Thỉnh thoảng, cô mơ về cuộc hành trình với Timoken, với con lạc đà mà cô không thể nào nhớ được tên. Những hình ảnh ấy kiến cô mỉm cười, nhưng tất cả đều kết thúc bằng cái ngày của sáu mươi năm về trước, ngày mà cô tưởng mình đã chết, khi cô nhảy xuống dòng sông và bị cuốn vào dòng thác dữ tợn. Cô cứ tưởng mình đã chết chìm, nhưng vì một lý do nào đó, cô vẫn sống. Cô cột mình vào một thanh gỗ và nó kéo cô đi dọc con sông ngày này qua ngày khác. Nếu là một người bình thường, chắc chắn cô đã không thể sống sót, nhưng nhờ những giọt nước Alixir mà Zobayda đã uống trong một trăm năm qua mà cô được cứu sống. Khi Ibn Jubayr tìm thấy cô, cô đã bất tỉnh và gần như không còn thở nữa, anh ta là dân du mục người A-rập, anh ta tìm thấy cô tại một bờ biển và cứu sống cô. Cô không bao giờ quên lòng tốt của anh và gương mặt lo lắng của anh khi cô mở mắt, nhìn thấy anh lần đầu tiên.
Khi Zobayda hồi phục, Ibn Jubayr đưa cô đi theo cùng trong chuyến du hành của mình. Cô giặt quần áo, nấu cơm và dọn dẹp cho anh ta. Mắt của anh rất yếu, vì thế nên anh dạy cho cô tiếng A-rập, để cô đọc cho anh nghe quyển sách to, dày mà lúc nào anh cũng mang theo bên người. Họ băng qua vùng biển Địa Trung Hải, đi tới Tây Ban Nha, đi lên Toledo thuộc vương quốc Castile, thành phố mà Jubayr gọi là nhà của mình. Tại đó, Zobayda gặp cháu trai của anh - Tariq - và họ yêu nhau. Cuối cùng, Zobayda kết hôn với Tariq.
Chồng của cô đã chết một năm trước, nhưng Zobayda vẫn giữ cửa hàng của chồng nguyên vẹn như cũ, không thay đổi một chút gì. Tariq có thể làm ra những món đồ chơi đẹp nhất thế giới, ngay cả nhà vua cũng rất thích những tác phẩm ấy, ngài mua rất nhiều cho con của mình. Nhưng Zobayda không đành lòng bán đi những món đồ chơi còn lại.
Hôm nay, Zobayda cảm thấy không khỏe, đúng hơn là cô cảm thấy rất bồn chồn. Những món đồ chơi luôn làm cô thấy dịu đi, nên cô đi xuống cái cầu thanh nhỏ để xuống cửa hàng. Cô thường đi lại trên cái cầu thang này, váy của cô quét qua những bụi gỗ, cô lướt ngón tay mình qua những con búp bê bằng gỗ được trưng bày bên cạnh những con thú làm bằng da và những chú chim bằng cỏ màu. Cô đặc biệt thích con lạc đà, với lông mi được làm bằng lông của con sóc và đôi mắt sáng, trong veo như thủy tinh. Con lạc đà đứng cao chỉ tới đầu gối, Zobayda có thể ngồi xuống vuốt ve cái đầu bằng gỗ của nó.
Zobayda đang làm như thế, rồi Zobayda đặt con lạc đà lên đùi mình và hỏi: “Tên của nó là gì nhỉ, con lạc đà mà ta đã cưỡi nhiều năm về trước?” Cô tự hỏi, không biết Timoken có tìm được cho mình một tổ ấm chưa. Hay là cậu vẫn lang thang khắp nơi, tìm kiếm một nơi mà cậu có thể ở lại và lớn lên?
Một vật gì đó bất chợt đâm vào tay, cô vội đưa tay vào miệng. “Cái gì thế?” cô nhìn quanh con lạc đà, tìm kiếm xem cái gì vừa châm vào tay mình. Nhưng không có gì cả.
Zobayda đã từng đeo một chiếc nhẫn ở ngón tay đang bị đau. Cô vẫn có thể nhìn thấy dấu vết mờ mờ mà chiếc nhẫn để lại trên tay cô.
Cô đứng dậy, để mặc con lạc đà ngã xuống đất. Cửa hàng đột nhiên quay cuồng và mờ dần đi. Những hình ảnh kì lạ lởn vởn trong đầu cô. Cô trông thấy bọn viridee, những sinh vật đã buộc cô phải nhảy xuống nước. Chúng đang mặc những bộ đồ tươm tất, nhung cô có thể nhận ra chúng qua hình dáng tứ chi kỳ lạ và cả khuôn mặt ướt át của chúng. Những con ngựa chứng cưỡi cũng đang lao đi trên con đường sỏi đá, làm bụi bay mù mịt cả bầu trời. Kẻ cầm đầu bọn chúng là một cậu bé chỉ chừng mười một, mười hai tuổi. Cậu ta trông không giống như bọn chúng, thế nhưng, bên dưới gương mặt lạnh lùng, đẹp trai, bên dưới tấm áo choàng viền lông thú và bộ áo màu xanh lá cây, cô có thể nhận ra khung xương như cao su và cơ bắp cuồn cuộn của bọn viridee.
Zobayda lấy tay che mặt lại, đám bụi trong cơn mơ thật đến nỗi, cô thấy mắt mình đau nhức. Và rồi, cô nhìn thấy một con quái vật màu đen, một con ngựa to khủng khiếp đang thở ra lửa, nghiến chặt răng lại. Nó đang kéo theo sau một chiếc xe, được điều khiển bởi một gã đàn ông lực lưỡng mặc áo choàng thầy tu màu nâu. Trên xe là ba tên đồng bọn khác. Mặt của chúng bị che khuất trong cái nón, nhưng chắc rằng, chúng không thể là thầy tu được. Tất cả bọn chúng đều mang theo kiếm, trên mặt của tên điều khiển xe ngựa còn có một vết sẹo dài.
Tại sao chúng lại đi nhanh như vậy?
Bất ngờ, xuất hiện từ một góc trong tầm nhìn của Zobayda, một cái gì đó xuất hiện làm cô reo lên kinh ngạc.
“Timoken!”
Em của cô trông chẳng khác gì sáu mươi năm về trước, đó là lần cuối cùng cô nhìn thấy Timoken. Cậu đang cưỡi trên con lạc đà, nhưng cô đã quên mất tên của nó. Theo sau cậu là năm đứa trẻ đang ngồi trên lưng ngựa. Chúng đang cười đùa và hát vang, Timoken trông thật ung dung và hạnh phúc.
“Chị vui vì em hạnh phúc, Timoken.” Zobayda đi đến bên ô cửa sổ nhỏ, giống như cô đang mong chờ em mình xuất hiện ở con đường kia.
Nhưng, dĩ nhiên là Timoken không ở Toledo, cậu ấy không thể đến đây được. Nhưng Zobayda vẫn cảm thấy em mình ngày càng gần hơn bao giờ hết. Khi cô lơ đãng chạm vào dấu ấn của chiếc nhẫn trên tay mình, cô cảm thấy như mình đang bay lên bầu trời cùng Timoken và bạn của cậu giờ đây như những đốm nhỏ trong khung cảnh phía dưới. Khi họ biến mất khỏi tầm nhìn của cô, một vật gì khác lại xuất hiện. Zobayda đang ở cao trên bầu trời, nhưng cô chắc chắn rằng, đó là con quái vật màu đen, theo sau là chiếc xe ngựa chở những tên thầy tu mang vũ khí.
“Timoken, hãy cẩn thận!” cậu không thể nghe được tiếng của cô. Cậu không nhìn thấy cô sao? Có lẽ, em trai cô nghĩ cô đã chết rồi. Zobayda không thể làm gì cả. Đột nhiên, cô nghe thấy có ai đó đang gọi tên mình, đập mạnh vào cửa nhà cô.
Giấc mơ của Zobayda biến mất. Cô thấy mình trở lại mặt đất. Cô vẫn ngồi trong cửa hàng của mình, nhìn ra con đường vắng vẻ từ ô cửa sổ nhỏ bé. Trong lòng vẫn còn nhiều bồn chồn, lo lắng, Zobayda đi lên cầu thang ra sân, tiến đến mở cửa. Carmela, bạn của cô, đang ở ngoài cửa. Cô ấy nhìn như đang bấn loạn.
“Có chuyện gì vậy?” Zobayda đẩy bạn vào trong sân và đóng cửa lại. “Có chuyện gì đã xảy ra à, Carmela?”
“Bà không nghe thấy gì sao?” Carmela ngồi xuống hòn đá ở giữa sân. Sau lưng cô là cả một vườn hồng nở rộ, tỏa hương thơm ngát cả khu vườn. Carmela luôn thích ngắm nhìn chúng, nhưng hôm nay, cô không quan tâm đến những bông hồng nữa, cô cúi đầu, thở hổn hển.
Zobayda ngồi bên cạnh, chờ cho đến khi cô bình tâm lại.
“Một tin khủng khiếp,” Carmela nói, dùng tay vuốt ngực. “Trong thành phố thanh bình của chúng ta chưa bao giờ có đánh nhau, vậy mà bây giờ, nó đang diễn ra. Bà không nghe thấy tiếng la hét sao, Zobayda?”
“Tôi không nghe thấy tiếng gì cả. Tôi đang... mơ.”
“Tôi đã nghe thấy chúng. Tiếng động đến từ phía dòng sông. Người hàng xóm cho tôi biết tin. Những người lạ mặt đến từ phía bên kia một trong những cây cầu. Họ không chịu trả tiền thuế qua cầu. Khi những người lính chặn họ lại, tên cầm đầu của chúng, chỉ là một thằng bé, nó...” Carmela nhắm mắt lại. “Nó...”
Zobayda nắm lấy tay bạn mình: “Bà đang hoảng sợ. Hãy bình tĩnh nào, bạn của tôi.”
“Thanh kiếm của thằng bé đó vung lên nhanh đến nỗi bà còn không kịp nhìn thấy nó,” Carmela nói như hét. “Một vài người nói thằng bé không hề mang theo vũ khí. Nhưng cánh tay của người lính đó dứt lìa.” Carmela quay lại nhìn vào mắt Zobayda. “Họ nói thằng bé đó là một phù thủy và những kẻ đi cùng nó không phải là người.”
“Không phải là người?”
“Họ nói chúng có màu xanh lá cây, tay của chúng như những rễ cây, tóc chúng xoăn lại như dây nho.”
Nỗi sợ hãi chạy dọc sống lưng của Zobayda. “Bọn viridee,” cô thì thầm.
Carmela nhăn mặt: “Bà biết bọn chúng sao?”
“Tôi đã gặp chúng.” Zobayda đứng dậy và bắt đầu bước đi trong sân. “Chúng đang làm gì ở đây, nơi này cách Châu Phi quá xa?”
“Châu Phi?” Carmela đứng dậy và đi về phía cánh cửa. “Hãy khóa cửa lại, bạn thân mến. Đó là lời khuyên của tôi.”
“Hãy ở lại với tôi,” Zobayda van nài.
“Tôi phải đi về với các con,” Carmela đáp. “Hãy đi xuống cửa hàng của chồng bà và ở đây cho đến khi mọi việc kết thúc. Họ đã gọi Esteban Diaz.” Cô đi ra và đóng cửa lại.
Zobayda đóng cửa và dùng thanh chốt khóa chặt cửa lại. Bây giờ thì cô có thể nghe thấy tiếng la hét và cả tiếng vó ngựa. “Esteban Diaz,” cô thở dài và nhanh chóng đi xuống cửa hàng.
Esteban Diaz là tay kiếm giỏi nhất vương quốc Castile. Ông chưa từng thua cuộc trong bất kỳ trận đất nào. Vài tuần trước, con gái của ông bị bắt cóc, Esteban đang trên đường đi tìm con. Nhưng có tin đồn là ông đã trở về Toledo, chờ đọi bọn bắt cóc đưa ra giá để chuộc con mình.
Zobayda tò mò muốn nhìn ra ngoài cửa sổ, xem chuyện gì đang xảy ra, nhưng cuối cùng cô vẫn quyết định ngồi ở chiếc ghế ở cuối căn phòng. Từ chỗ này, cô có thể quan sát tất cả những món đồ chơi đang được trung bày, cô cố gắng quên đi âm thanh hỗn loạn bên ngoài và nghĩ về chồng mình, vẫn cắt, may, khắc và vẽ.
Tiếng la hét, tiếng gầm, tiếng vó ngựa ngày càng gần hơn và rõ hơn. Phải chăng thằng bé đó đã đánh bại đội quân?
Zobayda chờ đợi. Chờ đợi và chờ đợi. Một cuộc chiến lạ thường đã nổ ra trên phố. Nếu như thằng bé đó là phù thuỷ, nó sẽ dùng sức mạnh đáng sợ nào để chống lại con người? Nhưng, chắc chắn rằng, nếu có Esteban Diaz, thì chỉ có thể có một kết quả. Ngay cả những tên phù thuỷ cũng không thể nào đánh bại tay kiếm nổi tiếng của Toledo.
Mặt trời bắt đầu lặn. Các món đồ chơi trải những cái bóng trên nền nhà. Những tiếng ồn dần biến mất. Cuối cùng thì cũng yên tĩnh. Thằng bé đó và bọn viridee đã ra khỏi thành phố chưa, hay chúng đã chết rồi?
Một tiếng động lớn từ phía trên làm Zobayda đứng bật dậy. Cánh cửa trước sân nhà cô đã bị phá gãy. Cô nghe thấy tiếng kim loại rớt xuống, đó là tiếng của ổ khóa và then cửa. Xung quanh lại im lặng. Zobayda chờ đợi. Vòng tay ôm lấy cổ mình.
Có người bước xuống những bậc thang để xuống cửa hàng, một thằng bé mặc áo choàng màu xanh lá cây. Theo sau nó là bọn viridee. Có tất cả bốn tên. Chân chúng bước không phát ra tiếng, gương mặt chúng thật đáng sợ, mắt đỏ ngầu như bị đau. Chúng làm căn phòng tràn ngập mùi hôi thối.
Thằng bé đi về phía Zobayda, đá văng những món đồ chơi đang ngáng đường nó. Nó không thích đồ chơi. Nó không phải là một đứa trẻ bình thường.
“Ngươi là ai?” Zobayda hỏi, mắt cô nhìn rõ khung xương màu xanh sau làn da gò má trắng bệch của nó.
Thằng bé cười lạnh như băng: “Cha của ta là chúa tể của loài viridee, mẹ của ta là con gái của Bá Tước Roken của xứ Pomerishi. Ta là Bá Tước Harken.” Nó cúi chào chế nhạo.
Zobayda nhìn những sinh vật cao lớn phía sau thằng bé. Cổ họng cô khô cứng vì sợ hãi. “Ngươi muốn gì?” cô hỏi, giọng khàn đặc.
“Bà đang đợi em trai mình đến phải không? Không còn nghi ngờ gì nữa. Ta cũng thế. Vậy thì hãy cùng chờ với nhau nào.”
Timoken và năm đứa trẻ đã đi về phía đông trong nhiều tuần nay, nhưng họ vẫn chưa đi được bao xa. Mặt đất vẫn khô cứng, đầy sỏi đá. Ngay cả những con ngựa cũng đi lại rất khó khăn trên những con đường này. Thỉnh thoảng, Gabar còn không chịu đi tiếp. Nó ngồi lỳ xuống đất ăn những cọng cò khô cứng, đầy gai, phớt lờ những cố gắng của Timoken thúc giục nó đi về phía trước. Chỉ còn một cách duy nhất để khiến con lạc đà đi nhanh hơn. Nó phải bay.
Ban đầu thì Gabar không đồng ý với ý tưởng này lắm. Nhưng khi Timoken nói là ở quanh đây không có con lạc đà nào chế nhạo nó và con đường sẽ không khó khăn như khi bay qua ngọn núi. Vì vậy, sau một hồi suy nghĩ, do dự, nó đồng ý để Timoken nhấc nó bay qua một con đường đầy sỏi đá.
Lần đầu tiên khi thấy con lạc đà bay lên, những đứa trẻ ngạc nhiên đến không nói nên lời, nhưng sau đó, chúng bắt đầu reo hò, cổ vũ, thúc những con ngựa của mình phi nhanh hơn theo con lạc đà.
Giờ thì cả nhóm thường đi bằng cách này, tốc độ nhanh hơn đáng kể. Ban đêm, Timoken sẽ tạo ra lửa, những đứa trẻ sẽ nấu ăn từ những nguyên liệu chúng tìm được dọc đường. Khi Peredur đề nghị ăn trộm gà từ một ngôi làng nhỏ mà họ đi qua, Timoken nhớ ra rằng mình còn chưa tiết lộ một tài năng nữa.
“Nếu chúng ta bị bắt, chúng ta sẽ bị treo lên như những tên trộm,” Timoken nói với Peredur.
“Chúng ta sẽ không bị bắt,” Peredur khẳng định. “Nếu không thì chúng ta ăn gì đây? Thức ăn mà bà Magnier cho đã hết rồi.”
“Ngoại trừ cái này,” Timoken đưa tay vào túi lấy ra miếng thịt khô cuối cùng. Cậu nắm nó trong lòng bàn tay một lúc lâu và thì thầm một câu lệnh bằng ngôn ngữ của vương quốc bí ẩn. Khi cậu mở tay ra, miếng thịt đã được nhân đôi.
Những đứa trẻ khác nhìn chăm chăm vào miếng thịt, rồi nhìn Timoken. Không ai nói một lời nào khi Timoken tiếp tục làm ra nhiều miếng thịt, cho đến khi có đủ cho mọi người.
“Cảm ơn, thầy phù thủy,” cuối cùng, Mabon cũng mở lời nói. “Từ giờ chúng ta sẽ không lo bị đói nữa.” Mabon rất thích được ăn.
Tối hôm đó, họ cùng nhau ngồi xung quanh đống lửa, Beri kể về ngày mà cô bị bắt cóc. Cô bé là người duy nhất chưa kể về câu chuyện của mình.
“Cha của tôi rất nổi tiếng ở vương quốc Castile,” Beri nói. “Tên của ông là Esteban Diaz và ông là tay kiếm giỏi nhất trong vùng. Bất cứ khi nào có chiến tranh, đức vua đều cho gọi cha tôi. Cha tôi chưa bao giờ thua trong bất kỳ trận chiến nào, vì thế, đức vua ban cho ông rất nhiều của cải. Mẹ của tôi đến từ Catalonia, bà muốn tôi phải lấy một người họ hàng xa, đang sống ở đây. Gia đình của cậu ta rất giàu và có thế lực. Nhưng cha tôi muốn tôi gặp cậu bé ấy trước và để cho tôi tự quyết định. Thế là chúng tôi đi rất xa để đến Catalonia. Trên suốt con đường, tôi trông thấy hai người đàn ông cưỡi ngựa đi theo chúng tôi. Chúng đang theo dõi chúng tôi. Tôi nói cho mẹ nghe, nhưng mẹ tôi lại cho rằng tôi chỉ đang tưởng tượng mà thôi.”
“Và cậu quyết định như thế nào? Sau khi gặp người họ hàng của cậu?” Timoken hòi.
Beri bĩu môi: “Tôi không thích cậu ta. Cậu ta lớn tuổi hơn tôi. Mập ú và chán ngấy. Sau một ngày làm quen là tôi đã ‘bỏ của chạy lấy người’. Và đó là lúc tôi bị bắt cóc. Tôi nghĩ bọn bắt cóc theo dõi chúng tôi trên suốt con đường, từ khi chúng tôi rời khỏi Toledo. Chúng chỉ đang chờ đợi cơ hội để bắt tôi. Vì thế, nên khi chúng thấy tôi đi một mình, bên ngoài lâu đài, chúng không tin được vào sự may mắn của mình. Trước khi tôi kịp kêu cứu, thì chúng đã tiến đến, một tên lấy tay bịt miệng tôi, tên còn lại trói tay và chân tôi lại. Tôi bị thảy lên một trong hai con ngựa, chúng thúc ngựa chạy đi, lúc đó mọi người vẫn chưa biết được là tôi đã rời khỏi lâu đài.”
“Vậy thì, bọn chúng không phải những tên thầy tu,” Timoken nói.
Beri lắc đầu: “Những tên thầy tu đến sau đó. Trước khi chúng gửi giấy đòi tiền chuộc, những kẻ bắt cóc tôi bị những tên cướp giết hết. Những tên cướp không biết tôi là ai cả. Chúng chuyền tôi cho một băng nhóm khác, họ đã bán tôi cho những tên thầy tu. Tôi không biết tại sao chúng lại nhốt tôi trong lồng.”
“Chắc vì cậu đang mặc một bộ váy đắt tiền,” Timoken đáp. “Có lẽ chúng muốn tách cậu ra khỏi những người khác và sẽ thử đòi tiền chuộc khi tìm hiểu được thân thế của cậu.”
“Có lẽ, mình sẽ có nhiều cơ hội sống sót hơn khi mình là một đứa “con trai” như bây giờ,” Beri nói với nụ cười trên môi.
Thời tiết đã chuyển mùa. Ban đêm đã bắt đầu lạnh hơn. Khi hoàng hôn buông xuống, bầu trời tràn ngập một màu đỏ rực như lửa. Trong những ngày qua, những toán lính tràn ngập trên các con đường, bọn trẻ không muốn chạm mặt họ nên đã tránh vào rừng cây. Một đêm nọ, khi đi qua khỏi những hàng cây, chúng thấy mình đang ở trên một cao nguyên. Bên dưới, dòng sông chảy ngang qua những vách đá màu cát vàng, những bông hoa dại tỏa hương thơm ngát trong không khí, hoàng hôn làm mọi thứ phản chiếu một thứ ánh sáng ấm áp, ngọt ngào.
Họ quyết định sẽ nghỉ đêm lại đây, nhưng trước khi nhóm lửa, Timoken lấy áo choàng mặt trăng ra, trải nó dưới ánh hoàng hôn.
“Tôi nghĩ chúng ta vẫn nên đề phòng,” cậu nói với mọi người. “Nếu có ai muốn lấy đi áo choàng mặt trăng, thì mạng sống của các bạn và của tôi sẽ gặp nguy hiểm. Vì thế, tôi sẽ giấu nó đi.”
Không giải thích thêm gì nữa, Timoken đọc thần chú bằng ngôn ngữ của vương quốc bí ẩn. Cậu biến tấm tơ lấp lánh thành một tấm vải nhung mềm mại màu đỏ thắm. Trước mắt họ, những sợi tơ bắt đầu hợp lại với nhau xoắn lại rồi giãn ra cho tới khi nó biến thành một chiếc khăn choàng màu đỏ dưới chân họ.
“Các cậu cũng phải có một người một tấm,” Timoken nói. “Và áo choàng mặt trăng sẽ thực sự được giấu kín.”
Timoken cũng thay đổi cả những quần áo họ đang mặc, những cái áo khoác mỏng đều biến thành áo choàng màu đỏ, ấm áp. Cậu biến những thanh củi nhỏ thành những thanh kiếm và những miếng gỗ thành những cái khiên chắc chắn. Sau đó, họ dùng những viên than để vẽ lên khiên của mình, Timoken dùng những hình ảnh đặc trưng để nói lên tính cách của mỗi người: Mabon là con gấu, vì cậu là người khỏe nhất; Peredur là con sói vì hàm răng sắc nhọn như sói của mình; đại bàng là Edern, bởi vì cậu gần như đã từng bay; và cho ca sĩ Gereint là con cá, tượng trưng cho dòng suối âm nhạc.
“Và biểu tượng của cậu là gì?” Timoken hỏi Beri, cô bé vẫn con đang lưỡng lự.
“Một con thỏ rừng nhảy nhót,” cuối cùng cô cũng quyết định, cô vẽ đôi tai thỏ lên cái khiên của mình.
“Bởi vì tôi chưa bao giờ được phép chạy nhảy và bây giờ tôi biết mình rất thích chạy.”
Còn về phần mình, Timoken lấy biểu tượng là mặt trời rực lửa, mặt trời đã biến những sợi tơ màu bạc của con nhện mặt trăng thành tấm áo choàng nhung màu đỏ.
Khi họ tiếp tục lên đường vào sáng hôm sau, mọi người đều sẵn sàng cho bất cứ thử thách nào mà mình sẽ gặp. Cho dù không nói với nhau, nhưng mỗi người họ đều biết rằng một thử thách lớn đang ở phía trước, nó đang đến rất gần.
Ngay ngày hôm sau nữa, một người qua đường nói cho nhóm bạn biết rằng, nếu họ muốn đi đến vương quốc Castile thì họ phải đi theo về phía nam. Thế là, họ lại rẽ qua một con đường mới.
Timoken là người đầu tiên cảm nhận được sự nguy hiểm. Sự rung chuyển của mặt đất và tiếng sấm chớp từ xa như một điềm cảnh báo nguy hiểm với cậu. Timoken quay lưng nhìn lại, cậu thấy một đám bụi mù ở phía sau. Trong đám bụi ấy, xuất hiện một con quái vậy màu đen, kéo theo sau là một chiếc xe chở những tên côn đồ mặc áo choàng màu nâu.