Hoàng Tử Hà vội gấp quạt lại, bước vào hiên Tịnh Dữu.
Phòng ốc yên tĩnh, ngan ngát mùi trà. Cảnh Hữu đốt ít hương Băng Tiết, khiến cửa sổ lồng hương mát rượi.
Lý Thư Bạch ra hiệu cho cô ngồi xuống chiếc ghế đối diện. Nhìn qua song cửa thấy Cảnh Hữu đã rời sân, Hoàng Tử Hà liền đi thẳng vào đề, “Xem ra trong ba ngày nhất định phải phá được vụ án này, vì một khi thi thể bị đưa ra khỏi kinh an táng là sẽ mất luôn một chứng cứ quan trọng.”
Lý Thư Bạch chậm rãi gật đầu, “Trước hết ngươi cứ ra sức điều tra đi, nếu cuối cùng vẫn không được thì giao hết cho ta, dù sao cũng không thể để họ an táng được.”
Hoàng Tử Hà vâng dạ, lại nói, “Sáng nay Trần Niệm Nương tới tìm, tôi nghĩ nếu không có rủi ro gì thì trong ba ngày chắc chắn phá được vụ án này.”
“Lý Thư Bạch “ồ” lên một tiếng, nheo mắt nhìn cô, “Thật ư? Hôm nay Trần nương nói gì mà tiến triển nhanh thế?”
“Thứ nhất, tôi ngờ rằng cái xác đó....” Theo thói quen, cô lại giơ tay lần tìm cây trâm trên đầu. Thấy cô đặt tay lên tóc rồi từ từ bỏ xuống vẻ bất đắc dĩ, khóe môi Lý Thư Bạch thoáng cong lên, y rút trong ngăn kéo ra một chiếc hộp gấm dài đặt lên bàn, dùng hai ngón tay đẩy đến trước mặt cô.
Hoàng Tử Hà nghi hoặc nhìn y, “Gì vậy?”
“Ngươi mở ra xem.”
“Có liên quan đến vụ án ư?” Cô cầm lên hỏi.
Lý Thư Bạch quay sang ngắm con cá nhỏ đang lặng lẽ bơi lượn trong bình lưu ly trên bàn, nói bằng giọng lạnh nhạt và bực bội, “Cứ coi là thế đi, để cho ngươi tiện phá án.”
Hoàng Tử Hà mở hộp gấm ra, chỉ thấy một cây trâm nằm trên lớp lót bằng tơ gấm. Cô ngỡ ngàng cầm lên xem, thấy cây trâm dài chừng năm tấc, thân trâm bên dưới bằng bạc, phần đầu bằng ngọc chạm hình cỏ thông tâm lá cuốn, ngoại trừ hoa văn đẹp đẽ tinh xảo thì không có gì khác cả, rất thích hợp với một tiểu hoạn quan trong vương phủ như cô.
Nhưng vừa cầm lên tay, cô liền cảm thấy trọng lượng không đúng lắm, vội nhìn kỹ lại, lập tức phát hiện ra mấu chốt. Cô ấn vào chiếc lá cỏ thông tâm dưới cùng, chợt nghe cạch một tiếng, cây trâm bạc bên ngoài tách ra để lộ một cây trâm bạch ngọc khá mảnh bên trong, cầm vào tay thấy mát mẻ ấm áp, ánh ngọc ẩn vào trong.
Hoàng Tử Hà ngước lên nhìn Lý Thư Bạch, chần chừ hồi lâu mới dè dặt hỏi, “Là... tặng cho tôi ư?”
Lý Thư Bạch “ừm” một tiếng, vẫn không nhìn cô, giọng lạnh tanh, “Lúc nào cũng giơ tay sờ trâm, đến lúc sờ thấy lại không dám rút, trông rõ ngứa mắt. Hơn nữa nếu tóc ngươi xổ ra sẽ rất dễ bị phát hiện là nữ, sau này cũng khó xử lý.”
Hoàng Tử Hà dường như chẳng lọt tai những lời lạnh nhạt của y, cũng chẳng để tâm y bảo ngứa mắt với mình. Cô chăm chú nhìn y, nói với vẻ chân thành mà trịnh trọng, “Đa tạ vương gia, đây là thứ hiện giờ tôi cần nhất đấy.”
Thấy Hoàng Tử Hà cất chiếc hộp đi, Lý Thư Bạch bèn nhắc, “Chẳng biết tay thợ có hiểu ý ta không, cũng không rõ ngươi dùng hằng ngày có tiện không nữa.”
“Tôi vừa xem rồi, rất tiện lợi, thợ làm thực khéo.”
Lý Thư Bạch lại gợi ý, “Không dùng thử sao biết?”
“A...” Bấy giờ Hoàng Tử Hà mới hiểu y muốn gì, bèn đưa tay lên giữ tóc, trước tiên cắm cây trâm Lý Thư Bạch tặng lên, sau đó rút cây trâm vốn có bên trong ra, búi tóc vẫn nguyên vẹn.
Cô lại nắm lấy đầu cây trâm, ngón tay lần theo hoa văn cỏ thông tâm, vừa nắm vừa ấn xuống chỗ lá cuốn, tức thì cây trâm ngọc bên trong bật ra, cây trâm bạc bên ngoài vẫn y nguyên, búi tóc không hề suy suyển.
“Rất tiện dùng, tốt lắm.” Hoàng Tử Hà khen, lại giơ hai tay lần đến chỗ cây trâm bạc vừa tách ra, cắm trâm ngọc vào, cách một tiếng đóng lại.
Hoàng Tử Hà vui sướng ra mặt, mải mê vuốt ve cây trâm trên đầu, mặc cho mỗi lúc giơ tay lên đôi cổ tay nõn nà lại phơi hết ra ngoài. Cô nhoẻn cười với Lý Thư Bạch, “Đa tạ vương gia! Về sau tôi có thể suy luận phá án ở bất cứ đâu, bất cứ khi nào rồi.”
“Tốt nhất là bỏ cái thói đó đi.” Lý Thư Bạch nói.
Hoàng Tử Hà cũng chẳng lấy thế làm điều, lại rút cây trâm ngọc ra, “Nghe Trần Niệm Nương kể xong, tôi cảm thấy vụ án này nổi lên hai điểm rất quan trọng.”
“Thế ư?” Lý Thư Bạch rót một ly trà đẩy tới trước mặt cô.
Hoàng Tử Hà mải nghĩ đến vụ án, cũng không để ý lễ nghi, bèn nhận lấy uống một hớp rồi điểm trâm xuống mặt bàn, nhìn chằm chằm vào Lý Thư Bạch, “Cái xác xuất hiện trong điện Ung Thuần không phải là Vương Nhược.”
“Ừ, lần trước ngươi đã nhắc đến điểm nghi vấn này rồi.”
“Nhưng lần này đã khẳng định được: người chết là Cẩm Nô. Hẳn là vương gia cũng gặp rồi, chính là thiếu nữ chơi tỳ bà ở giáo phường vẫn thân thiết với Chiêu vương ấy!”
“Khẳng định rồi ư?”
“Về cơ bản có thể khẳng định rồi. Trước đây tôi vẫn không hiểu lắm về vết chai kỳ lạ trên tay phải cái xác. Mép bàn tay bên dưới ngón út vì sao lại có một lớp chai mỏng, rốt cuộc thường làm việc gì mới hay chà xát vào chỗ đó? Giờ nghĩ lại thì, chính là khi dùng móng gảy tỳ bà, phần cuối móng cấn vào mép bàn tay dưới ngón út, lâu ngày da thịt chỗ đó bị ma sát nhiều, tạo thành một lớp chai mỏng.”
“Nghe có lý đấy, nhưng nhạc sư tỳ bà dưới gầm trời này nhiều như thế, sao ngươi có thể khẳng định đó là Cẩm Nô?”
“Vì hiện giờ Cẩm Nô đã mất tích, mà lúc cô ta mất tích thì cái xác kia cũng xuất hiện ở điện Ung Thuần.”
Lý Thư Bạch khẽ gật đầu, “Còn chứng cứ nào đanh thép hơn không?”
“Còn.” Cây trâm trên tay Hoàng Tử Hà vạch một mũi tên trên giấy, lại viết bên cạnh mấy chữ: phường Sùng Nhân, “Đêm Cẩm Nô mất tích, những đồ ăn ở Chuế Cẩm Lâu mà Chu Tử Tần gói lại đem về đã đầu độc chết mấy tên ăn mày.”
Chu Tử Tần từng hớt hải đến tìm vì việc này, đương nhiên Lý Thư Bạch còn nhớ. Y gật đầu, “Lần đó ta nhớ các ngươi nói Cẩm Nô cũng có mặt.”
“Phải, những đồ ăn tôi và Chu Tử Tần đưa đến cho đám ăn mày, chúng tôi đều ăn cả, mọi người trên tiệc chẳng ai làm sao. Chúng tôi cũng tận mắt nhìn thấy đám ăn mày dùng tay bốc ăn. Như vậy có hai khả năng, một là lá sen bọc đồ ăn có vấn đề... Nhưng Chu Tử Tần nói độc tính của nhựa cây độc tiễn rất mạnh, lá cây dính phải sẽ đen sạm, mà lá sen bấy giờ đều mới rửa, còn non xanh, không thể dính độc được.”
Lý Thư Bạch gật đầu, “Vậy khả năng kia là tay các ngươi có độc.”
“Đúng thế, bấy giờ có ba người chạm tay vào. Tôi không sao, Chu Tử Tần cũng bình yên vô sự, vậy khả năng duy nhất là chất độc bắt nguồn từ tay Cẩm Nô.” Hoàng Tử Hà thở dài, “Cô ấy xưa nay hoạt bát phóng khoáng, vậy mà hôm ấy cứ phàn nàn về chuyện cuống anh đào đâm vào tay. Thực ra, đó hẳn là do đã tiếp xúc với nhựa cây độc tiễn, độc tính phát tác làm hai tay tê dại đi rồi. Bằng không đôi tay giữ gìn chừng nào, da thịt mỏng manh ra sao, cũng đâu thể bị cuống anh đào đâm được?”
“Lẽ nào nhựa độc tiễn dính phải tay cũng thấm qua da làm chết người ư?”
“Nghe nói là không thể. Bởi vậy tôi vẫn có một điểm không hiểu, là Cẩm Nô trúng độc lúc nào. Tay cô ấy không có vết thương, chất độc hình như lại không vào theo đường miệng. Huống hồ hôm đó cô ấy luôn ở bên cạnh chúng tôi, vậy mà lúc sắp đi khỏi lại trúng độc... Dựa vào độc tính kiến huyết phong hầu, tuyệt đối không thể có người ngang nhiên hạ độc trước mặt chúng tôi được. Bởi vậy cô ấy trúng độc ra sao, trúng lúc nào, tôi vẫn chưa nghĩ ra.”
“Song ít nhất thì thân hình phù hợp, đặc điểm bàn tay phù hợp, cái chết phù hợp, hẳn có thể khẳng định được rồi.” Lý Thư Bạch gật đầu, đoạn gạt ngay vấn đề sang một bên, hỏi tiếp, “Điểm thứ hai mà ngươi nói là gì?”
Hoàng Tử Hà lại dùng trâm ngọc vạch mũi tên thứ hai lên giấy, trỏ về hai chữ: Từ Châu, “Đúng như vương gia phán đoán khi trước, chuyện này quả thực liên quan tới hai cô gái gia cứu ở Từ Châu.”
“Hở?” Lần này Lý Thư Bạch ngạc nhiên ra mặt.
“Bởi thế tôi và Trần Niệm Nương đang đợi một người vào kinh, chỉ cần cô ta đến nơi, vụ án này có thể giải quyết dễ dàng.”
“Người nào vậy?”
“Trình Tuyết Sắc. Cũng chính là cô gái họ Trình được gia cứu ở Từ Châu. Tôi đang đợi cô ta đem một bức họa đến. Tôi nghĩ, cô ấy chính là chứng cứ thuyết phục nhất trong vụ án này.”
Vẻ mặt cô hết sức nghiêm trang, giọng điệu cũng quả quyết, rõ ràng đã có dự liệu trước.
Lý Thư Bạch ngước mắt nhìn Hoàng Tử Hà. Nắng len qua rèm, lồng lấy thân hình làm cả người cô sáng bừng lên, sáng đến mức tưởng chừng soi rọi được hết thảy ô trọc đen tối đang lẩn lút trên đời.
Lý Thư Bạch ngả người ra lưng ghế, thở dài nói, “Vậy thì tốt, hy vọng món tiền cược ta đặt vào ngươi có thể làm ta hài lòng.”
“Tôi nhất định không để vương gia thất vọng.” Dù sao, nếu muốn lật lại bản án của gia đình thì vẫn phải trông vào kẻ này, bởi thế Hoàng Tử Hà lập tức bày tỏ sự tận tụy.
Tiếc rằng Lý Thư Bạch chẳng buồn để ý đến sự tận tụy đó, chỉ hỏi, “Tiếp theo ngươi định ra tay từ đâu?”
“Tìm kiếm từ chỗ Cẩm Nô, nhân giờ còn sớm, tôi sẽ tới chỗ ở của Cẩm Nô tại ngoại giáo phường(*) điều tra, xem có thấy manh mối gì không.”
(*) Giáo phường xuất hiện sớm nhất vào những năm Vũ Đức dưới thời Đường Cao Tổ (618 - 626), được gọi là nội giáo phường, do Thái Thường Tự quản lý. Dưới thời Võ hậu (684 - 704), một độ đổi tên thành Vân Thiều Phủ. Thời Đường Trung Tông (năm 705) lại khôi phục tên cũ, đến năm Khai Nguyên thứ hai (714) lại đặt thêm bốn ngoại giáo phường, hai ở Lạc Dương, hai ở Trường An, còn quy định giáo phường sẽ do giáo phường sử, giáo phường phó sử được cung đình phái tới coi sóc, không chịu sự quản lý của Thái Thường Tự nữa.
“Định dùng danh nghĩa gì để điều tra?”
Hoàng Tử Hà thoáng trầm ngâm rồi đáp, “Nói rằng tôi là hoạn quan ở vương phủ, vương gia nhà tôi từng trao cho Cẩm Nô một thứ quan trọng nên giờ tôi đến để tìm.”
Lý Thư Bạch lạnh lùng, “Không được lôi lệnh tín ra đâu đấy.”
Hoàng Tử Hà hành lễ cáo lui, “Vương gia yên tâm đi, tôi chỉ cần nói là người của vương phủ, mọi người đều sẽ ngầm hiểu là Chiêu vương.”
“Hừm.” Lý Thư Bạch thấy cô đã lui ra, còn hỏi thêm, “Không ăn cơm tối à?”
“Không, còn nấn ná nữa thì lúc về sẽ gặp giới nghiêm mất.” Cô lại nghĩ ngợi một thoáng rồi ngoái đầu nói, “Để khỏi phải dùng tới lệnh tín của vương phủ, tôi xin được tăng thêm hai mươi đồng vào kinh phí tra án.”
Lý Thư Bạch kinh ngạc, “Hai mươi đồng đó dùng làm gì vậy?”
“Buổi tối về vương phủ phải thuê xe.”
Lý Thư Bạch nhìn cô, vẻ mặt phức tạp. “Sao ngươi lại khánh kiệt đến mức này?”
“Vì hoạn quan hạng bét Dương Sùng Cổ từ sau khi theo vương gia đến giờ không xu dính túi, nghèo khổ vô cùng.” Cô đáp ngay, không chút hổ thẹn.
“Sao không bảo Cảnh Dục dẫn đến phòng thu chi ứng trước?”
“Đợi phê duyệt xong xuôi chắc phải đến tháng sau, chừng đó thì tôi đã lĩnh lương mới rồi, nước xa đâu cứu được lửa gần!”
Lý Thư Bạch nhướng mày, gương mặt luôn thản nhiên trước mọi sự cuối cùng cũng lộ vẻ bất lực và bực bội. Y mở ngăn kéo, rút ra một cái túi ném cho cô.
“Đa tạ vương gia!” Hoàng Tử Hà mau mắn bắt lấy, quay người chạy thẳng.
Thành Trường An dưới triều Đại Đường có hai ngoại giáo phường, các nghệ nhân tỳ bà cầm sắt đều ở ngoại giáo phường phía Tây tại phường Quang Trạch, cách phường Vĩnh Gia nơi có Quỳ vương phủ không xa.
Hoàng Tử Hà chạy đến nơi. Vì trong giáo phường có đủ cả nhạc công, vũ công, kỹ nữ, nên ngoài cửa cũng có một bà lão ngồi cắn hạt dưa, thấy cô đến bèn giơ tay ngăn lại hỏi, “Tiểu công công tìm ai vậy?”
Hoàng Tử Hà vội hành lễ đáp, “Xin lỗi bà, tôi muốn vào trong tìm Cẩm Nô.”
“Ai da, hôm nay thực là khéo quá, hết người này lại tới người kia tìm Cẩm Nô.” Nói đoạn, bà ta giũ sạch vỏ hạt dưa trên áo đứng dậy hỏi, “Không phải công công cũng cho Cẩm Nô mượn thứ gì đó, giờ nghe nói cô ấy bỏ trốntheo người ta nên đến lấy lại chứ?”
Hoàng Tử Hà kinh ngạc ồ lên, “Lúc trước đã có người đến rồi ư?”
“Còn không ư, là một cô gái đẹp như tiên trên trời ấy, lão nương cả đời chưa thấy ai đẹp đến thế cả.” Bà lão lải nhải nói hoài không thôi. “Dung mạo ấy dáng dấp ấy, dù là người trong tranh bước ra cũng còn thua bề lộng lẫy sinh động kia.”
“Bà có biết tên họ cô ấy không?” Hoàng Tử Hà vội gặng.
“Không biết, dầu gì cũng không phải chỉ biết nói suông như công công đâu, người ta còn cầm cả thư Cẩm Nô viết cho năm xưa đến đấy! Lão nương cũng biết chữ mà!”
Thấy bà lão này không hề có ý để mình vào, Hoàng Tử Hà đành cười lấy lòng, rút một phần kinh phí trong túi ra dúi cho bà ta, “Bà xem này... Tôi cũng chỉ phụng lệnh mà đến đấy thôi. Vương gia nhà chúng tôi giao cho Cẩm Nô cô nương một vật rất quan trọng, giờ biết tin cô ấy bỏ đi, đang nổi trận lôi đình kia kìa, chuyến này nếu tôi không lấy được đồ về, có khi vương gia sẽ tống cổ tôi đi mất.”
“Ôi chao, vậy thì không được, lão nương bình thường rất thương người, đâu nỡ nhìn người ta chịu khổ.” Bà lão nhét đĩnh bạc nhỏ vào ngực áo xong, tức thì tươi cười niềm nở, “Đến đây đến đây, để ta chỉ cho công công phòng của Cẩm Nô, là gian thứ ba ở dãy thứ hai đầu phía Đông kia kìa, chưa đầy một canh giờ nữa là chúng ta phải đóng cửa bấm khóa, công công tìm mau mau đi.”
Hoàng Tử Hà cười đưa đà, luôn miệng vâng dạ rồi rảo bước đi tới gian thứ ba dãy thứ hai đầu phía Đông. Vừa tới nơi, cô đã thấy cửa phòng Cẩm Nô mở toang, hai tiểu a đầu đang đứng trước cửa tán gẫu.
Hoàng Tử Hà liền bước đến hỏi, “Hai vị, xin hỏi cô gái đẹp như tiên vừa nãy đâu rồi?”
Hai tiểu a đầu ngoái lại nhìn Hoàng Tử Hà, quan sát bộ đồ hoạn quan trên người cô một lượt, đoạn cười hỏi, “Ngươi ở đâu vậy? Bên nội giáo phường? Hay là công công trong phủ các vương?”
“Vương gia nhà ta có gửi món đồ ở chỗ Cẩm Nô cô nương, giờ cô ấy lại bỏ đi, nên vương gia sai ta đến tìm, tuy chẳng phải vật hiếm lạ gì, song cũng là thứ vương gia từng nâng niu...” Hoàng Tử Hà khẩn khoản nói, “Nghe nói lúc trước cũng có một cô gái tuyệt đẹp tìm tới đây ư?”
“Chứ gì nữa, Cẩm Nô vốn dĩ đã đẹp lắm rồi, ai ngờ còn một tiểu muội đẹp đến nhường ấy.” Tiểu a đầu bên trái nói, đoạn ngó vào trong dẩu môi, “Chẳng phải cô ta nói qua nhà bên mua ít đồ lặt vặt ư? Sao vẫn chưa về?”
“Đúng thế, tôi đang háo hức muốn xem bức tranh kia của cô ta.” A đầu còn lại cau mày.
Hoàng Tử Hà kinh ngạc hỏi, “Bức tranh gì thế?”
Chính là bức tranh vẽ sáu người con gái nào đó, nghe đâu Dương Châu có mấy nghệ nhân ca múa nhạc nhờ ngộ được đạo lý về ca về nhạc trong bức tranh đó, cuối cùng trở thành truyền kỳ một đời đấy.”
Hoàng Tử Hà bật cười, “Vân Thiều Lục Nữ ư?”
“Đúng thế đúng thế, công công cũng biết à? Nhưng công công là tiểu hoạn quan, lại không học nhạc học múa, cũng muốn ngắm bức tranh đó để ngộ đạo ư?”
“…” HoàngTử Hà không khỏi nghẹn họng, thầm nghĩ chẳng biết lời đồn quái dị kia từ đâu mà ra. Cô đoán mỹ nữ mang bức tranh đến nhất định là Trình Tuyết Sắc, không khỏi kinh ngạc trong lòng, chẳng hiểu sao Trần Niệm Nương không cùng cô ta tới tìm mình trước.
Hai a đầu đợi hồi lâu, thấy người vẫn chưa về, bèn nhấp nhổm muốn đi. Hoàng Tử Hà bèn hỏi, “Ta có thể vào phòng Cẩm Nô không?”
“Được được, từ khi cô ấy đi, những món đáng tiền và quan trọng chắc đều đã mang đi, những thứ để lại cũng bị người trong phường chia nhau cả rồi, kẻ nào kẻ nấy nói thì hay lắm, nào là giúp Cẩm Nô thu dọn này kia, thực ra đều tự lấy về dùng. Tôi thấy bên trong đến tám phần là chẳng còn gì hết.”
“Nói thì nói vậy, song cũng nên thử vận may một phen.” Hoàng Tử Hà nói, đoạn từ biệt bọn họ, bước vào trong nhìn quanh một vòng.
Phòng Cẩm Nô bày biện rất trang nhã, trên cửa sổ hoa chăng một lớp the mỏng màu hồng mân côi, giữa phòng trong phòng ngoài có một bức rèm châu ngăn cách. Từ cửa chính đi vào là sảnh nhỏ, ánh đèn từ sau song hoa hắt vào, thì ra giáo phường đã lên đèn.
Ngay dưới cửa sổ lại đặt một kỷ một sập, trên kỷ bày mấy món đồ chơi, trong bình sứ cắm hai cành thạch lựu, giờ đã héo khô, cánh hoa và lá rụng đầy bàn.
Cô ngồi xuống chiếc ghế nhỏ bên cạnh, vừa suy ngẫm về vụ án vừa đợi Trình Tuyết Sắc.
Trời càng tối, ánh đèn ngoài song rọi vào lại càng sáng. Trình Tuyết Sắc vẫn không trở về.
Cuối cùng Hoàng Tử Hà không đợi nổi nữa, quyết định tra xét trước xem sao. Cô đứng dậy, bước đến bên ngăn tủ, mượn ánh đèn bên ngoài hắt vào, mở tủ ra xem.
Quả như lời hai a đầu kia nói, nhũng thứ tử tế bên trong đã bị cuỗm hết cả, chỉ còn mấy bộ quần áo bị bới tung.Lại lục tìm bàn ghế giường sập, cũng chẳng thu được gì. Cô gái mà mọi người kể rằng vừa mới bước vào, có lẽ đã lấy đồ bỏ đi rồi.
Hoàng Tử Hà trầm ngâm đi lại trong phòng, săm soi tất cả ngóc ngách, cuối cùng trông thấy thứ gì đó lấp lánh trong góc phòng, hắt sáng lấp lóe dưới ánh đèn bên ngoài chiếu vào.
Cô bèn nằm bò ra đất, với tay vào góc nhà bên dưới giàn hoa, cầm lấy vật phản quang nọ.
Là nửa thoi bạc.
Xấp xỉ bằng nửa thoi tìm thấy trong điện Ung Thuần, từ vết chặt và độ sáng đủ chứng minh nửa thoi này có thể ghép cùng nửa thoi kia thành một thoi bạc hoàn chỉnh.
Cô vội nhét nửa thoi bạc vào ngực áo, sau đó lại lục soát trong phòng thêm lượt nữa, xác định không bỏ sót thứ gì mới bước ra cửa.
Hớt hải chạy ra kịp trước khi giáo phường đóng cửa, Hoàng Tử Hà một mình đứng trước phường Quang Trạch nhìn quanh, thành Trường An đã sắp đến giờ giới nghiêm, bốn bề vắng lặng, chẳng tìm đâu được một cỗ xe để quay về.
Cô bất lực thở dài, rảo bước đi về phía Quỳ vương phủ.
Các hộ trong kinh đã im phăng phắc, chỉ nghe tiếng trống đóng cổng từ tháp canh vọng lại, từng tiếng từng tiếng âm vang cả màn đêm. Cô guồng chân chạy qua phố lớn ngõ nhỏ trong kinh, phường Quang Trạch nằm ở Bắc thành, gần cung Đại Minh và cung Thái Cực, song chẳng lấy gì làm ồn ã, cô gần như có thể nghe được tiếng chân mình vang vang trên đường.
Phía sau vọng đến tiếng người quát hỏi, “Ai vậy? Muộn thế này còn ở đây làm gì?”
Hoàng Tử Hà ngoái lại trông thấy tên lính tuần tra đang đuổi tới, bèn giải thích, “Tôi là hoạn quan ở Quỳ vương phủ, vì có việc dằng dai lâu quá nên giờ mới vội chạy về.”
Nghe nói là người của Quỳ vưong phủ, thái độ đối phương tử tế hẳn lên, lại hỏi, “Có công văn hay thư tay gì chứng minh không?”
“Không cần thư tay, ta biết người này. Là Dương Sùng Cổ Dương công công ở Quỳ vương phủ.” Đằng sau có người nói.
Nghe giọng nói, Hoàng Tử Hà bất giác thở dài, quay lại khom lưng hành lễ, “Vương đô úy.”
Hữu đô úy Vương Uẩn ở ty Phòng vệ kinh thành, hôm nay có nhiệm vụ tuần tra bên này.
Vương Uẩn ngồi trên lưng ngựa, từ trên cao nhìn xuống cô, song không hề tỏ vẻ cao ngạo, trái lại sắc mặt rất ôn hòa, giọng nói điềm đạm, “Dương công công, chiều nay còn thấy nhàn tản đứng trước cửa vương phủ ngắm trời đất, sao đến tối lại tất bật tới tận bây giờ?”
“Ừm... Tôi tính sai tốc độ của mình, cứ nghĩ sẽ về kịp trước giờ giới nghiêm.” Xem ra cô đã nấn ná trong phòng Cẩm Nô quá lâu.
Vương Uẩn gật đầu, ra hiệu cho các hộ vệ tuần tra cứ đi theo lộ trình ban đầu đến các con phố khác, sau đó giơ tay vỗ vỗ vào mông con ngựa đang cưỡi, “Lên đây, ta đưa công công về vương phủ.”
“A… Không cần đâu, đại nhân bận bịu việc công, đâu dám phiền đại nhân đưa tôi về.” Cô gượng cười hành lễ rồi hối hả đi tiếp.
Tiếng vó ngựa lộp cộp đằng sau, Vương Uẩn vẫn đi theo.
Cô quay lại nhìn y, còn y thì nhìn thẳng ra trước, ôn hòa đề nghị, “Gần đây trong kinh không được yên ổn lắm, để ta đi cùng công công.”
“Đa tạ... Vương đại nhân.” Cô khó nhọc nặn ra mấy chữ ấy, rồi nín thinh.
Phố dài vắng tanh, những ngọn đèn nơi góc phố lặng lẽ tỏa sáng trong đêm. Thỉnh thoảng lại một cơn gió ùa tới lay động ngọn lửa, đèn đuốc của cả thành Trường An dường như đều lay lắt trong gió, thoắt sáng thoắt tối, chập chờn tựa sóng gợn, bao trùm lấy kinh thành.
Hai người đi về hướng Quỳ vương phủ. Vương Uẩn cưỡi ngựa, Hoàng Tử Hà đi bộ, con ngựa được huấn luyện rất cẩn thận, tính tình cũng ôn hòa, cứ thong thả cất bước mà đi, trước sau vẫn cùng một nhịp với Hoàng Tử Hà.
Họ buớc qua đèn lửa dập dềnh như sóng, băng qua những con đường rộng rãi thẳng tắp ở Trường An. Muôn lầu ngàn gác sáng rực dưới đèn đêm, giữa thành thị phồn hoa nhất trần đời này.
Phương Vĩnh Gia là nơi tập trung nhiều vương công quý tộc, thỉnh thoảng lại nghe tiếng đàn ca từ mấy nhà đang có tiệc vui, gió đưa tới tai họ tiếng ngân của ca nữ dịu dàng nũng nịu, “Bóng ngô đồng ngoài rèm châu ấy, sương dợm rơi tay biết trước rồi.. ”
Hoàng Tử Hà đang nghĩ vơ nghĩ vẩn, chợt nghe Vương Uẩn cười nói, “Còn chưa đến mùa hạ, sao đã có sương thu rồi?”
Hoàng Tử Hà ngây người một thoáng mới hiểu y đang nhắc tới khúc hát kia. Bèn bình luận, “Ý hợp là được, ngoại vật quan trọng gì.”
Y nghiêng đầu nhìn cô, “Ừm, là ta quá câu nệ vào ngoại vật rồi.”
Dù sao cũng đã lên tiếng, Hoàng Tử Hà liền hỏi, “Quan tài Vưong cô nương ít hôm nữa phải đưa về Lang Gia, mấy ngày nay hẳn đô úy rất bận, sao còn trực đêm?”
“Gia đình lớn mà, chỉ cần sắp xếp ổn thỏa là sẽ có người thực hiện, không cần phải trông nom luôn luôn.” Vương Uẩn đáp, đoạn ngước lên nhìn màn đêm trước mặt, “Huống hồ ta rất thích màn đêm ở Trường An, yên tĩnh mà sâu xa hơn ban ngày nhiều, lầu gác lung linh ánh đèn khác chi lầu quỳnh gác ngọc, song cảnh sắc ẩn giấu bên trong ra sao thì con người ta không tài nào thấy hết được.”
“Thân ở bên trong đương nhiên sẽ quanh co mất phương hướng, chỉ thoát ra mới thấu tỏ thôi.”
Vương Uẩn mỉm cười nhìn cô, “Dương công công nói phải lắm, người ngoài nhìn vào tự nhiên sẽ rõ ràng.”
Ánh đèn lúc xa lúc gần mơ hồ soi lên nụ cười của y, nụ cười dường như còn chứa đựng một hàm nghĩa khác mà cô chưa rõ được.
Hoàng Tử Hà chợt thấy ê ẩm cả hai hàm răng. Đối xử với hoạn quan thế này không bình thường chút nào. Y đã nhận ra cô, hay vẫn còn hoài nghi? Nếu về sau phải đề phòng, thì nên đề phòng từ đâu đây?
Cô cúi gằm mặt, không dám nhìn y thêm nữa, chỉ đáp, “Tôi sắp đến nơi rồi, mời Vương đại nhân về thôi.”
“Được, lần sau đừng quên bẵng thời gian, nấn ná bên ngoài lâu như thế nữa.” Nói đoạn, Vương Uẩn ghìm cương dừng ngựa giữa đường, đưa mắt nhìn theo bóng cô đi xa dần.
Hoàng Tử Hà rảo bước chạy đến cửa ngách ở góc Tây Bắc Quỳ vương phủ, gõ cửa bước vào. Lúc khép cửa lại, cô còn ngoái đầu nhìn về phía Vương Uẩn.
Y vẫn ghìm ngựa nhìn cô, trong màn đêm, dưới ánh đèn, vẻ mặt ấm áp ôn hòa như gió xuân.
Cũng chẳng rõ y ghìm cương đứng đó bao lâu, sau lưng chợt có một người cưỡi ngựa thong thả đến gần, “Uẩn nhi, khi nào con về? Trong nhà nhiều việc lắm.”
“Con về ngay đây.” Vương Uẩn quay đầu ngựa, theo cha về nhà, “Cha, hôm nay sao cha lại đích thân ra ngoài?”
Vương Lân thở dài đáp, “Hoàng hậu triệu kiến gấp, ta có thể không đi ư?”
Vương Uẩn lặng lẽ gật đầu, hai người hai ngựa, chầm chậm thả nước kiệu.
“Việc giao cho con đã làm xong chưa?”
“Thưa, đã giải quyết.” Y bình thản đáp, “Dùng thuốc làm tiêu tan ít máu thịt, chắc hẳn không ai nhận ra được nữa.”
“Đích thân ra tay ư?”
“Đương nhiên không, con tìm một người đáng tin cậy.”
“Đáng tin cậy ư?” Vương Lân lạnh lùng nói, “Trên đời này chỉ người chết mới có thể coi là đáng tin mà thôi.”
“Vâng, để con lựa dịp.”
Hai người lặng thinh không nói gì nữa. Phủ đệ họ Vương đã thấp thoáng đằng xa.
Cả hai bước vào, đám gác cửa dắt ngựa cho họ, hai cha con men theo hành lang quanh co, đi thẳng vào nhà trong
Ngọn đèn lồng bên trên viết một chữ “Vương” ngang bằng sổ thẳng tỏa ánh hồng xuống mặt đất, khiến tòa phủ đệ quạnh quẽ cũng ấm lên đôi phần.
Vương Lân đang đi, chợt thong thả dừng bước giữa màn đêm, quay lại nhìn Vương Uẩn.
Vương Uẩn không hiểu ra sao, cũng nhìn cha. Vương Lân nhìn đứa con trai đã cao hơn mình cả nửa cái đầu, lộ vẻ an ủi xen lẫn cảm thương, “Uẩn nhi... thực ra ta không muốn tay con vấy máu.”
Vương Uẩn mím môi hồi lâu mới đáp, “Con là người nhà họ Vương, phải đứng hàng đầu để che chắn tất cả gió mưa cho nhà họ Vương, chết cũng không tiếc.”
Vương Lân vỗ mạnh vào vai con trai, khen ngợi, “Con giỏi lắm... Tiếc rằng đời này nhà họ Vương chỉ được một mình con.”
“Tỷ tỷ tuy là nữ nhi, song kiên nghị quả cảm, giờ lại ngồi trên ngôi hoàng hậu, vì nhà họ Vương chúng ta, e rằng tỷ tỷ còn vất vả hơn con nhiều.” Vương Uẩn nói.
Vẻ mặt Vương Lân bỗng trở nên phức tạp, ông ta cau mày hồi lâu mới gật đầu, “Đúng thế, dẫu sao đó cũng là người nhà họ Vương...”
Vương Uẩn lại nói, “Nếu A Nhược không xảy ra chuyện, cũng sẽ là Quỳ vương phi xuất sắc.”
“Đúng thế, mấy đứa con gái họ Vương đời này đều tầm thường cả, chẳng ai xuất sắc được như nó, khiến Quỳ vương gia thoạt nhìn đã xiêu lòng.” Vương Lân than thở, “Trước đây khi bệ hạcòn là Vận vương, được mời tới nhà ta dự yến, cũng ưng tỷ tỷ con ngay. Đủ thấy trên đời này vĩnh viễn chỉ có dung mạo tuyệt sắc là có thể hấp dẫn người ta thôi.”
Vương Uẩn nghe cha than thở, nhìn lên lồng đèn đỏ rực treo dưới mái hiên, bất giác lại nhớ đến Hoàng Tử Hà, nhớ lại ba năm trước lúc cô mới mười bốn tuổi, y len lén theo sau, trông thấy vóc dáng cô mềm mại mà trong sáng, mảnh mai đỏ thắm như mùa hoa mới chớm.
Vẻ trong sáng ấy khiến y phải lục lọi trí nhớ. Hoàng Tử Hà thời ấu thơ trong ký ức y từ từ quay đầu lại, sau đó…
Dung mạo hợp làm một với Dương Sùng Cổ. Biến thành một người.
Hoàng Tử Hà và Dương Sùng Cổ, một thiếu nữ mười ba mười bốn, một hoạn quan mười bảy mười tám; một yểu điệu, một thanh thoát; một trắng trẻo nõn nà, đường hoàng tự tin, ngời ngời xuân sắc giữa ngự uyển năm xưa, một yếu ớt gầy gò, nét mặt xanh xao, cẩn thận dè dặt bên cạnh Quỳ vương.
Rõ ràng là một tiểu hoạn quan trong vương phủ, chẳng hiểu sao hết lần này sang lần khác cứ làm y liên tưởng đến Hoàng Tử Hà, hơn nữa ngay lần đầu tiên gặp mặt, y đã thấy là lạ. Lẽ nào chỉ vì cả hai đều giỏi phá án, hơn nữa dung mạo viên hoạn quan còn nhang nhác người trong cáo thị?
Y từng kín đáo phái người đi điều tra thân phận Dương Sùng Cổ, thì thấy lai lịch rõ ràng minh bạch cả, là người từ Cửu Thành cung chuyển sang Quỳ vương phủ, chữ ký lúc mới vào cung cũng còn nguyên – có điều bấy giờ Dương Sùng Cổ chưa biết chữ, chỉ vẽ một vòng tròn lên giấy mà thôi.
Còn cả một bằng chứng thép, chính là Quỳ vương Lý Thư Bạch.
Nghi ngờ thân phận Dương Sùng Cổ, khác nào mạo phạm Quỳ vương.
Nghĩ tới vị hôn thê từng mang lại cho mình vô vàn nhục nhã, Vương Uẩn bỗng ngấn ngơ. Bấy giờ cha y lại dặn dò “Uẩn nhi, nhà họ Vương sa sút đến độ này, e rằng tổ tiên nơi suối vàng cũng thấy hổ thẹn... Tất cả hy vọng bây giờ đều gửi gắm vào con đó. Dù con không thể khôi phục lại vinh quang năm xưa của nhà ta, thì ít nhất cũng không thể để thế lực họ Vương trong triều bị bẻ gãy được!”
Vương Uẩn nghiêm trang gật đầu, “Nhà chúng ta hiện giờ, trong cung có hoàng hậu, ngoài triều lại có cha, cũng không coi là yếu thế.”
“Con sai rồi, thực ra ngoài triều và trong cung, người họ Vương có ảnh hưởng lớn nhất không phải là ta và hoàng hậu đâu.” Vương Lân mỉm cười, không khỏi đắc ý, “Con quên ư, còn một người nữa đủ sức khuấy đảo thiên hạ, thay triều đổi đại kìa. Có điều mọi người đều quên rằng, người ấy cũng họ Vương.”
Vương Uẩn cúi đầu làm thinh, hồi lâu mới đáp, “Dạ.”
“Ít hôm nữa, đợi quan tài Vương Nhược đi rồi, con phải tới thăm hỏi đấy, kẻo người ta lại quên bẵng gia tộc mình.” Vương Lân nghĩ ngợi chốc lát lại nói tiếp, “Người ấy thích nuôi cá, nhớ mang theo mấy con. Cá màu đỏ là tốt nhất.”
“Chẳng biết nhà bếp còn đồ ăn không nữa?”
Về đến vương phủ, Hoàng Tử Hà thấy ruột gan cồn cào. Suốt ngày hôm nay, trừ mấy cái nem bữa sáng và dăm cốc trà bữa trưa, cô toàn chạy vạy bên ngoài, chưa được một hạt cơm nào vào bụng, giờ đã đói đến hoa cả mắt.
Cô ôm bụng lần đến nhà bếp xem thử thì thấy lò nấu nguội ngắt, không một bóng người.
“Làm sao qua được hôm nay đây...” Hoàng Tử Hà chỉ hận sao mình không hỏi dò Lỗ thẩm xem đồ ăn thức uống cất ở đâu, để đến nỗi bây giờ không có bà ta thì chẳng tìm được gì để ăn.
Khó khăn lắm mới moi ra được hai cái bánh hấp khô queo trong chạn bát. Hoàng Tử Hà mỗi tay một cái, vừa ăn vừa đi về phòng mình ở chái bên.
Đến cửa, Hoàng Tử Hà đã thấy trong phòng sáng đèn. Ngạc nhiên rảo bước vào tới nơi, cô kinh ngạc đến mức suýt tuột tay làm rơi hai chiếc bánh.
Người đó, người thong dong tự tại thắp đèn đọc sách giữa đêm đó, chẳng phải Quỳ vương Lý Thư Bạch thì còn là ai?
Hoàng Tử Hà cứ thế đứng chôn chân trước cửa. Lý Thư Bạch ngẩng lên trông thấy cô, bèn ngoắc tay gọi lại. Cô nắm chặt hai chiếc bánh hấp mới cắn được mỗi chiếc một miếng, dè dặt bước vào hỏi, “Vương gia... nửa đêm đến đây, có gì sai bảo?”
Y không đáp, chỉ khẽ hất cằm về phía hộp cơm bên cạnh.
Cô do dự bưng hộp cơm, mở nắp, nhấc những thứ bên trong ra.
Một chén cháo quý phi, một đĩa bánh quẩy mật, một bát bạch long diệu(*), một suất trợ đầu xuân(**), còn cả tôm nướng và tuyết anh nhi mà cô thích nhất, đều nóng hôi hổi.
(*) Thịt sống lưng đã được dần kỹ.
(**) Chim cút quay
Cô liếc Lý Thư Bạch, thấy y chẳng buồn để ý đến mình, lập tức ném hai cái bánh hấp trong tay đi, cầm hai đôi đũa ngà trong hộp lên, trước tiên bày một đôi trước mặt Lý Thư Bạch, còn một đôi giữ lại, găm ngay lấy một con trợ đầu xuân.
Trợ đầu xuân là món ăn rộ lên gần đây ở kinh thành, nguyên liệu cũng không có gì lạ, chẳng qua là chim cút quay. Có điều gia vị phải nêm nếm thật vừa, độ cháy cũng phải vừa tới, lại thêm hiện giờ cô đang đói rã ruột, chỉ trong nháy mắt đã ngấu nghiến xâu xé hết hai con chim cút, bấy giờ mới thở phào nhẹ nhõm, trở lại tốc độ bình thường, bắt đầu nhẩn nha nhai nuốt.
Lý Thư Bạch buông cuốn sách trên tay xuống, hỏi, “Có tiến triển gì không?”
Hoàng Tử Hà không đáp, chỉ lấy nửa thoi bạc trong ngực áo đặt lên bàn, “Tìm thấy trong phòng Cẩm Nô đấy.”
Lý Thư Bạch cầm lấy lật qua lật lại xem xét tỉ mỉ.
Mặt sau thoi bạc khắc hai hàng chữ. Hàng thứ nhất là: Đặng Vận Hi, Tống Khoát. Hàng thứ hai là: mươi lạng chẵn.
Hoàng Tử Hà lại lấy trong ngăn kéo giường ra nửa thoi lúc đầu, đưa cho y.
Hai nửa khớp vào nhau, hợp thành một thoi bạc hoàn chỉnh. Hàng chữ ở mặt sau cuối cùng cũng đầy đủ, là: Phó sử Lương Vi Đống, Đặng Vận Hi, Tống Khoát, nội khố sử thần Trương Quân Ích, đúc bạc hai mươi lạng chẵn.
Lý Thư Bạch đặt hai nửa thoi bạc xuống, ngẩng lên nhìn cô, “Tìm thấy ở đâu?”
“Dưới kệ hoa trong phòng cô ta.”
“Không thể nào.” Lý Thư Bạch quả quyết nói.
“Có đấy, phòng cô ta đã bị nhiều người lục lọi xáo trộn, kệ hoa sờ sờ ra đó, đáng lẽ không thể sót lại nửa thoi bạc.” Hoàng Tử Hà uống một hớp cháo quý phi rồi mới tiếp, “Bởi vậy, hẳn là Trình Tuyết Sắc vừa rời khỏi đó để lại.”
“Trình Tuyết Sắc?” Lý Thư Bạch hơi biến sắc mặt “Cô ta vào kinh rồi ư?”
“Phải, song tôi chưa gặp được cô ta, chỉ nghe người ở giáo phường nói có một cô gái xinh đẹp tuyệt trần mang theo một bức họa đến phòng Cẩm Nô. Nhưng khi tôi tới, cô ta đã đi rồi.”
“Để vuột mất, cũng đành chịu vậy.” Lý Thư Bạch cau mày hỏi tiếp, “Sao Trần Niệm Nương không báo cho ngươi?”
“Có lẽ Cẩm Nô và Trình Tuyết Sắc khá thân thiết nên cô ta tới tìm Cẩm Nô trước chăng?” Hoàng Tử Hà trầm ngâm chốc lát, lại nói, “Song Trần Niệm Nương hẳn rất sốt sắng về việc của Ức Nương, nói thế nào cũng sẽ lập tức dẫn cô ta tới chỗ tôi.”
Lý Thư Bạch gật đầu, “Dẫu sao Trần Niệm Nương cũng đang ở Ngạc vương phủ, ngày mai chúng ta có thể tới tìm bà ấy.”
“Ngoài chuyện đó ra, hôm nay tôi xem qua địa thế ngoại giáo phường, phát hiện được một nơi. Bấy giờ trời tối quá mất rồi, không tiện tìm kiếm, sáng mai ta đến, nhất định sẽ có phát hiện.”
“Xem ra mai ngươi lại bận rộn cả ngày rồi.” Thấy ánh nến leo lét, y bèn gập sách lại, cầm cây kéo bên cạnh lên, cắt bớt sợi bấc đèn đã cháy đen, xoăn tít, khêu ngọn đèn trên bàn sáng thêm.
Dưới ánh nến chập chờn, cả căn phòng yên lặng như tờ. Hoàng Tử Hà đang mải ăn, chợt ngẩng lên thấy Lý Thư Bạch chăm chú nhìn mình, không khỏi khựng lại một thoáng.
Lý Thư Bạch rời mắt nhìn ra chỗ khác, thong dong cầm đôi đũa ngà lên khêu mấy mầm giá trên đĩa tuyết anh nhi, bỏ vào chiếc bát trước mặt.
Hoàng Tử Hà ngập ngừng hồi lâu, cuối cùng mới khó nhọc lên tiếng, “Đa tạ... vương gia phần cơm cho tôi...”
“Không phải tạ.” Y ngắt lời, lại nhìn cô một lúc thật lâu mới chậm rãi nói, “Xưa nay ta vẫn tin rằng, ngựa phải no bụng thì chạy mới nhanh.”
Khóe môi cô giần giật mấy cái, thốt lên, “Vương gia thực nhìn xa trông rộng.”
“Thế nên ngày mai phải chạy nhanh nữa lên, nhớ là nhà họ Vương sắp đưa Vương Nhược về Lang Gia rồi đấy.”
“Vâng...” Nhắc đến họ Vương, cô lại nhớ tối nay vừa gặp Vương Uẩn, bèn nắm chặt đôi đũa, ngây ra nhìn ánh đèn chập chờn một lát, cuối cùng vẫn khôn hồn không kể lại, để khỏi lôi thôi thêm.
Dù thế nào chăng nữa, cũng chỉ là một lần gặp tình cờ mà thôi, đâu liên quan tới vụ án.
Sáng hôm sau trời quang mây tạnh, bầu trời đầu hạ lồng lộng xanh biếc, sáng đến chói mắt.
Khi Hoàng Tử Hà theo lời hẹn đến chuồng ngựa gặp Lý Thư Bạch, y đã cưỡi một thớt ngựa đen khỏe mạnh, đương chạy nước kiệu để vận động gân cốt.
Hoàng Tử Hà đứng bên tường rào nhìn Lý Thư Bạch, hôm nay y vận một chiếc áo mỏng màu tím nhạt, ánh sáng lưu chuyển làm nổi nền vải dệt đầy hoa văn liên châu(*) xanh sẫm giữa nền trời lam khói, càng toát lên vẻ thanh cao mà xa cách.
(*) Những hình tròn nhỏliên tiếp nhautrong một vòng tròn lớn. Đại khái có thể hình dung như một chuỗi hạt.
Thấy cô đi đến, y liền ghìm cương vung roi trỏ tàu ngựa đằng sau, “Chọn một thớt đi.”
Hoàng Tử Hà nhìn ngó rồi dắt con ngựa trắng lần trước ra, nhảy lên yên. Lần trước khi đến tìm Chu Tử Tần, cô đã cưỡi một con khác, và dắt theo con này. Con ngựa này tính tình ôn hòa, biết nghe lời, phi cũng nhanh, dọc đường vẫn theo sát phía sau cô đến tận phủ họ Chu, không hề chểnh mảng nên cô rất ưng.
Lý Thư Bạch tỏ vẻ tán thưởng mắt nhìn của cô, bèn giới thiệu lúc dẫn cô chạy ra ngoài, “Con ngựa tốt đấy, trước đây ta thường cưỡi, tên là Na Phất Sa.”
“Tên nghe lạ quá.”
“Trong tiếng Đại Uyển, Na Phất Sa nghĩa là tính tình cao quý ôn nhu. Xưa nay nó rất nghe lời, dễ bị người ta tiếp cận thuần phục, bởi thế cũng dễ quên chủ mình là ai.” Lý Thư Bạch cau mày, chừng như nhớ đến vài việc từ thời xửa xưa nào đó, song ngay lập tức lại giơ tay vỗ vỗ vào con ngựa đen vừa rắn rỏi vừa ngạo mạn của mình, “So với nó, con Địch Ác này tốt hơn nhiều.”
“Địch Ác ư?”
“Nghĩa là 'ban ngày', theo tiếng Đại Uyển. Có điều nhìn dáng vẻ nó, gọi là Địch Ác không sát lắm.” Y thúc ngựa chạy lên thềm, ra khỏi cổng phủ đi về hướng Tây, Hoàng Tử Hà cũng chẳng hỏi y định đi đâu, chỉ lẳng lặng chạy cách y nửa thân ngựa.
“Địch Ác rất ương ngạnh, mới đầu ta phải mất ba bốn đêm mới thuần phục được, dằng dai tới tảng sáng ngày thứ năm nó mới chịu phép, khuỵu gối trước mặt ta.” Lý Thư Bạch thản nhiên kể,“Đời này sẽ không còn một ai cưỡi được nó nữa.”
Hoàng Tử Hà quan sát Địch Ác, còn đang ước lượng xem mình có bao nhiêu khả năng cưỡi được thì thấy cặp mắt dưới hàng mi dài của nó liếc qua, rồi nó tung vó đá về phía cô, độc, chuẩn, vững vô cùng, nháy mắt đã trúng bụng Na Phất Sa. Na Phất Sa hí lên đau đớn, chồm chân tới trước khiến Hoàng Tử Hà suýt nữa ngã nhào, cô tức giận giơ chân đạp mạnh về phía Địch Ác.
Địch Ác bị đá trúng cổ, toan nổi giận thì thấy Lý Thư Bạch ghìm cương, nó đành ngoan ngoãn chạy chậm lại, song hơi thở vẫn phì phò phả ra đằng mũi, rõ ràng hết sức ấm ức.
Thấy bộ dạng hậm hực của Địch Ác, Hoàng Tử Hà dùng roi trỏ nó cười phá lên.
Từ khi gặp biến cố, hằng ngày cô vẫn rầu rĩ không vui, đây là lần đầu tiên phá lên cười, khiến Lý Thư Bạch thoáng kinh ngạc, bất giác quay sang chăm chú nhìn cô hồi lâu.
Lúc này đây, dưới ánh mặt trời đầu hạ, gương mặt cô rạng rỡ vô ngần, tựa hồ tất cả nắng trên thế gian đều lấp lánh trên vầng trán trong sáng của cô, chói ngời đến mức khiến người ta lóa mắt.
Y vội quay mặt đi, không dám nhìn cô thêm nữa.
Hoàng Tử Hà không hiểu đầu cua tai nheo gì, tròn xoe mắt nghi hoặc nhìn Lý Thư Bạch. Y khẽ hắng giọng ra lệnh, “Đi, đến Ngạc vương phủ.”