồng ý không? Tại sao là đứa con cả mà không phải là đứa thích hợp nhất? Vương miện đó phù hợp với ta, chứ chưa bao giờ phù hợp với Robert và càng không phù hợp với Stannis. Ta có sẵn tố chất trở thành vị vua vĩ đại, mạnh mẽ nhưng rộng lượng, thông minh, kiên nhẫn, giữ chữ tín với bạn bè và sẵn sàng giáng những đòn khủng hiếp vào kẻ thù, nhưng cũng có khả năng tha thứ…”
“… khiêm tốn thì sao?” Catelyn bổ sung.
Renly cười lớn. “Phu nhân, bà hãy cho phép một vị quân vương có vài nhược điểm.”
Catelyn cảm thấy vô cùng mệt mỏi. Cuối cùng bà cũng chẳng đạt được gì. Anh em nhà Baratheon đã lâm vào cảnh huynh đệ tương tàn trong khi con trai bà phải một mình đối mặt với gia tộc Lannister, và bà chẳng thế nói hay làm được gì để chấm dứt chuyện đó. Bà nghĩ có lẽ đã đến lúc nên quay lại Riverrun để vuốt mắt cho Cha. Đó là điều tốt nhất mình có thể làm bây giờ. Mình có thể là một sứ giả thất bại, nhưng vẫn là một người vợ góa tốt. Cầu các chư thần phù hộ.
Doanh trại của họ được lập trên ngọn đồi đá thấp, chạy theo hướng tư Bắc đến Nam. Mặc dù tản ra bốn phía nhưng vẫn rất trật tự. Ngay khi được thông báo rằng anh trai sẽ chiếm đánh Storm’s End, Renly đã tập hợp lực lượng, nhưng Robb đã làm ở Twins. Quân bộ binh đã tiến đến phía sau tại Bitterbridge cùng với hoàng hậu trẻ của hắn, quân lương, hành lý, động vật và tất cả máy bắn đá, trong khi Renly tự mình dẫn các hiệp sĩ và kỵ sĩ tiến về phía Đông.
Những hành động của hắn giống y ông anh trai Robett, nhưng khác nhau là Robert luôn có Eddard Stard đồng hành, Ned chắc chắn sẽ dàn xếp ổn thỏa mọi mặt trận để Robert chỉ việc dẫn quân đến đánh, ông ấy sẽ bao vây Stannis bốn phía. Renly đã bỏ quên mất hành động này, gấp gáp chạy đến chiến đấu với anh trai mình. Hắn đã bỏ mất đường cung cấp lương thực, bỏ gia súc cũng như các xe hàng, tất cả đều ở phía sau. Giờ hoặc là hắn phải đánh nhanh thắng nhanh, hoặc là sụp đổ.
Catelyn cử Hal Mollen đi chăm sóc ngựa trong khi bà theo Renly quay trở về trại lớn nằm ở trung tâm của doanh trại. Bao quanh doanh trại là những dải lụa xanh, bên trong đó các chỉ huy và quý tộc đang đợi để nghe tin tức về cuộc đàm phán. “Anh trai ta chẳng thay đổi gì cả,” vị vua trẻ nói với họ trong khi Brienne giúp hắn cởi áo choàng và vương miện. “Lâu đài và sự lễ độ không khiến hắn thỏa mãn. Hắn muốn máu đổ xuống. À ta rất mừng giúp hắn đạt được điều mong muốn.”
“Thưa bệ hạ, thần không thấy phải cần thiết tiến hành cuộc chiến ở đây.” Đại nhân Mathis Rowan cất lời. “Lâu đài rất vững chắc và bất khả xâm phạm. Hiệp sĩ Cortnay Penrose là chiến binh kỳ cựu, và không tòa thành nào có thể sánh với những tường thành của Storm’s End. Hãy để lãnh chúa Stannis vây thoải mái. Hắn sẽ không có cách nào tấn công được vào, quân đội của hắn sẽ sớm bị lạnh, đói và khát. Trong lúc đó chúng ta sẽ tấn công Vương Đô/ King’s Landing.”
“Và tất cả mọi người sẽ nói ta sợ đối mặt với Stannis?”
“Chỉ có những thằng ngu mới nghĩ thế,” Đại nhân Mathis phản bác.
Renly nhìn những người khác. “Còn ai có ý kiến gì khác không?”
“Thần cho rằng Stannis đang chọc tức ngài,” Đại nhân Randyll Tarly tuyên bố. “Nếu để hắn bình yên rời khỏi đây, hắn sẽ chỉ mạnh hơn thôi, trong khi sức mạnh của chúng ta suy giảm trong chiến trận. Gia tộc Lannister sẽ không thể bị đánh bại trong ngày một ngày hai. Trong lúc ngài chiến đấu với gia tộc Lannister thì thực lực của hắn sẽ đuổi kịp ngài… hoặc mạnh hơn.”
Những người khác lên tiếng phụ họa. Đức vua trông có vẻ rất vui mừng. “Vậy thì chúng ta sẽ đánh.”
Catelyn nghĩ: Mình đã khiến Robb thất vọng cũng như mình khiến Ned thất vọng. “Đại nhân,” bà cất cao giọng, “nếu ngài quyết định tham gia cuộc chiến này thì nhiệm vụ của tôi đến đây là kết thúc. Xin phép cho tôi quay trở lại Riverrun.”
“Bà vẫn chưa thể rời khỏi đây được,” Renly tự tìm ghế và ngồi xuống.
Bà choáng váng. “Tôi đến để mang theo hòa bình, đại nhân, chứ tôi không đến đây để hỗ trợ chiến tranh.”
Renly nhún vai. “Phu nhân, ta bảo đảm chúng ta sẽ chiến thắng mà không cần đến tình bạn hai mươi lăm năm của bà. Ta không định buộc bà tham gia trận chiến này, chỉ nhìn thôi.”
“Đại nhân, tôi đã nhìn thấy nó ở Khu rừng Whispering Wood. Tôi đã nhìn thấy cảnh giết chóc đủ rồi, và tôi đến đây như một sứ giả…”
“Và bà cũng rời khỏi đây như một sứ giả,” Renly nói, “nhưng là một sứ giả có cái nhìn mới hơn so với khi bà đến đây. Bà sẽ tận mắt thấy số phận dành cho kẻ phản bội, để con trai bà có thể lắng nghe câu chuyện từ chính bà. Chúng tôi sẽ bảo vệ bà an toàn, đừng sợ.” Hắn quay người sang hướng khác. “Đại nhân Mathis, ông sẽ chỉ huy lực lượng chính đánh thẳng vào trung tâm. Bryce, ông sẽ dẫn cánh quân đánh vào mạn trái, ta sẽ đánh bên mạn phải. Đại nhân Estermont, ông phụ trách hậu cần.”
“Thần sẽ không khiến bệ hạ thất vọng,” Đại nhân Estermon trả lời.
Đại nhân Mathis Rowan cất lời. “Ai sẽ là quân tiên phong?”
“Bệ hạ,” Hiệp sĩ Jon Fossoway cất lời. “Thần mong nhận được vinh dự đó.”
“Dù anh có yêu cầu,” hiệp sĩ Guyard biệt danh Green nói, “thì theo luật nhiệm vụ này thuộc về một trong bảy cận vệ.”
“Cần nhiều hơn một cái áo choàng đẹp để làm một tấm chắn tốt,” Randyll Tarly tuyên bố. “ Lúc tôi đang chỉ huy đội quân tiên phong của Mace Tyrell thì cậu vẫn còn trong tã bú tí mẹ, Guyard.”
Những tiếng phản đối cất lên rào rào, mọi người đều hét to yêu cầu của mình. Catelyn nghĩ đúng là các hiệp sĩ mùa hè. Renly giơ tay lên. “Các đại nhân, đủ rồi. Nếu ta có mười hai đội quân tiên phong thì chắc chắn tất cả mọi người ở đây đều được chỉ huy, nhưng vinh quang lớn nhất phải thuộc về hiệp sĩ vĩ đại nhất. Do vậy Hiệp sĩ Loras là lựa chọn đầu tiên.”
“Bệ hạ, thần cảm kích tận đáy lòng.” Viên hiệp sĩ của gia tộc Flower quỳ xuống trước nhà vua. “Xin được chúc phúc toàn quân và xin bệ hạ cử ra một hiệp sĩ mang cờ của người cạnh thần. Hãy để tuần lộc và hoa hồng cùng ra trận chiến đấu.”
Renly nhìn hắn và gọi: “Brienne.”
“Thưa bệ hạ,” cô vẫn mặc bộ áo giáp bằng sắt xanh dù đã cởi mũ. Trong lều khá nóng và mồ hôi ướt nhẹp mái tóc vàng dính trên mặt. “Nơi của thiếp là bên cạnh bệ hạ. Thiếp đã thề sẽ bảo vệ người…”
“Là một trong bảy cận vệ,” nhà vua nhắc nhở cô. “Đừng bao giờ sợ hãi. Bốn đồng nghiệp của nàng sẽ cùng ta ra chiến trường.”
Brienne quỳ xuống. “Nếu thiếp phải rời xa bệ hạ, xin hãy để thiếp được giúp ngài mặc áo giáp.”
Catelyn nghe thấy thấy ai đó phía sau đang cố nén cười. Cô ấy yêu hắn, bà buồn bã nghĩ, thật tội nghiệp. Cô ấy tham gia trò chơi của hắn chỉ để được ở bên cạnh hắn, không bao giờ để ý đến việc bọn họ nghĩ cô ấy chỉ là một con ngốc.
“Ta cho phép,” Renly nói, “giờ thì tất cả mọi người rời khỏi đây đi. Ngay cả quân vương cũng phải nghỉ ngơi trước trận chiến.”
“Đại nhân,” Catelyn nói. “Chúng ta vừa đi qua một nhà thờ nhỏ ở làng gần đây. Nếu ngài không cho phép tôi quay lại Riverrun thì hãy để tôi đến đó và cầu nguyện.”
“Cứ làm theo ý bà. Hiệp sĩ Robar, hãy đưa Phu nhân Stark an toàn đến nhà thờ đó… nhưng nhớ đưa bà ấy trở lại trước bình minh.”
“Ngài cũng có thể cầu nguyện,” Catelyn thêm vào.
“Để chiến thắng ư?”
“Để lý trí hơn.”
Renl cười lớn. “Loras, hãy ở lại và giúp ta cầu nguyện. Đã quá lâu rồi nên ta không biết làm việc đó thế nào. Những người còn lại, ta muốn mọi người ở vị trí của mình ngay khi tia nắng đầu tiên bắt đầu xuất hiện, áp giáp mặc đầy đủ, vũ khí sẵn sàng và lên ngựa. Chúng ta sẽ giúp cho Stannis không thể quên được buổi bình minh này.”
Khi Catelyn rời khỏi lều, một nửa mặt trời đã khuất núi. Hiệp sĩ Robar Royce lặng lẽ đi cạnh bà. Bà biết hắn là con trai của Bronze Yohn, lớn lên thật khôi vĩ, có chút danh trong các cuộc thi đấu. Renly đã trao cho hắn một chiếc áo choàng cầu vồng cùng một bộ áo giáp đỏ phù hợp và ban danh là một trong bảy cận thần. “Hiệp sĩ, cậu đã đi một quãng đường dài từ Vale,” bà nói với hắn.
“Và bà cũng ở xa thành Winterfell, thưa phu nhân.”
“Ta biết thứ gì mang ta đến đây, nhưng còn cậu, sao cậu lại đến? Đây không là cuộc chiến của cậu, cũng như không phải của ta.”
“Tôi đã biến nó thành cuộc chiến của mình từ lúc tôn Renly là vua.”
“Gia tộc Royce chiến đấu dưới là cờ của gia tộc Arryn.”
“Cha tôi thề trung thành với Phu nhân Lysa, người thừa kế của ông ấy cũng vậy. Nhưng đứa con thứ hai sẽ phải tự tìm vinh quang ình,” Hiệp sĩ Robar nhún vai. “Người đàn ông trưởng thành sẽ chán ghét những cuộc thi đấu võ suông.”
Hắn không thể quá hai mươi mốt tuổi, Catelyn nghĩ, ở độ tuổi của người mà hắn tôn làm vua… nhưng còn vua của bà, Robb của bà, dù lên ngôi ở tuổi mười lăm cũng lý trí hơn những người này nhiều lắm. Hoặc là bà cầu nguyện thế. Trong góc lều nhỏ của Catelyn, Shadd đang gặm cà rốt, Hal Mollen đang chơi bài với ba lính thành Winterfell, Lucas Blackwood ngồi mài dao. “Phu nhân Stark,” Lucas cất lời khi nhìn thấy bà. “Mollen nói rằng cuộc chiến sẽ xảy ra vào lúc bình minh.”
“Hal có thông tinh chính xác,” bà trả lời. Và bà đã quên có người nói nhiều. “Chúng ta tham chiến hay đi đâu?”
“Chúng ta sẽ cầu nguyện, Lucas ạ,” bà trả lời hắn, “chúng ta cầu nguyện.”
Chương 105: Chương 32
Anh đã đúng. Cô có lý do.
“Đó là một câu chuyện dài.”
“Anh có cả đêm cơ mà,” anh trả lời.
“Anh thật sự nghĩ là em có tài à?” cô khẽ hỏi.
“Thôi nào,” anh nói, vươn tay ra nắm lấy tay cô, “anh muốn chỉ cho em thấy cái này.”
Cô đứng lên và đi theo anh qua cửa tới phòng khách. Anh dừng lại ở trước lò sưởi và chỉ vào bức tranh treo bên trên. Cô há hốc mồm, kinh ngạc, ngạc nhiên vì đã không để ý đến nó từ trước, ngạc nhiên hơn vì nó lại ở đấy.
“Anh vẫn giữ nó ư?”
“Dĩ nhiên là anh giữ nó. Nó thật tuyệt vời.”
Cô nhìn anh nghi hoặc, và anh giải thích.
“Ngắm nó khiến anh cảm thấy mình còn sống. Thỉnh thoảng anh phải tỉnh dậy và sờ vào nó. Nó thật sống động – những hình khối, bóng, màu sắc. Anh đôi khi còn mơ thấy nó. Thật là tuyệt vời, Allie – anh có thể nhìn chăm chú nó hàng giờ.”
“Anh đùa đấy à?” cô sửng sốt.
“Anh chưa bao giờ đùa.”
Cô không nói gì.
“Em muốn nói với anh là trước đây chưa ai từng nói với em điều đó ư?”
“Thầy giáo của em có nói,” cuối cùng cô cũng nói, “nhưng hình như em không tin ông ấy.”
Anh biết chuyện không chỉ vậy. Allie nhìn đi chỗ khác rồi tiếp tục.
“Em vẽ từ nhỏ. Em đoán là khi lớn hơn một chút, em bắt đầu nghĩ mình vẽ giỏi. Em cũng thích vẽ. Em nhớ bức này em đã vẽ hồi mùa hè năm đó, mỗi ngày lại vẽ thêm, thay đổi nó khi mối quan hệ của chúng ta thay đổi. Em còn không nhớ đã bắt đầu vẽ nó như thế nào hoặc muốn nó trông ra sao, nhưng nó có liên quan đến việc này.
“Em còn nhớ đã không thể ngừng vẽ sau khi về nhà vào mùa hè đó. Em nghĩ đó là cách để em tránh nỗi đau lúc ấy em phải chịu. Dù sao thì cuối cùng khi vào đại học, em dã theo chuyên ngành mỹ thuật vì đó là việc em phải làm; em còn nhớ đã ngồi một mình hàng tiếng trong studio và thưởng thức từng phút một. Em yêu sự tự do mình cảm thấy khi sáng tạo, cái cách sự tự do ấy gây cảm xúc trong em để tạo ra thứ gì đó đẹp đẽ. Ngay trước khi em tốt nghiệp, thầy giáo của em, người tình cờ cũng là một nhà phê bình trên báo, bảo em rằng em có tài. Ông bảo em nên thử làm một nghệ sĩ xem sao. Nhưng em đã không nghe ông.”
Cô ngừng lại ở đó, cố tập trung những suy nghĩ của mình.
“Cha mẹ em không nghĩ một người như em kiếm sống bằng nghề vẽ là thích hợp. Một thời gian sau em ngừng vẽ. Đã hàng năm nay em không hề đụng đến cọ.”
Cô nhìn bức tranh chăm chú.
“Em có nghĩ mình sẽ vẽ lại không?”
“Em không chắc là em có thể vẽ được nữa. Đã lâu lắm rồi.”
“Em vẫn có thể, Allie. Anh biết em có thể. Em có một tài năng đến từ trong con người em, từ trái tim em, chứ không phải từ những ngón tay em. Thứ em có không bao giờ biến mất. Đó là thứ mà những người khác chỉ có thể mơ thấy thôi. Em là một nghệ sĩ, Allie.”
Những câu ấy thốt ra chân thành đến nỗi cô biết anh nói không phải để tỏ ra lịch sự. Anh thật sự tin vào khả năng của cô, và vì lý do nào đó điều ấy có ý nghĩa đối với cô hơn cô tưởng. Nhưng rồi có gì khác xảy ra, một thứ vô cùng mạnh mẽ.
Tại sao nó lại xảy ra, cô không bao giờ biết, nhưng đó là khi vực thẳm đã bắt đầu khép miệng lại với Allie, vực thẳm mà cô đã dựng lên trong cuộc đời để ngăn cách nỗi đau với niềm vui sướng. Và khi đó cô ngờ, có lẽ không vô thức, rằng điều này mang nhiều ý nghĩa hơn mức cô muốn thừa nhận.
Nhưng vào khoảnh khắc ấy, cô vẫn chưa hoàn toàn nhận ra nó, và cô quay sang đối diện anh. Cô vươn tay ra chạm vào tay anh, rụt rè, nhẹ nhàng, kinh ngạc rằng sau bao nhiêu năm như thế anh vẫn biết chính xác điều cô cần được nghe. Khi ánh mắt họ khóa chặt với nhau, cô lại một lần nữa nhận ra anh thật đặc biệt biết bao.
Và chỉ trong một khoảnh khắc sượt qua, một sợi thời gian mỏng mảnh treo lơ lửng trong không trung như những con đom đóm trên bầu trời mùa hè, cô tự hỏi có phải mình lại đang yêu anh.
Một tiếng ding báo hiệu thời gian đặt giờ lò nướng đã hết, Noah quay đi, phá vỡ khoảnh khắc ấy, những điều vừa xảy ra với họ tác động kỳ lạ đến anh. Đôi mắt cô nói chuyện với anh, thì thầm điều gì đó anh khao khát muốn nghe, vậy mà anh không thể ngừng giọng nói trong đầu anh, giọng nói của cô, giọng kể cho anh nghe về tình yêu của cô với một người đàn ông khác. Anh thầm nguyền rủa cái lò đặt giờ khi đi vào bếp và nhấc bánh mì ra khỏi đó. Anh suýt làm tay mình bỏng, đánh rơi ổ bánh trên bàn bếp và nhận ra chảo rán đã sẵn sàng. Thế rồi vừa lẩm bẩm với chính mình anh vừa lấy ít bơ từ ngăn lạnh ra, phết một ít lên bánh mì, và đun chảy một ít nữa để làm cua.
Allie theo anh vào bếp và hắng giọng.
“Em dọn bàn bây giờ nhé?”
Noah chỉ con dao cắt bánh, “Được chứ, đĩa ở đằng kia. Đồ dùng nhà bếp và khăn ăn ở kia. Lấy nhiều vào nhé – món cua có thể rất phiền phức, vì thế chúng ta cần nhiều khăn.” Anh không thể nhìn cô khi nói. Anh không muốn nhận ra mình đã nhầm về điều vừa mới xảy ra giữa họ. Anh không muốn đó là một nhầm lẫn.
Allie cũng đang phân vân về khoảnh khắc ấy và cảm thấy ấm lòng khi nghĩ về nó. Những câu anh nói lại vang lên trong đầu cô khi cô tìm thấy mọi thứ cần cho bàn ăn: đĩa, bộ dao nĩa, muối và tiêu. Khi cô dọn bàn xong, Noah đưa cô bánh mì và những ngón tay của họ thoáng chạm nhau.
Anh hướng sự chú ý của mình trở lại chiếc chảo rán và lật chỗ rau. Anh nhấc vung nồi hấp, thấy còn cầm thêm một phút nữa nên lại hấp tiếp. Lúc này anh đã trấn tĩnh hơn và lại quay lại với những câu chuyện gẫu dễ nói.
“Em đã bao giờ ăn cua chưa?”
“Một vài lần. Nhưng chỉ là xa lát cua thôi.”
Anh cười. “Thế thì em sắp có một cuộc phiêu lưu rồi đấy. Chờ chút nhé.” Anh biến mất lên gác một lát và quay lại với một chiếc sơ mi màu xanh hải quân cài cúc. Anh dang chiếc áo ra cho cô.
“Đây, mặc cái này vào. Anh không muốn váy em dây bẩn.”
Allie mặc chiếc áo và ngửi thấy mùi hương phảng phất trong đó – mùi của anh, rất đặc biệt, rất tự nhiên.
“Đừng lo,” anh nói khi thấy vẻ mặt của cô, “sạch mà.”
Cô cười. “Em biết. Chỉ là nó làm em nhớ lại cuộc hẹn đầu tiên của chúng ta thôi. Đêm đó anh không cho em mượn cái áo khoác của anh, còn nhớ không?”
Anh gật đầu. “Ừ, anh nhớ. Fin và Sarah đi cùng mình. Fin cứ huých khuỷu tay anh suốt dọc đường về nhà cha mẹ em, cố tìm cách làm anh nắm tay em.”
“Nhưng anh đã không nắm.”
“Ừ,” anh trả lời, lắc đầu.
“Tại sao?”
“Vì ngượng, chắc thế, hoặc là sợ, chẳng biết nữa.
N.g.u.ồ.n. .t.ừ. .s.i.t.e. .T.r.u.y.e.n.G.i.C.u.n.g.C.o...c.o.m. Có vẻ như lúc đó mà làm thế thì không đúng đắn lắm.”
“Nghĩ lại, em thấy lúc đây anh khá e thẹn, đúng không?”
“Anh thích cụm từ ‘tự tin ngầm’ hơn,” anh nháy mắt đáp, và cô mỉm cười.
Món rau và lũ cua chín cùng một lúc. “Cẩn thận, nóng đấy,” anh nói khi đưa chúng cho cô, rồi họ ngồi đối diện nhau qua chiếc bàn gỗ. Nhận ra món trà vẫn còn trên bàn bếp, Allie đứng lên lấy. Sau khi chọ ít rau và bánh mì lên đĩa, Noah cho thêm một con cua, Allie ngồi một lúc, nhìn nó chằm chằm.
“Trông như con bọ ấy nhỉ.”
“Nhưng mà là một con bọ ngon,” anh nói. “Đây, để anh chỉ em cách ăn nhé.”
Anh làm mẫu thật nhanh, khiến cho việc đó trông dễ dàng, lấy chỗ thịt cua và để nó lên đĩa của cô. Còn Allie thì cả hai lần đầu đều bóp chỗ càng cua quá mạnh, và phải dùng tay để gỡ lớp mai ra khỏi chỗ thịt. Lúc đầu cô thấy khá vụng về, lo rằng anh sẽ nhìn thấy hết sự vụng về đó, nhưng rồi cô nhận ra đó chỉ là sự bất an của cô. Anh chẳng quan tâm đến những thứ như thế. Anh chẳng bao giờ như thế cả.
“Vậy Fin thì thế nào?”
Anh ngưng một giây rồi mới đáp.
“Fin chết trong chiến tranh. Tàu khu trục của cậu ấy trúng phải ngư lôi năm 43.”
“Em rất tiếc,” cô nói, “em biết anh ấy là một người bạn thân của anh.”
Giọng anh thay đổi, bây giờ hơi trầm hơn.
“Ừ. Dạo này anh rất hay nghĩ về cậu ấy. Anh nhớ nhất là lần cuối cùng gặp cậu ấy. Anh về nhà để chia tay trước khi tòng quân, rồi bọn anh tình cờ gặp lại nhau. Hồi đó cậu ấy đang làm ngân hàng, giống như cha cậu ấy trước kia. Suốt tuần sau đó bọn anh đã ở bên nhau. Đôi khi anh nghĩ chính anh đã thuyết phục cậu ấy tòng quân. Anh không nghĩ cậu ấy sẽ vào quân ngũ nếu không phải là anh sắp sửa đi lính.”
“Không phải vậy đâu,” cô nói, ân hận vì đã nhắc đến chủ đề này.
“Em nói đúng. Anh chỉ nhớ cậu ấy thôi.”
“Em cũng thích anh ấy. Anh ấy làm em cười.”
“Cậu ấy lúc nào cũng giỏi việc này.”
Cô nhìn anh tinh nghịch. “Anh ấy đã từng thích em đấy, anh biết không.”
“Anh biết. Cậu ấy kể cho anh nghe.”
“Vậy à? Anh ấy đã nói gì?”
Noah nhún vai. “Nói những gì cậu ấy vẫn nói thôi. Rằng cậu ấy phải cầm gậy xua em đi thôi. Rằng em đuổi theo cậu ấy thường xuyên, kiểu thế.”
Cô khẽ bật cười. “Anh có tin anh ấy không?”
“Dĩ nhiên,” anh đáp. “Tại sao không?”
“Mấy anh lúc nào cũng dính chặt với nhau,” cô vừa nói vừa vươn tay qua bàn, chọc ngón tay mình vào cánh tay anh. Cô tiếp tục. “Thế anh kể cho anh ấy nghe những gì đã xảy ra từ khi mình gặp nhau lần cuối đi.”
Họ bắt đầu nói chuyện, bù đắp lại quãng thời gian đã mất. Noah kể chuyện rời khỏi New Bern, chuyện làm việc ở xưởng tàu và ở bãi phế thải ở New Jersey. Anh trìu mến kể về Morris Goldman và kể sơ một chút về chiến tranh, tránh phần lớn các chi tiết, và kể cho cô nghe về cha anh và việc anh đã nhớ ông thế nào. Allie kể về chuyện đi học đại học, vẽ tranh, và những giờ cô làm tình nguyện ở bệnh viện. Cô kể về gia đình và bạn bè mình, về những hoạt động từ thiện cô tham gia. Không ai trong hai người nhắc đến bất kỳ người nào mà họ đã hẹn hò kể từ lần cuối gặp nhau. Cả Lon cũng bị bỏ qua và mặc dù cả hai đều nhận ra sự bỏ qua này, không ai nhắc đến cả.
Rồi Allie cố gắng nhớ lại lần cuối cô và Lon nói chuyện như thế này. Mặc dù anh lắng nghe chăm chú và họ ít khi tranh cãi, anh không phải là kiểu người để nói chuyện thân mật. Cũng như cha anh, anh không thoải mái khi chia sẻ những suy nghĩ và cảm giác của mình. Cô đã cố giải thích rằng cô cần gần gũi hơn với anh, nhưng có vẻ như điều đó cũng chẳng bao giờ làm nên gì khác biệt.
Nhưng giờ ngồi nơi đây, cô đã nhận ra điều mình đang thiếu vắng.
Bầu trời sẫm tối hơn và mặt trăng nhô lên cao khi đêm muộn. Và dù cả hai đều không nhận ra, họ đều đã có lại được sự thân mật, mối liên kết của sự tương đồng mà một thời họ từng chia sẻ.
Họ ăn xong bữa tối, cả hai đều hài lòng với bữa ăn và giờ không trò chuyện nhiều nữa. Noah nhìn đồng hồ và thấy rằng trời đã khuya. Những vì sao đã mọc đủ, lũ dế im lặng hơn. Anh nói chuyện rất vui với Allie và tự hỏi có phải mình đã nói quá nhiều, tự hỏi liệu cô nghĩ gì về cuộc đời anh, hi vọng rằng dù sao nó cũng sẽ tạo nên một chút khác biệt, nếu có thể.
Noah đứng lên và đổ đầy nước vào ấm trà. Cả hai đã mang đĩa bát ra chậu rửa, lau sạch chiếc bàn, và anh rót ra thêm hai tách trà nóng, cho thêm cái túi trà vào.
“Lại ra hiên ngồi nhé?” anh hỏi, đưa cho cô tách trà, và cô đồng ý, đi trước. Anh vớ lấy một chiếc mền bông đề phòng cô bị lạnh, và chẳng mấy chốc họ đã yên vị lại chỗ cũ, mền bông đắp trên chân cô, những chiếc ghế lắc lư. Noah ngắm cô từ khóe mắt. Chúa ơi, cô ấy thật đẹp, anh nghĩ. Và sâu thẳm bên trong, anh thấy đau đớn.
Vì có điều gì đó đã xảy ra trong suốt bữa tối.
Khá đơn giản, anh lại yêu rồi. Giờ khi họ ngồi ngay cạnh nhau thì anh đã biết. Yêu một Allie mới, không chỉ ký ức về cô.
Anh chưa từng thật sự ngừng yêu cô, và, anh nhận ra, đó là số mệnh của mình.
“Một đêm tuyệt vời,” anh nói, giọng nhẹ nhàng hơn.
“Đúng thế,” cô nói, “một đêm tuyệt vời.”
Noah quay nhìn những vì sao, ánh sáng lấp lánh của chúng nhắc anh nhớ rằng cô sắp phải ra đi, và anh thấy lòng mình gần như trống trải. Đây là đêm anh muốn chẳng bao giờ kết thúc. Làm sao anh nói với cô đây? Anh có thể nói gì khiến cô ở lại?
Anh không biết. Nên anh quyết định không nói gì. Và lúc đó anh nhận ra là mình đã thất bại.
Những chiếc ghế đu đưa lắc lư theo một nhịp lặng lẽ. Lũ dơi lại bay trên sông. Bướm đêm lại hôn lên chiếc đèn hiên. Anh biết ở đâu đó người ta đang yêu nhau.
“Nói chuyện với em đi.” Cuối cùng cô nói, giọng xao xuyến. Hay là tâm trí anh đang lừa anh?
“Anh nên nói gì?”
“Nói như anh đã từng ở dưới cây sồi.”
Và anh đã làm thế, đọc lại những vần thơ ngày xưa, uống mừng cho đêm đó. Withman và Thomas, vì anh yêu những hình ảnh trong thơ họ. Tennyson và Browning, vì những chủ đề của họ nghe thật gần gũi.
Cô ngả đầu vào ghế, nhắm mắt lại, thấy ấm lên một chút khi anh đọc xong. Không phải là những vần thơ hay giọng của anh khiến cô ấm lên. Đấy là tổng thể mọi thứ, tổng thể to lớn hơn phép cộng của từng phần riêng biệt. Cô không cố phán vỡ tổng thể ấy, không muốn thế, vì nghe thơ như vậy thì thật vô nghĩa. Thơ ca, cô nghĩ, không phải được viết ra để phân tích: nó được viết ra để khơi gợi cảm hứng mà không cần lý do, để làm xúc động mà không cần phải hiểu.
Vì anh, cô đã dự vài lớp ngâm thơ do khoa Ngôn ngữ và Văn chương Anh tổ chức hồi còn học đại học. Cô đã ngồi và lắng nghe nhiều người đọc những vần thơ khác nhau, nhưng không lâu sau đã bỏ lớp ấy vì thất vọng khi không có ai gợi được cảm hứng cho cô, cũng không ai có vẻ gì là được thơ gợi cảm hứng như những người yêu thơ đích thực.
Họ đu đưa một lúc lâu, uống trà, ngồi lặng thinh, trôi theo những ý nghĩ của mình. Lúc này sự thôi thúc từng đẩy cô đến đã biến mất – cô vui vì điều đó – nhưng lại lo ngại về những cảm giác đã thế chỗ nó, sự xao động đã bắt đầu lây rây và cuộn tròn trong các lỗ chân lông của nó như bụi vàng trong những chiếc giần đãi vàng ở sông. Cô đã cố chối bỏ chúng, trốn khỏi chúng, nhưng bây giờ cô nhận ra cô không muốn chúng ngừng lại. Đã nhiều năm rồi cô mới cảm giác thế này.
Lon không thể khơi gợi những cảm giác này trong cô. Anh chưa bao giờ và có lẽ không bao giờ có thể. Có lẽ đó là lý do tại sao cô chưa bao giờ ngủ với anh. Trước đây anh đã thử, nhiều lần, sử dụng mọi thứ từ hoa đến mánh khóe, nhưng cô đã luôn áp dụng lời biện minh là cô muốn chờ đến đám cưới. Thường thì anh chấp nhận điều đó, đôi khi cô tự hỏi anh sẽ đau lòng đến thế nào nếu như anh phát hiện ra chuyện Noah.
Nhưng còn một điều nữa khiến cô muốn chờ, và điều đó liên quan tới chính Lon. Anh bị thu hút vào công việc, nó luôn đòi hỏi hầu hết sự chú ý của anh. Công việc đứng hàng đầu, anh không có thời gian đâu cho thơ ca và những buổi tối lãng phí hay ngồi đu đưa ghế dưới hiên nhà. Cô biết điều này là lý do vì sao anh thành công, một phần trong cô kính trọng anh vì điều đó. Nhưng cô cũng cảm thấy như thế không đủ. Cô muốn cái gì đó khác, cái gì đó khác biệt, cái gì đó hơn nữa. Niềm say đắm và sự lãng mạn, có lẽ thế, hoặc có lẽ chỉ là những cuộc trò chuyện nho nhỏ trong những căn phòng thắp nến, hay cái gì đó đơn giản như việc không bị xếp vào vị trí thứ hai.
Noah cũng đang sàng lọc các ý nghĩ của mình. Với anh, đêm nay sẽ được nhớ đến như một trong những khoảng thời gian đặc biệt nhất mà anh từng có. Vừa đu đưa ghế vừa ghi nhớ tất cả các chi tiết của nó, rồi lại ghi nhớ lần nữa. Mọi thứ cô làm dường như đều kích thích anh, tiếp thêm năng lượng cho anh.
Bây giờ ngồi bên cô, anh tự hỏi trong suốt những năm xa cách không biết cô có mơ những điều giống như anh đã mơ? Cô có bao giờ mơ về việc họ lại ôm nhau và hôn nhau dưới ánh trăng dịu dàng? Hay cô có đi xa hơn và mơ về cơ thể trần đã xa nhau bao nhiêu lâu của họ…?
Anh nhìn lên trời sao và nhớ lại hàng nghìn đêm trống rỗng đã trải qua kể từ lần cuối họ gặp nhau. Việc gặp lại cô bỗng khơi lại hết những cảm giác ấy, anh thấy mình không thể đưa nó trở lại sâu trong lòng. Anh biết anh lại muốn làm tình với cô và muốn cô đáp lại. Đấy là điều anh muốn nhất trên đời này.
Nhưng anh cũng nhận ra rằng không bao giờ có thể. Bây giờ cô đã đính hôn.
Với sự im lặng của anh, Allie biết rằng anh đang nghĩ về cô và cảm thấy hân hoan. Cô không biết chính xác những suy nghĩ của anh là gì, không thật sự quan tâm lắm, chỉ cần biết anh nghĩ về cô và thế là đủ.
Cô nghĩ về cuộc nói chuyện của họ lúc ăn tối và tự hỏi về sự cô đơn. Không hiểu sao cô không thể hình dung ra hình ảnh anh đang đọc thơ cho ai đó khác nghe, hoặc chia sẻ những ước mơ với một phụ nữ khác. Dường như anh không phải kiểu người ấy. Hoặc là thế, hoặc cô muốn tin là thế.
Cô đặt tách trà xuống, lùa tay vào tóc và nhắm mắt lại.
“Em mệt à?” anh hỏi, cuối cùng cũng thoát khỏi những suy nghĩ của mình.
“Một chút. Thật ra thì vài phút nữa em phải đi.”
“Anh biết,” anh nói, gật đầu, giọng bình thản.
Cô không đứng lên ngay mà lại cầm tách trà và uống ngụm nhỏ cuối cùng, cảm thấy nó làm ấm cổ họng. Cô uống cả đêm nay vào lòng. Bây giờ trăng đã lên cao hơn, gió xào xạc trên các rặng cây, và trời lạnh hẳn.
Cô nhìn Noah bên cạnh mình. Vết sẹo trên mặt anh nhìn từ một bên trong thật rõ. Cô tự hỏi không hiểu có phải anh đã có nó trong chiến tranh, rồi lại tự hỏi anh đã bao giờ bị thương? Anh không nhắc đến chuyện đó và cô cũng không hỏi, chủ yếu vì cô không muốn hình dung ra anh bị thương.
“Em phải đi thôi.” Cuối cùng cô nói, đưa chiếc mền lại cho anh.
Noah gật đầu, sau đó dứng lên không nói một lời. Anh cầm lại chiếc mền rồi cả hai ra xe cô, thảm lá rụng lạo xạo dưới chân họ. Khi anh mở cửa xe, cô toan cởi chiếc sơ mi anh ượn lúc nãy, nhưng anh ngăn cô lại.
“Hãy giữ nó,” anh nói. “Anh muốn em giữ nó.”
Cô không hỏi tại sao vì cô cũng muốn giữ nó. Cô chỉnh lại chiếc áo rồi khoanh tay quanh người để xua đi cái lạnh. Vì lý do nào đó, khi đứng như vậy cô bỗng nhớ lại cảnh mình đứng dưới hiên nhà sau một tối khiêu vũ ở trường phổ thông, chờ đợi một chiếc hôn.
“Tối nay anh đã rất vui,” anh nói. “Cảm ơn em vì đã tìm thấy anh.”
“Em cũng thế,” cô đáp.
Anh cố thu hết can đảm. “Mai anh sẽ gặp lại em chứ?”
Một câu hỏi đơn giản. Cô biết câu trả lời nên là gì, nhất là nếu cô muốn giữ cho cuộc đời mình đơn giản. “Em không nghĩ mình nên làm thế,” là tất cả những gì cô phải nói, và nó sẽ kết thúc mọi thứ ngay tại đây, ngay bây giờ. Nhưng trong một giây cô đã không nói gì.
Sự lựa chọn lúc ấy như một con quỷ đe dọa cô, trêu ngươi cô, thách thức cô. Tại sao cô không thể nói thế? Cô không biết. Nhưng khi nhìn vào mắt anh để tìm ra câu trả lời cần có, cô nhìn thấy người đàn ông cô đã một lần yêu, rồi bỗng nhiên mọi sự trở nên rõ ràng.
“Em muốn thế.”
Noah ngạc nhiên. Anh không trông đợi cô sẽ trả lời như vậy. Lúc ấy anh muốn chạm vào cô, ôm lấy cô trong vòng tay, nhưng anh đã không làm.
“Em đến đây vào buổi trưa nhé?”
“Được. Anh định làm gì?”
“Rồi em sẽ thấy,” anh trả lời. “Anh biết một chỗ để đến.”
“Em đã bao giờ đến đấy chưa?”
“Chưa, nhưng đó là một nơi đặc biệt.”
“Nó ở đâu?”
“Đó là một ngạc nhiên mà.”
“Em sẽ thích nó chứ?”
“Em sẽ yêu nó,” anh đáp.
Cô quay đi trước khi anh có thể hôn cô. Cô không biết liệu anh có thử làm thế không, nhưng biết chắc nếu anh làm thế, cô sẽ rất khó có thể ngăn anh lại. Ngay lúc này cô không thể xử lý việc đó, với bao nhiêu thứ đang đến trong đầu. Cô trườn vào sau tay lái, thở một hơi nhẹ nhõm. Anh giúp cô đóng cửa xe, và cô nổ máy. Khi máy đã nổ, cô hạ cửa kính xuống một chút.
“Hẹn gặp anh ngày mai,” cô nói, mắt cô phản chiếu ánh trăng.
Noah vẫy tay khi cô lùi xe. Cô quay xe lại, sau đó lái lên đường ra, hướng về phía thị trấn. Anh nhìn chiếc xe cho đến khi ánh đèn biến mất sau những cây sồi xa xa và tiếng động cơ đã mất hẳn. Clem đi luẩn quẩn đến chỗ anh và anh vỗ về nó, chú ý đặc biệt đến cổ nó, gãi vào chỗ nó không thể với đến được. Sau khi nhìn lên con đường một lần nữa, cả hai sóng bước trở lại hiên nhà phía sau.
Anh lại ngồi lên chiếc ghế đu, lần này một mình, một lần nữa cố gắng cắt nghĩa buổi tối vừa mới trôi qua. Nghĩ về nó. Tua đi tua lại nó. Nhìn lại nó. Nghe lại nó. Quay chậm lại nó. Anh không cảm thấy muốn chơi ghi ta hay đọc sách. Không biết mình cảm thấy gì.
“Cô ấy đã đính hôn.” Cuối cùng anh cũng thì thầm, rồi im lặng hàng giờ liền, chỉ có chiếc ghế là gây ra tiếng động. Lúc này đêm đã yên tĩnh, chẳng có hoạt động gì trừ Clem thỉnh thoảng đi đến chỗ anh kiểm tra như thể hỏi rằng, “Cậu có ổn không?”
Và vào một khoảnh khắc sau nửa đêm của cái đêm tháng Mười trời quang đó, tất cả đều đổ dồn vào bên trong, và Noah trở nên quá chừng khao khát. Nếu có ai nhìn thấy anh, họ hẳn là nhìn thấy ai đó như một ông già, ai đó đã già đi cả đời người chỉ trong vài tiếng đồng hồ. Ai đó gập người trong chiếc ghế của mình với đôi tay bưng lấy mặt và đôi mắt đẫm nước.
Anh không biết làm thế nào để ngăn lại.