Đó là nội dung tấm biển treo ở cửa quán Cà Phê Thú Kiểng. Bên dưới tấm biển là danh sách tất cả những món ăn mới thêm vào thực đơn ngày Chủ nhật. Hiển nhiên bà Onimous dạo này hay chế biến những món vô cùng đặc biệt để đón mừng sự trở về của muông thú.
Khi Charlie bước vào, nó đụng ngay phải chú bảo vệ Norton, mặc áo thun hồng trang trí những con voi nổi bật.
“Vào đi, Charlie. Bạn bè cậu đằng kia, có thêm một con chuột kiểng cho cậu đấy,” Norton chỉ Gabriel, đang vẫy vẫy và giơ lên một nhúm lông nhỏ màu đen pha trắng.
Quán cà phê được trang trí rợp những cờ đuôi nheo và đèn lồng sặc sỡ, không khác gì Giáng sinh.
“Chúng tôi muốn nơi này như một lễ hội bởi vì bọn thú đã trở về,” Norton nói, “nhưng tôi không chắc chúng có hiểu được cử chỉ này hay không. Một số con vẫn chưa hết kinh hãi. Nhìn con mèo kia thì biết, cứ run như cầy sấy. Chim chóc chẳng còn véo von. Tôi dám nói rằng cái thứ quỷ gì làm chúng bỏ đi có lẽ vẫn còn lẩn quất quanh đây.”
“Cháu cũng nghĩ vậy,” Charlie đáp, rồi len lỏi đi tới chỗ Gabriel đang ngồi cùng với Olivia, Emma và Fidelio.
Con thỏ của Olivia rúc đầu vào dưới cằm con bé, và vịt Nancy đang ngồi dưới gầm ghế Emma.
“Nancy vẫn cứ giật mình thon thót,” Emma phàn nàn. “Dù sao cũng mừng là nó đã quay về.”
“Mẹ tớ cho tớ mang chuồng Wilfred vào để hẳn trong hành lang,” Olivia nói. “Nhìn nó này, lấm la lấm lét.”
Con mèo điếc của Fidelio ngủ khì khì trong rổ mèo dưới bàn. Điếc lác và tuổi già dường như đã giúp nó miễn nhiễm bầu không khí đang gây kinh động lũ thú non.
Fidelio khuyên Charlie nên lấy một ít Thiên Đàng Xanh[2] kẻo hết mất. “Ngon cực,” nó nói, “có phết kem màu xanh lá cây, với sô-cô-la và đủ thứ nữa.”
[2] Quán Cà Phê Thú Kiểng đặt tên các món ăn rất mỹ miều. (ND)
Charlie ra xếp hàng ở quầy. Lysander và Homer đứng cách nó hai chỗ, Charlie nhận thấy con vẹt xám trông rất u uẩn. Đầu rũ xuội xuống và cứ luôn miệng lải nhải. “Rút lui! Rút lui! Coi chừng chó!”
Con vẹt muốn nói tới lũ chó săn giống Rottweilers của bọn nhà Loom chăng? Charlie tự hỏi. Nó ngó quanh quán cà phê nhưng không thấy bóng dáng con chó săn nào. Cũng có thể Homer đang nhớ lại một biến cố đã xảy ra với nó hồi trong quân đội.
Đến lượt Charlie vào quầy thì món Thiên Đàng Xanh đã hết veo. “Xin lỗi, cậu bạn,” ông Onimous suýt xoa.
“Lysander lấy hai phần cuối cùng rồi. Có lẽ ta nên chia mỗi người một cái thôi? Mấy Que Hạt Béo Ngậy này ngon lắm. Ăn thử đi.”
“Chứ không phải cái này là dành cho thú sao?” Charlie hỏi.
“Thú, người dùng được tất,” ông Onimous nói kèm với tiếng cười hích hích. “Ăn không? Mỗi thứ một que nhé.”
“Người ăn được ạ? Ồ, dạ, vâng. Làm ơn một que thôi,” Charlie tần ngần, “với lại một cái bánh vòng mứt rắc gừng.”
Charlie vừa mới ngồi xuống thì Tancred ào vào. Norton nhặng xị lên với Tancred, “Không có thú, không được vào!”
“Nhìn kia kìa,” Tancred nói, chỉ vào Gabriel. “Cậu ấy mang vé vào cửa cho tôi rồi.”
“Thú không phải là vé, chàng trai ạ,” Norton càu nhàu.
Tancred dậm chân một cái, tức thì một luồng gió hung bạo thổi qua phòng. Dĩa, cốc vại, dao nĩa bay tốc lên, không kể Que Hạt Béo Ngậy, Thiên Đàng Xanh, bánh vòng gừng cùng nhiều thứ kẹo bánh khác. May làm sao, ông Onimous dùng toàn đồ nhựa thay vì đồ thuỷ tinh hay đồ sứ, cho nên không bị vỡ thứ gì. Nhưng sự náo động khiến một số con thú vốn đang hoảng sợ lại càng hồn phi phách tán. Tiếng rú rít, thét gào, la quác hỗn loạn rộ lên.
Gabriel vội chộp lấy một con chuột bạch chạy ù ra chỗ Tancred. “Đây, đây, đây, ông Norton. Chuột kiểng của Tancred đây. Bình tĩnh, Tanc. Đâu sẽ vào đó cả mà.”
Hễ Tancred nổi sùng thì phải mất cả thế kỷ mới nguôi ngoai được. Charlie và bọn bạn đã hốt lượm lại đồ ăn, giữ chặt lấy dĩa của mình rồi, Tancred mới huỳnh huỵch tới nhập đám. Chú ngồi xuống chiếc ghế trống sát bên Lysander và sau đó nhận thấy không có gì cho mình ăn.
“Đây,” Lysander đẩy cái Thiên Đàng Xanh thứ hai của mình cho Tancred.
Charlie buồn bã nhìn anh bão tố ngoạm răng vào chiếc bánh trông mê ly. Thấy rõ từng giọt kem và mật ong ứa ra. Nhưng thôi, ít ra món ấy cũng xoa dịu được cơn giận của Tancred. Gió lặng bớt chỉ còn nhè nhẹ, thi thoảng mới thổi lật một Que Hạt Béo Ngậy hay một chiếc bánh bích quy mỏng.
“Này,” Lysander nói khi mọi thứ đã yên ổn. “Anh nghe nói em bị cấm túc, Charlie. Em có thấy một trăm vị hiệu trưởng không?”
“Thấy á?” Charlie nhấn mạnh. “Em phải nói là thấy rõ luôn ấy chứ. Mọi người sẽ không bao giờ tin nổi em đã nghe được gì đâu.”
“NGHE GÌ HẢ?” Đám bạn nó đồng thanh hỏi.
Charlie nuốt chửng miếng bánh vòng gừng cuối cùng, chiêu xuống bằng nước đào rồi kể cho bọn bạn tất tật những thứ mà nó có thể nhớ được về cái đêm ngồi phục dưới gầm bàn. Đến đọan tiết lộ của cô Chrystal, nó dựng lên bầu không khí căng thẳng bằng cách mô tả da đầu nó nhói rật lên ra sao, và khi nó kể xong, đứa nào cũng gãi gãi đầu.
Fidelio bị sốc hoàn toàn. “Phải làm gì bây giờ đây?” Giọng nó lào khào khiếp hãi. “Cô ấy là cô giáo dạy đàn của tớ.”
Sự im lặng lên tới cao trào. Không ai biết phải nói gì.
“Cô ta chẳng có gì chống lại em cả, Fidelio,” cuối cùng Lysander lên tiếng. “Nên em cứ tỏ ra bình thường đi.”
“Nhưng em làm sao làm được thế chứ?” Fidelio lấm lét nhìn khắp bàn. “Ý là, một khi đã biết cô ấy là ai thì... thì em làm sao quên điều đó được?”
“Thế còn gã bá tước mà cô ta đã thả ra thì sao?” Emma ôm chặt Nancy đến độ con vịt phọt ra một tiếng quác kinh hoàng. “Hắn đang ở đâu? Hắn định sẽ làm gì?”
“Em có thể biết chắc hắn đang ở đâu,” Charlie nói nghiêm túc. “Hắn là người quản lý mới của Vương Quốc và hắn tự xưng là ngài Noble.”
“Sao em biết vậy?” Tancred hỏi.
“Bởi vì...” Charlie ngắc ngứ. Nó không muốn nhắc tới mẹ nó, nhưng giờ đã đi xa thế này thì không thể ngừng lại. “Bởi vì mẹ em đã đi Đại Dạ Vũ với hắn.”
“Ối, Charlie!” Emma bụm tay lên miệng.
Những đứa khác sửng sốt đến nỗi cà lăm.
“Em tính sẽ thế nào?” Fidelio nói.
“Em không biết. Em cần có người giúp đỡ, phải không ạ?” Charlie khổ sở.
Đám bạn lào thào đồng ý và rồi lại rơi vào im lặng. Một bầu không khí ảm đạm không lời ngự trị trong cả nhóm, cho tới khi, không hề báo trước, Olivia quyết định ra tay thật bạo gan.
Mới phút trước, nguyên cái bàn trống trơn chỉ còn le hoe vài vụn bánh, chớp mắt sau trên đó đã thù lù một con sâu bướm vàng đen, mập ụ, to oành.
Tancred thét hãi và chạy bắn khỏi bàn. Một con chuột kiểng sợ quá phóng vọt lên không cả nửa mét, còn vẹt Homer hấp tấp sà xuống, nhưng chỉ thấy bữa ăn của mình đã biến mất tiêu ngay trước mắt.
“Ai làm đó?” Tancred hạch hỏi.
“Ai làm đó?” Lysander trông giận dữ.
Những đứa biết rõ tài phép của Olivia nhấp nhỏm khó chịu.
“Đây làm đó,” Olivia hớn hở. “Trông cả đám thiểu não thê thảm quá chừng, đây liền nghĩ các vị cần một cú hích cho xôm.”
“Em,” Lysander ngỡ ngàng. “Thế em biết làm trò khỉ đó từ khi nào vậy?”
Olivia liếc qua Charlie, “Từ học kỳ trước. Có Charlie ở đó, cả Fidelio và Emma. Ngoài ra không ai biết.”
“Tụi em muốn cứ để như vậy,” Charlie nói. “Ít ra có một người được ban phép thuật mà gia đình Bloor không biết.”
Lysander ngoái ra sau, nhìn quanh quất. “Em phải cẩn thận đấy,” anh nghiêm trang. “Nhỡ ai trong quán cà phê này thấy con quái vật vàng đó thì sao.”
“Ở đây thiếu gì quái vật. Không ai đoán ra đó là ảo ảnh đâu,” Olivia cười một cách tự mãn với Lysander.
“Họ sẽ đoán ra nếu thấy nó biến mất,” anh quật lại.
Charlie vẫn còn đói bụng. Mẹ nó vẫn ngủ vùi lúc nó rời khỏi nhà, và không có ngoại Maisie nấu cho bữa sáng Chủ nhật tú hụ, nó buộc phải cầm hơi bằng một cục phô mát và một cái bánh nhân nho thiu. Nó định đứng lên đi lấy thêm một Que Hạt Béo Ngậy nữa thì đã thấy ông Onimous đang đi về phía bàn của chúng. Tay ông vịn vai một cô bé nhỏ xíu xiu có mái tóc quăn nâu nảy dập dềnh và đôi mắt to như quả phỉ. Bé gái bưng một cái đĩa đầy những viên bi hồng và xanh da trời.
“Ta muốn giới thiệu Una với các cháu,” ông Onimous nói khi tới bàn của tụi trẻ. “Con bé mang một món mới ra mời các cháu đây. Kẹo dẻo tròn.”
Bé gái cười tươi như hoa với tất cả.
“Chào Una!” Cả bọn đáp lại nụ cười sáng rỡ của cô bé.
Ông Onimous cúi sát xuống bàn hơn nữa và thủ thỉ. “Nó là con gái của em trai ta. Anh em sinh đôi ấy mà. Do Onoria và ta không có diễm phúc có con cái, nên Una đây cũng không khác gì con gái ruột của tụi ta.” Rồi ông hạ thấp giọng hơn nữa. “Nó cũng được ban phép thuật.”
Ông vừa dứt lời, cô bé đột nhiên biến mất, để lại một đĩa kẹo dẻo lơ lửng trên không.
“Không. Không phải lúc này, cưng,” ông Onimous kêu lên.
Una xuất hiện trở lại, vẫn bưng cái dĩa mà cô bé cẩn thận đặt lên bàn và nói, “Đánh chén đi!”
Mỗi đứa liền giật lấy một viên kẹo dẻo. Una sung sướng hét lên, “Hay quá. Cứ tự nhiên.”
“Nó nghịch như ranh ấy,” ông Onimous nói với vẻ rầu rĩ. “Nó thế là lỗi tại mẹ nó. Bà ấy làm hư nó.” Trước khi lùa cô bé đi khỏi, ông thêm, “Una chỉ mới có năm tuổi thôi, nhưng như các cháu ấy, nó rất đặc biệt. Cho nên hãy nhớ tới nó khi thời cơ đến nhé.”
“Lúc nào ạ, thưa ông Onimous?” Charlie hỏi.
“Ai mà biết có gì đang rình rập chúng ta cơ chứ!” Ông Onimous mỉm cười, rồi tức khắc nghiêm vẻ mặt râu ria lại. Ông chụp lấy bàn tay Una và cả hai kéo nhau trở vô nhà bếp.
“Tôi hy vọng gã bá tước chi chi đó không rình rập quanh đây,” Gabriel nói qua một miệng đầy nhóc kẹo dẻo.
“Hắn rình chứ sao không?” Emma nói. “Ý em là nếu hắn không rình ở góc này, thì cũng rình ở góc khác, cho tới khi...”
“Emma, đừng bi quan thế chứ,” Olivia chùi miệng rồi đứng lên. “Tụi mình sẽ tiếp lão. Tụi mình có quyền phép mà.”
“Anh nghĩ họ cần bàn của chúng ta kìa.” Lysander chỉ một cặp vợ chồng già tay bận bưng khay đồ ăn và bốn con mèo trắng, mỗi con đậu trên một vai.
Homer dàn xếp cuộc tranh giành xem ai xứng đáng hưởng viên kẹo dẻo cuối cùng bằng cách phập mỏ vớt gọn viên kẹo. Cả đoàn thu lượm thú cưng của mình và hướng ra cửa. Charlie là đứa ra đến ngoài đầu tiên, và ngạc nhiên hết sức, nó tông thẳng vào Benjamin và Hạt Đậu.
Con chó bự phóng thẳng lên người Charlie, hộc lên một tiếng mừng húm, và Charlie lúc này mới nhận ra mình nhớ con chó này biết chừng nào.
“Bồ không cho mình biết mấy giờ bồ sẽ đến đây,” Benjamin nói như buộc tội. “Bồ chưa về đấy chứ?”
Những đứa khác lục tục ra khỏi quán và Charlie đứng dẹp qua bên cho chúng đi, “Xin lỗi, Ben,” nó nói.
“Thế bồ có đi dạo chút không?” Benjamin ướm lời.
“Ừm... mình sợ không được rồi,” Charlie nói một cách kém thoải mái. Nó đã hứa sẽ gặp Ông cậu tại tiệm sách, nhưng nó không muốn có Benjamin lẽo đẽo theo sau.
Gabriel vẫy chào Charlie rồi đi theo hai anh lớn ra khỏi hẻm Con Ếch. Cả ba anh sống ở trên đồi bên ngoài thành phố, và mẹ của Gabriel thường cho họ đi quá giang. Fidelio và bọn con gái đang chờ Charlie.
“Tại sao bồ lại như vậy hả?” Benjamin hỏi, với tiếng nấc nghẹn trong giọng nói.
Charlie cảm thấy buồn não nề. “Mình không sao hết,” nó cố dịu giọng hết sức có thể. “Chỉ tại mình bận thôi.”
“Không còn ai làm bạn với mình cả,” Benjamin nhìn chằm chằm xuống hai bàn chân.
“Còn tụi mình chứ,” nhăn mặt với Charlie, Emma vòng tay ôm đôi vai khẳng khiu của Benjamin. “Tụi mình tới tiệm sách đây, cậu có thể đi nếu cậu muốn.”
“Tiệm sách!” Benjamin có vẻ thắc thỏm. “Không, mình không đi đâu, cảm ơn. Hạt Đậu cần đi dạo,” Nó thảy cho Charlie một cái nhìn trách móc. “Có lẽ để mình gặp bồ vào cuối tuần sau vậy.”
“Thỏa thuận nhé,” Charlie đồng ý. “Tối thứ Sáu. Ngay khi mình từ trường về.”
“Ừ,” Benjamin lê bước đi khỏi, trong khi Hạt Đậu nhắng nhít cố sức làm vui lòng cậu chủ, tấm thân tựa chó sói của nó hồng hộc nhảy vòng quanh, và sủa om lên khích lệ.
“Sao cậu lại tủn mủn với Benjamin vậy?” Emma hỏi.
Charlie nhún vai vẻ có lỗi, “Ba mẹ nó là gián điệp, Emma à. Có quá nhiều thứ để mất. Mạng sống của những người khác tuỳ thuộc vào bí mật của tụi mình.”
“Uuuiii!” Olivia móc mỉa quệt lông mày. “Bữa nay đám mình nghiêm trọng quá rồi. Charlie, đằng ấy làm ơn cầm thỏ giùm tớ cái. Bây giờ cả đám đi quấy rầy dì của Emma thôi.”
Trao cái lồng xách thú cưng của mình cho Charlie, cô nàng vụt lên trước, mặc kệ tụi kia khệ nệ bưng rổ vịt, rổ mèo với lồng thỏ. Charlie và Fidelio nhìn nhau. Chúng ước gì Olivia đừng chưng diện vênh vang như thế. Trong tấm áo khoác dài bằng lông con gì đó màu trắng, giày bốt đỏ, nón đen gắn cụm đuôi sóc bạc xoè ra, con nhỏ thu hút sự chú ý qúa mức. Bọn con trai thở phào khi chúng rời Phố Chính quẹo vào ngõ hẻm yên tĩnh dẫn đến tiệm sách.
Đi chừng nửa con hẻm, Fidelio bỗng dưng khựng lại, “Charlie, anh quên nói với em. Mười Hai Tiếng Chuông của Tolly bị đánh cắp rồi.”
“Cái gì?” Charlie đặt lồng thỏ xuống.
Nhẹ nhàng hạ rổ vịt xuống mặt sỏi, Emma thốt lên. “Hiệp sĩ đã đánh thức mình ấy hả?”
“Nó đó,” Fidelio đáp. “Nhớ không, Charlie. Em đưa cái thùng đó để anh giữ cho an toàn. Có một hiệp sĩ bằng máy ở bên trong đứng lên trong khi chuông rung và có tiếng đọc kinh.”
Charlie nhớ rõ chứ. Làm sao nó có thể quên được Mười Hai Tiếng Chuông của Tolly. Cha của Emma, tiến sĩ Tolly đã chế ra hiệp sĩ đó trước khi mất. Chủ đích của ông là nhằm đánh thức Emma khỏi giấc thôi miên lậm sâu. Và nó đã công hiệu. Charlie hy vọng một ngày nào đó nó cũng có thể đánh thức ba mình. Nhưng giờ thì cơ hội đó mất rồi.
“Em không tin. Làm sao nó bị đánh cắp được?” Charlie căn vặn.
Fidelio nhún vai, “Xin lỗi, Charlie. Có rất nhiều người trong nhà anh – trẻ con đến học đàn học nhạc. Không ai để ý.”
Olivia đã tới tiệm sách và bắt đầu í ới gọi cả bọn. “Mau lên đi, các người. Mấy người đang làm gì vậy?”
Chúng nhặt thú của mình lên và lê bước về phía con nhỏ.
Tiệm của cô Ingledew đóng cửa vào Chủ nhật và Emma phải nhấn chuông. Ông cậu Paton ra mở cửa, kêu om lên, “Ngôi sao nhạc pop nào đây?”
“Ông đừng ngạo cháu ạ, ông Yewbeam,” Olivia cười khoái chí.
“Ta mà ngạo?” Ông cậu Paton nhướn một bên lông mày.
Chúng theo ông vào trong tiệm và để rổ, lồng với áo khoác bên cạnh quầy. May là con vịt, con mèo và con thỏ tất cả đều đang ngủ.
Cô Ingledew gọi chúng vào phòng sau, và chúng thấy cô đang ngồi bên bàn viết với mớ nhật ký của ông Bartholomew ở trước mặt. Một quyển để mở và những quyển khác xếp thành chồng ngay ngắn.
“Charlie, cô hy vọng cháu không buồn lòng,” cô nói. “Nhưng chúng ta không tài nào đọc hết chúng được.”
“Ủa. Cái gì đây?” Fidelio hỏi, nhìn vào quyển nhật ký để mở.
“Nhật ký thôi mà,” Charlie lóng ngóng. “À, nhưng không phải nhật ký bình thường. Chúng được chính người đã sưu tầm những câu chuyện về Vua Đỏ gởi đến cho em.”
“Quá hay!” Olivia vồ lấy một quyển nhật ký ngay trên đầu chồng sách và ngồi phịch xuống ghế sofa. “Ơ mà chả hay lắm,” nó tuyên bố khi lật qua vài trang. “Một mớ lùng nhùng thực sự.”
Ông cậu Paton giật quyển nhật ký khỏi tay nó, “Olivia, cháu thân mến, cháu phải hiểu rằng những kho báu thật sự không bao giờ tự quảng cáo mình. Quyển sách này đã đi qua những nơi mà cháu không bao giờ hi vọng tới được; nội dung của nó là vô giá và không chừng một ngày nào đó chính nó sẽ cứu mạng cháu đấy.”
Olivia nhìn vẻ mặt nghiêm khắc của Ông cậu Paton liền đỏ bừng mặt. Con nhỏ có sự kính trọng sâu sắc đối với ông cậu của Charlie. Quả thật, ông là một trong số ít người khiến nó phải khắc đến tận tim mỗi lời phê bình. “Con xin lỗi,” nó lí nhí.
“Ta cũng nghĩ vậy,” Ông cậu Paton đặt lại quyển nhật ký vào chỗ cũ. “Ừm, ta bảo đảm Charlie đã kể cho các cháu về cái đêm dưới gầm bàn của nó rồi, vì vậy các cháu cũng cần biết cô Ingledew và ta đã khám phá được gì trong khi đọc qua những quyển sổ này.” Ông nóng nảy vỗ vỗ vào chồng sách. “Ngồi xuống đi, bọn kia. Coi bộ tụi bay lóng ngóng nhỉ, cứ đứng lố nhố đó.”
Emma và Fidelio dời vài chồng sách ra khỏi ghế sofa và lèn mình chêm vào hai bên Olivia. Charlie ngồi bệt dưới sàn nhà và Ông cậu Paton thả mình vào một chiếc ghế bành.
“Trong này nói rất nhiều về một tấm gương,” Ông cậu Paton nhìn thính giả của mình, nhưng không đứa nào nói gì. “Charlie đã nghe nói cái gương đó được gọi là Gương Thần Amoret. Qủa đúng vậy thật, nó là để dành cho người con mới sinh chín ngày trước khi hoàng hậu Berenice qua đời. Chính tay Vua Đỏ làm ra nó. Ngài trao nó cho người con trai thứ hai của mình, ngài Amdis, giữ đến chừng nào đứa bé đủ lớn để sử dụng. Tấm gương có nhiều phát thuật – trong đó quan trọng hơn hết là nó có thể ban cho chủ nhân của nó phép chu du...”
“Ý Ông cậu là...?” Charlie hỏi.
“Phải đó, Charlie. Giống kiểu chu du của cháu ấy. Nhìn vào gương thì người mà ta ước nhìn thấy sẽ xuất hiện. Nếu ta muốn tìm người đó, thì nhìn lại lần nữa, và gương sẽ đưa ta đến với họ, cho dù họ ở bất cứ nơi đâu.”
“Kinh khủng. cháu ước gì được đi một chuyến như thế,” Fidelio trầm trồ. “Chà, cháu có thể gặp Mozart[3].”
[3] Nhà soạn nhạc thiên tài người Áo thế kỷ thứ 18 (ND)
“Cô e cháu thì không được đâu,” cô Ingledew bảo. “Cái gương đó chỉ linh nghiệm đối với những đứa con của Vua Đỏ thôi.”
“Nhưng nó có tác dụng với tên bá tước mà,” Fidelio gân cổ cãi.
“Hắn là thầy bùa,” Ông cậu Paton thẳng thừng. “Chúng ta tin rằng hắn đã đánh cắp cái gương, một phần nhằm để ngăn người khác sử dụng gương. Mặc dù hắn đã chôn nó, đương nhiên rồi, nhưng hắn hy vọng một đứa trong đám con cháu của hắn sẽ tìm thấy nó, và sẽ sử dụng nó để giúp hắn chu du ra khỏi bức chân dung nhà vua.”
Cô Ingledew thở dốc lên một tiếng không kìm lại được. “Paton, bất giác em nghĩ nếu gã bá tước mà có chiếc gương thì hắn ta có thể lại du hành lần nữa.” Cô bấu chặt vào tay ghế bành và chồm người ra trước.” Đi vào đi ra những bức tranh, những tấm hình và... ồ trời ơi. Em hy vọng hắn không làm thế.”
Cô Ingledew vừa gợi lên một viễn cảnh kinh khủng như vậy thì tiếng chuông cửa ré vang, khiến tất cả mọi người giật thót khỏi chỗ ngồi.
Ông cậu Paton ra mở cửa và loáng sau quay lại với một phụ nữ cực kỳ đẹp lộng lẫy và quyến rũ. Trang phục cô mặc đúng là phiên bản của Olivia, ngoại trừ nón của cô màu đỏ và giày bốt cô màu bạc.
“Mẹ!” Olivia thét lên. “Mẹ đến sớm.”
“Trời tối quá đi mất,” cô Vertigo nói. “Tối một cách bất tự nhiên. Xin lỗi nếu tôi phá ngang cuộc họp hay việc gì đó mà nhóm người tinh thông các bạn đang bàn tính.”
“Cô rất tinh ý, cô Vertigo à,” Ông cậu Paton nói. “Tôi không thích trời thế này chút nào. Thời tiết thật khó chịu. Có lẽ cô sẽ cho cậu trai trẻ này quá giang chứ.”
Fidelio định phản đối, nhưng Olivia và mẹ đã cuốn nó ra khỏi phòng. Và ngay khi tóm bọn thú cưng lại xong, ba người họ rời tiệm sách. Fidelio bắn cho Charlie cái nhìn sửng sốt của kẻ đầu hàng trước khi cánh cửa đóng sập lại và cô Vertigo kéo nó đi.
“Cũng đến lúc chúng ta về thôi,” Ông cậu Paton nói, hơi chần chừ. “Đi, Charlie.”
Emma theo Charlie ra khỏi tiệm sách trong khi Ông cậu Paton và cô Ingledew nói lời tạm biệt riêng với nhau. Khi Ông cậu Paton ló ra, mặt ông đỏ nhừ và có một vết son hồng trên má. Emma nhướn cặp lông mày và cười với Charlie, thằng này quyết định không đả động gì tới vệt son.
“Bọn ta đã quyết định những quyển sổ nhật ký sẽ để đây cho an toàn,” Ông cậu Paton vừa nói vừa tròng áo khoác đen của mình vào, “hơn là để nhà số 9.”
Charlie tán đồng. Ngay khi mặc áo khoác vào xong, nó và Ông cậu lên đường. Khi sắp về tới nhà, Ông cậu Paton bỗng tiết lộ một thông tin không sao tin nổi cho Charlie: ông đã tìm thấy một tấm hình của cha Charlie.
“Trước kia ta không nhắc tới nó bởi vì ta không muốn nhen nhúm hy vọng cho con,” Ông cậu Paton giải thích. “Không tốt tí nào, con biết đấy. Ta đã nhớ ra nó khi con kể cho ta nghe về ông Bartholomew. Có vài tấm hình chụp vào kỷ nghỉ leo núi đó. Ta biết ta có một tấm. Ta cất trong một cái va li bằng da cũ mà ta luôn khoá kỹ ở dưới gầm giường. Tấm hình để tận dưới đáy vali.”
Charlie không thể nào bước tiếp được nữa. “Ông có mang nó theo không, Ông cậu Paton?”
“Ờ, không. Ta đã đưa nó cho mẹ con rồi. Bảo cô ấy đừng nói lời nào với nội Bone, ta biết bà ấy tiêu huỷ mọi tấm hình nào của Lyell còn tồn tại.”
Charlie dợm chân chạy.
“Đừng nhanh thế,” Ông cậu Paton gọi, sải bước theo sau Charlie. “Nó không biến mất đâu mà lo.”
“Con không chờ nổi, Ông cậu Paton. Con không chờ được đâu,” Charlie vừa la vừa bươn bả lao tới trước.
Khi họ bước vô, cô Amy Bone đang ở trong bếp một mình. Charlie chạy thẳng đến mẹ. “Mẹ cho con coi tấm hình đó đi mẹ? Ông cậu Paton bảo ông đã tìm thấy một tấm hình ba con.”
“Lạy trời, Charlie, sao con vội gì mà vội thế,” mẹ nó tháo chiếc khăn quàng lụa ra khỏi cổ. “Mẹ vừa mới về đến.”
“Tấm hình ở đâu mẹ?” Charlie thúc giục.
Mẹ nó cầm cái sắc tay trên bàn lên. “Đâu đó trong này.” Cô lục tung và lấy ra một tấm hình nhỏ hình vuông. “Đây,” cô chìa nó ra.
Charlie cầm tấm hình. Một người đàn ông mặc đồ leo núi mỉm cười với nó. Người đó là ông Bartholomew Bloor. Còn một người khác nữa, đứng ở góc nhưng quay lưng lại với máy chụp hình. Chỉ thấy được đầu và vai.
“Mẹ, cái này không... không thể là nó được.” Giọng Charlie thất vọng vô bờ.
Ông cậu Paton đến đằng sau nó và cầm tấm hình. “Amy, chuyện gì xảy ra thế này?” Ông hỏi. “Đây không phải là tấm hình tôi đã đưa cho cô.”
“Là nó mà,” cô Amy ơ hờ. “Có gì không vậy?”
Cô Amy ngó vào tấm ảnh. “Không phải à? Ố trời. Cậu biết đấy, con đã quên hẳn mặt của Lyell rồi. Con dường như không thể...” cô nhíu mày, “... không thể, à, hình dung lại được.”
“Mẹ!” Charlie kêu lên the thé. “Mẹ phải nhớ chứ. PHẢI nhớ!”
“Nhưng tại sao, Charlie? Mẹ đảm bảo là sẽ tốt cho tất cả mọi người nếu ba con bị quên lãng,” mẹ nó mỉm cười với nó.
“KHÔNG!” Charlie hét lên. “Chúng ta không được quên. Mẹ không hiểu sao? Nếu chúng ta để mất ký ức về ba thì ba sẽ không bao giờ trở lại được. KHÔNG BAO GIỜ.”