Ông Boone về nhà trước. Ông leo lên gác, mở cửa phòng Theodore. Bản lề cửa cót két như thường lệ. Ông bật đèn và mỉm cười nhìn cậu con trai đang ngủ thật yên bình. “Ngủ ngon, Theodore,” ông khẽ khọt, rồi tắt đèn phòng.
Tiếng cửa đóng làm Theodore tỉnh giấc, và chỉ mấy giây sau cậu đã lại đang nằm ngửa, nhìn trân trân lên trần nhà tối om, nghĩ về đôi găng tay chơi golf giấu ở văn phòng. Có cái gì đó cực kỳ sai lầm trong lời khuyên của bác Ike là cứ buông xuôi mọi việc, tảng lờ sự tồn tại của một nhân chứng, và lặng lẽ đứng tránh sang bên mặc cho các nhà hành pháp đi chệch hướng.
Tuy nhiên, đã hứa là phải giữ lời, mà Theodore thì đã hứa với anh em nhà Julio là sẽ giữ an toàn cho bí mật của họ. Nếu cậu không giữ lời thì sao? Nếu cậu cứ việc bước đến phòng làm việc của Thẩm phán Gantry, quẳng đôi găng tay lên bàn ông, rồi kể hết mọi chuyện? Người anh họ có mà sẽ bị nướng chả. Anh ấy sẽ bị cả cảnh sát lẫn Jack Hogan truy đuổi, sẽ bị hốt về đồn. Lời khai của anh ấy sẽ cứu nguy cho bên nguyên. Tòa sẽ tuyên bố tạm đình chỉ. Phiên tòa mới sẽ được bố trí. Tin này sẽ được đăng trên khắp các mặt báo và truyền hình. Người anh họ sẽ trở thành anh hùng, nhưng cũng sẽ bị giam giữ vì nhập cư trái phép.
Nhưng người anh họ không thể thỏa thuận với cảnh sát và các nhà công tố sao? Họ không thể nương nhẹ với anh ấy vì họ cần anh ấy sao? Theodore không biết nữa. Có thể có, có thể không nhưng điều đó sẽ quá mạo hiểm.
Theodore bắt đầu nghĩ đến bà Duffy. Trong hồ sơ của cậu có một bài báo với bức hình rất đẹp của bà. Bà là một phụ nữ đẹp, tóc vàng, mắt nâu, hàm răng hoàn hảo. Cứ thử tưởng tượng những giây phút cuối đời của bà xem, khi bà kinh hoàng nhận ra người chồng của mình đang đeo đôi găng đánh golf không phải ghé qua nhà vì một lý do vô hại nào, mà là để siết cổ bà.
Tim Theodore đập thình thịch như đang chạy đua. Cậu tung chăn vùng dậy ngồi bên mép giường. Bà Duffy chỉ trẻ hơn mẹ cậu mấy tuổi. Cậu sẽ cảm thấy thế nào nếu mẹ cậu bị tấn công một cách dã man như vậy?
Nếu bồi thẩm đoàn kết luận ông Duffy không có tội, rõ ràng ông ta có thể rũ bỏ tội danh giết người. Và, có thể ông ta sẽ không bao giờ bị đưa ra xét xử nữa. Theodore hoàn toàn hiểu về cái gọi là bất khả trùng tố - bên nguyên không thể khởi tố một người lần thứ hai nếu ở lần đầu tiên bồi thẩm đoàn đã kết luận người đó không có tội. Vì không có nghi phạm nào nữa, vụ giết người sẽ vẫn chưa được xử lý.
Ông Duffy khi đó có thể nhận một triệu đô la. Sẽ chơi golf nhiều hơn. Có thể còn tìm được một cô vợ trẻ đẹp khác.
Theodore lại chui vào trong chăn, cố chợp mắt. Cậu có một ý tưởng. Sau vụ xử, khi ông Duffy được xử trắng và rời khỏi tòa án, Theodore sẽ đợi vài tuần hoặc vài tháng, rồi gửi đôi găng tay cho ông Duffy. Gửi chúng đến trong gói hàng nặc danh, có thể cùng với dòng chữ đại loại như: “Chúng tôi biết ông đã giết bà ấy. Chúng tôi vẫn đang theo dõi.”
Vì sao cậu sẽ làm vậy ư? Cậu cũng không hiểu. Một ý tưởng ngốc nghếch khác.
Những suy nghĩ trở nên lan man hơn. Không hề có vệt máu tại hiện trường, phải không nhỉ? Vậy sẽ không có dấu máu trên đôi găng tay. Nhưng còn tóc thì sao? Nếu có một mảnh tí ti tóc của bà Duffy không hiểu bằng cách nào đã vương lại trên một trong hai chiếc găng tay thì sao. Tóc của bà ấy không ngắn, có lẽ dài chấm vai. Theodore đã không dám mở chiếc túi ni lông. Cậu không hề chạm vào đôi găng tay, nên không thể biết trên đó có gì. Một sợi tóc thậm chí còn hơn cả bằng chứng cho thấy chồng bà đã giết bà.
Cậu cố mường tượng lại hình ảnh chiến thắng của mình tại Phòng xử Súc vật trong tư cách đại diện cho Hallie, khách hàng và rất có thể sau này sẽ là bạn gái của cậu. Nhưng dòng suy nghĩ của cậu vụt trở lại với hiện trường vụ án. Cuối cùng cậu nằm im và chìm vào giấc ngủ.
Marcella Boone về nhà lúc 11 giờ kém. Bà kiểm tra tủ đá để xem Theodore đã ăn uống thế nào. Rồi lại kiểm tra máy rửa bát, để bảo đảm mọi thứ đều gọn ghẽ. Bà nói đôi điều với ông Woods lúc đó còn đang đọc trong phòng sách. Bà leo lên gác, làm Theodore thức giấc lần thứ hai trong vòng một giờ đồng hồ. Nhưng cậu đã nghe thấy tiếng mẹ lại gần nên giả vờ đang ngủ rất say. Bà không bật đèn, không bao giờ. Bà hôn lên toán Theodore, thì thầm, “Yêu con nhiều, cún cưng” rồi rời khỏi phòng.
Một giờ sau, Theodore tỉnh ngủ hẳn, lo nghĩ chuyện tìm nơi nào đó để giấu đôi găng tay. o O o
Khi chuông báo thức trên điện thoại di động rung vào lúc 6 giờ rưỡi, Theodore không rõ mình đang thức, đang ngủ, hay đang lơ mơ, cũng không tin mình đã ngủ. Mặc dù vậy cậu cảm thấy rõ ràng rằng mình mệt mỏi, bức bối và sẽ phải đối mặt với một ngày lê thê nữa. Gánh nặng cậu đang mang không hề bình thường với một cậu bé mười ba tuổi. Mẹ cậu đứng bên lò nướng - một vị trí hiếm khi gặp của bà - đang rán xúc xích và nướng bánh kếp, một việc mà cả năm bà mới họa hoằn làm được đôi lần. Nếu là buổi sáng nào khác, Theodore hẳn sẽ thấy đói ngấu và háo hức với một bữa sáng hoành tráng. Cậu không có lòng dạ nào nói với mẹ rằng ham muốn ăn uống của mình đã biến mất tăm.
“Ngủ ngon không cún cưng?” bà vừa hôn vội vào má con trai vừa hỏi.
“Không ngon lắm ạ,” Theodore trả lời.
“Sao vậy? Trông con mệt mỏi lắm. Con có ốm không đấy?”
“Con ổn.”
“Con cần uống chút nước cam. Trong tủ lạnh ấy.”
Hai mẹ con ăn điểm tâm với tờ báo buổi sáng. “Có vẻ phiên tòa sắp kết thúc rồi nhỉ,” bà nói, cặp kính đọc sách trễ xuống giữa sống mũi. Bà mở màn hầu hết các ngày thứ Sáu bằng cuộc viếng thăm chóng vánh tới salon để chỉnh trang móng tay, nên lúc này bà vẫn còn đang khoác khăn tắm.
“Con cũng không rõ nữa” Theodore nói.
“Mẹ chả tin. Mắt con đỏ ngầu kìa, Theodore. Trông con mệt lắm.”
“Con nói con không ngủ được mà.”
“Tại sao?”
Sao ạ, bố thì làm con thức giấc lúc 10 giờ mẹ lại đánh thức con lúc 11 giờ. Nhưng Theodore không hề trách bố mẹ. Cậu mất ngủ vì những lý do khác. “Hôm nay con có bài kiểm tra,” cậu nói, điều này đúng một phần. Cô Garman đã đe sẽ cho chúng làm bài kiểm tra môn Hình học.
“Con sẽ làm tốt mà,” bà nói, rồi trở lại với tờ báo. “Con ăn xúc xích đi.”
Cậu cố nuốt trôi vài miếng bánh và xúc xích cho mẹ hài lòng. Cậu cảm ơn mẹ đã chuẩn bị một bữa điểm tâm quá thịnh soạn, rồi nhanh chóng chúc mẹ một ngày tốt lành, tạm biệt mẹ, vỗ vỗ lên đầu Judge, rồi tót lên xe đạp. Mười phút sau cậu đã lao như bay đến văn phòng của Ike, nơi ông bác lập dị đang đợi gặp cậu vào buổi sáng thứ hai liên tiếp.
Thứ Sáu, Ike trông còn khủng khiếp hơn. Mắt ông sưng húp và đỏ ngầu hơn cả mắt Theodore, bộ tóc muối tiêu bờm xờm thì sáng nay còn chưa được sờ tới. “Sẽ ổn thôi,” ông làu bàu.
“Vâng ạ,” Theodore đứng trước bàn của bác.
“Ngồi đi.”
“Cháu đứng cũng được.”
“OK. Thế nào rồi?”
Theodore tua lại câu chuyện về Julio và đôi găng tay trong túi ni lông hiện đang được giấu giữa chồng hồ sơ các vụ ly hôn từ xưa của Boone & Boone trong đáy ngăn tủ hồ sơ dưới tầng hầm, nơi không ai đoái hoài tới ít nhất là cả một thập kỷ nay. Cậu không giữ lại chút gì trong câu chuyện, tất nhiên, trừ danh tính của Julio và người anh họ. Vài phút là cậu đã kể xong.
Ike chăm chú nghe. Ông gãi gãi râu, tháo kính, dụi mắt, nhấp cà phê, và khi
Theodore ngừng lời, ông cố gắng lắm mới khẽ thốt lên được, “Không thể tin được.”
“Mình làm gì bây giờ, Ike?” Theodore hỏi trong tuyệt vọng.
“Ta không biết nữa. Đôi găng tay cần phải được phòng xét nghiệm nghiệp vụ kiểm tra. Chúng có thể có mẫu da rất nhỏ, da của bà Duffy, tóc, hoặc thậm chí lấy được ADN từ mồ hôi của ông Duffy.”
Theodore đã không nghĩ đến mồ hôi.
“Đôi găng tay có thể là vật chứng quan trọng” Ike nói to suy nghĩ của mình lên, và gãi gãi râu.
“Mình không thể làm ngơ, Ike ạ. Làm sao bây giờ?”
“Sau cháu lại giữ chúng?”
“Thực ra cháu không giữ lại, bác biết mà. Bạn cháu cố tình bỏ lại thì có. Cậu ấy sợ. Anh họ cậu ấy sợ. Cháu cũng sợ. Bọn cháu phải làm gì bây giờ?”
Ike đứng dậy, vươn vai, và làm một tợp cà phê nữa. “Cháu có định đến trường không? Cháu còn làm được gì vào buổi sáng thứ Sáu này nữa chứ!”
“Có chứ ạ. Cháu cũng muộn rồi.”
“Đi học đi. Ta sẽ đến xem phiên xử. Sẽ nghĩ ra gì đó rồi nhắn tin cho cháu sau.”
“Cảm ơn, Ike. Bác đúng là tuyệt nhất.”
“Vậy mà ta không biết đấy.” o O o
Theodore bước vào lớp muộn năm phút, nhưng thầy Mount đang có tâm trạng tốt và cả lớp thực ra cũng chưa ổn định. Khi trông thấy Theodore, thầy kéo cậu lại đứng cạnh mà hỏi, “Theodore, nói xem nào, thầy nghĩ em có thể cập nhật thông tin về phiên tòa cho cả lớp. Lát nữa, trong giờ Chính trị.”
Chuyện chán nhất Theodore muốn động tới là nói về phiên tòa, nhưng cậu không thể từ chối thầy Mount. Hơn nữa, thầy Mount vốn hay lơ là chuyện chuẩn bị bài cho lớp vào các ngày thứ Sáu nên thầy cần Theodore giúp lấp khoảng trống. “Vâng ạ,” Theodore trả lời.
“Cảm ơn. Chỉ cần cập nhật thôi, khoảng mười lăm phút. Hôm nay đến phần bồi thẩm đoàn, đúng không?”
“Có lẽ vậy ạ.”
Theodore về chỗ ngồi. Thầy Mount gõ bàn, rồi điểm danh. Sau đó là mục thông báo các loại, một công việc quen thuộc trong giờ sinh hoạt lớp. Khi chuông báo tiết học đầu vang lên, các cậu trò đều hướng ra cửa. Một cậu bạn cùng lớp tên Woody theo Theodore ra sảnh, bắt kịp cậu ngay chỗ tủ để đồ. Nhìn mặt cậu ta, Theodore biết ngay là có chuyện không ổn.
“Theodore, mình cần được giúp” Woody khẽ nói trong lúc mắt dáo dác liếc quanh. Cuộc sống gia đình Woody đang điên đảo. Đây là cuộc hôn nhân thứ hai hay thứ ba gì đấy của bố mẹ cậu, nên cậu cũng không được quan tâm mấy. Woody chơi ghita điện trong một ban nhạc nổi loạn, hút thuốc và ăn mặc như kẻ chơi bời lêu lổng, nghe đồn cậu còn xăm một hình nho nhỏ ở mông. Theodore, cũng như những cậu trai khác, rất tò mò về hình xăm kia, nhưng không muốn xác nhận lời đồn. Bất chấp tất cả những yếu tố gây sao nhãng ấy, Woody vẫn là học sinh có điểm số trung bình hạng B.
“Gì vậy?” Theodore hỏi. Cậu đã muốn cảnh báo cho Woody lúc này mà xin tư vấn pháp lý miễn phí thì không đúng lúc chút nào. Cậu đang có quá nhiều điều phải lo nghĩ.
“Cậu có thể giữ kín chuyện này, phải không?” Woody hỏi.
“Tất nhiên rồi.” Thật tuyệt. Đúng là thứ Theodore đang cần. Lại thêm một bí mật nữa.
Hallie đi ngang qua, hơi chậm bước trong giây lát, nở một nụ cười duyên với Theodore, rồi chợt nhận ra cậu đang bận. Cô bé bỏ đi.
“Đêm qua anh trai mình bị bắt, Theodore ạ,” Woody kể, mắt đã rơm rớm. “Cảnh sát đến nhà lúc nửa đêm, còng tay đưa anh ấy đi. Thật khủng khiếp. Anh ấy đang ở trại tạm giam.”
“Vì tội gì?”
“Ma túy. Tàng trữ ma túy, có lẽ cả buôn bán nữa.”
“Tàng trữ và buôn bán là hai chuyện khác hẳn nhau đấy.”
“Cậu giúp bọn mình được không?”
“Mình e là khó. Anh ấy bao nhiêu tuổi?”
“Mười bảy.”
Theodore đã nghe nói về anh trai của Woody, không phải tiếng tốt gì. “Lần đầu phạm tội à?” Theodore hỏi, mặc dù ngờ rằng câu trả lời sẽ là không.
“Năm ngoái anh ấy bị tóm vì tội tàng trữ ma túy, lần đầu. Không nhằm nhò gì.”
“Bố mẹ cậu cần thuê luật sư, Woody ạ. Đơn giản vậy thôi.”
“Không đơn giản đâu. Bố mẹ mình không có tiền, mà nếu có họ cũng không chịu bỏ tiền thuê luật sư. Nhà mình đang cãi nhau to, Theodore. Con cái chống đối bố mẹ, không bên nào chịu nhượng bộ. Bố dượng cãi cọ với anh mình suốt về vụ ma túy, ông ấy thề cả ngàn lần sẽ không bao giờ can thiệp nếu cảnh sát tóm anh ấy.”
Chuông reo vào lớp. Cả sảnh đường vắng tanh.
Theodore nói, “Thôi được, giờ giải lao gặp mình nhé. Mình không tư vấn được gì nhiều đâu, nhưng mình sẽ cố gắng hết sức.”
“Cảm ơn Theodore.”
Cả hai vội vào lớp của cô Monique. Theodore về chỗ, mở cặp sách, và chợt nhận ra mình chưa làm bài tập về nhà. Ngay lúc này, cậu không thực sự quan tâm. Ngay lúc này, cậu thấy cảm ơn vì được sống trong một ngôi nhà ấm cúng, yên bình, với ông bố bà mẹ tuyệt vời hiếm khi cao giọng với cậu. Tội nghiệp Woody. Rồi, cậu lại nghĩ về đôi găng tay.