Quyển 1 – Chương 15: Ngỡ Vô Tình, Thực Vẫn Hữu Tình[1]
[1] Trích trong bài thơ Trúc chi từ kỳ thập của Lưu Vũ Tích (772 – 842). (ND)
Từ lâu y đã quen với cảm giác từ từ bị bóng đêm nhấn chìm thế này rồi, bởi từ nhỏ đến lớn, mỗi ngày của y đều là như vậy. Hết lần này đến lần khác, y đã quen bình thản nhìn từng kẻ thân bằng quyến thuộc vứt bỏ mình chẳng hề do dự, đến nỗi y cảm thấy như vậy mới là bình thường.
Bên dưới Hiên Viên sơn vẫn tưng bừng hỷ khí nhưng tình hình trên núi lại vô cùng căng thẳng. Thiếu Hạo, Thanh Dương, Xi Vưu, Hậu Thổ trước sau đều nhận được một tin giống nhau.
Hà Đồ Lạc Thư xuất hiện tại Ngu uyên.
Theo truyền thuyết, Hà Đồ Lạc Thư là địa đồ do Bàn Cổ đại đế tạo ra, không chỉ ghi lại hình thế núi sông khắp đại hoang mà còn chép cả những thay đổi khí hậu ở từng địa phương, nếu có được bức địa đồ đó, chẳng những nắm được địa lý các nơi mà còn có thể lợi dụng đặc điểm khí hậu để bày trận, là bảo bối binh gia hằng tranh đoạt.
Sau khi Bàn Cổ đại đế qua đời, Hà Đồ Lạc Thư cũng biến mất, nghe đồn Bàn Cổ đại đế đã giấu nó vào một quả trứng ngọc, giao cho gà vàng trông coi, gà vàng liền biến thành một ngọn núi. Mấy vạn năm nay, vô số kẻ trong Thần tộc đã đạp nát núi non trên đại hoang để tìm Hà Đồ Lạc Thư nhưng chẳng thấy tăm tích, vậy mà hôm nay lại có trinh thám của Thần tộc trông thấy gà vàng trong truyền thuyết xuất hiện gần Ngu uyên.
Đừng nói Thiếu Hạo, Thanh Dương, Hậu Thổ thảy đều biến sắc mà ngay cả kẻ luôn hờ hững trước mọi việc là Xi Vưu cũng chuẩn bị khởi hành đến Ngu uyên.
Tỉnh lại, A Hành phát hiện mình đang nằm trong Chỉ Nguyệt điện, nơi ở của Tam phi Đồng Ngư thị, còn phụ vương khoác áo bào đen đang ngồi lặng bên song, vầng trăng vằng vặc nửa ẩn nửa hiện sau làn mây như chiếc lưỡi câu ngọc ngà móc vào khung cửa, tựa hồ chính vầng trăng đã kéo cửa sổ mở ra.
Phụ vương nàng ngắm trăng đến ngơ ngẩn xuất thần như đang nhớ lại chuyện gì đó xa xưa lắm, vẻ dịu dàng hoang mang khôn tả còn đọng trên gương mặt chưa phai nét tuấn tú.
Chưa bao giờ thấy phụ vương kỳ lạ như thế này, A Hành chỉ biết nín thở, âm thầm quan sát.
Chợt Hoàng đế nhìn ánh trăng cả cười, vẻ ôn nhu lập tức biến mất: “Tỉnh rồi thì lại đây”.
A Hành vội lại gần quỳ xuống bên gối ông, “Sao phụ vương còn chưa ngủ?”
Hoàng đế cười nhìn nàng, “Thiếu Hạo đối tốt với con chứ?”
A Hành cúi đầu, “Tốt lắm, thưa phụ vương!”
“Ta đang mong được bế cháu ngoại đấy nhé!”
A Hành lí nhí, “Con biết, nhưng chuyện này không gấp được đâu ạ.”
“Các con đều thuộc dòng dõi Thần tộc chính thống, Thiếu Hạo linh lực cao cường, hai đứa lại ân ái mặn nồng như thế, theo lý mà nói…” Hoàng đế cau mày. “Lẽ nào còn có ẩn tình? Nhân lúc còn đang ở nhà chưa về bên ấy, để thầy thuốc khám thử xem sao.”
Một luồng hơi lạnh buốt chạy dọc từ chân lên khiến A Hành nhũn cả người, lát sau mới nhận ra phụ vương đang hoài nghi Thiếu Hạo lén giở thủ đoạn chứ không phải ngờ vực mình.
Hoàng Đế lại nói: “Phải rồi! Vừa nãy nhận được tin báo nói Hà Đồ Lạc Thư đã xuất hiện tại Ngu uyên. Con cũng biết đấy, Tây Lăng tộc của mẹ con tuy không dành được thiên hạ nhưng vẫn có địa vị ngang ngửa với Thần Nông và Cao Tân, đều là trọng thần dưới trướng Bàn Cổ đại đế. Mẹ con từng kể với ta rằng trong tộc có truyền thuyết nói Hà Đồ Lạc Thư không chỉ là một tấm địa đồ mà còn ẩn giấu bí mật trọng đại sánh ngang với Bàn Cổ khai thiên lập địa, ta nghĩ đây cũng là nguyên nhân khiến Thần Nông và Cao Tân huy động nhân lực rầm rộ như vậy, tuy ta chẳng tin mấy chuyện vu vơ đó nhưng quyết không thể để Hà Đồ Lạc Thư rơi vào tay hai phe kia được.”
“Mấy vạn năm nay, có biết bao tin đồn nhảm về Hà Đồ Lạc Thư rồi, chắc gì lần này đã là thật?”
“Bất kể thật hay giả chúng ta cũng nhất định phải tranh lấy, nếu để Thần Nông tộc dành được nó thì ngày tàn của Hiên Viên đã cận kề rồi đó. Thanh Dương đã dẫn thủ hạ tới Ngu uyên, nhưng Thiếu Hạo, Yến Long, Trung Dung của Cao Tân, Xi Vưu, Chúc Dung, Cộng Công, Hậu Thổ của Thần Nông cũng lũ lượt đổ về đó, để một mình Thanh Dương đi ta không yên tâm, muốn cử Xương Ý tới giúp đỡ.”
A Hành thấy lòng chùng hẳn xuống, nếu phụ vương thật sự muốn cử Tứ ca đi, sao còn giữ nàng lại Chỉ Nguyệt điện, dùng Tỉnh Tửu thạch làm nàng tỉnh rượu làm gì?
“Xin phụ vương cử con đi thay, đêm nay là tân hôn của Tứ ca, là đêm tân hôn đầu tiên và cũng là duy nhất của Tứ ca mà.”
Thấy Hoàng Đế yên lặng nhìn mình, A Hành quỳ xuống thưa: “Tuy linh lực của con không bằng Tứ ca nhưng con và Thiếu Hạo là vợ chồng, hơn nữa chuyện này đến cuối cùng là đấu trí chứ đâu phải là đấu dũng.”
Nghe nàng trình bày, Hoàng Đế cũng gật đầu ưng thuận, “Con nhớ lấy, nếu chúng ta không dành được thì thà hủy nó đi, quyết không để rơi vào tay kẻ khác.”
A Hành đập đầu thi lễ rồi đứng dậy toan đi.
“Hành nhi.”
A Hành nghe tiếng ngoảnh lại, Hoàng Đế liền đứng dậy, đặt hai tay lên vai nàng, “An nguy của cả Hiên Viên đều đặt lên vai con đó.”
Trước uy thế của phụ vương, A Hành cơ hồ nghẹt thở, chỉ biết gật đầu.
Đợi Hoàng Đế buông tay, nàng vội cúi đầu lui ra, đột nhiên, nàng ngẩng lên trông thấy Đồng Ngư thị đang đứng gần đó, cặp mắt sáng rực hệt như mắt mèo chòng chọc dán vào nàng.
A Hành giật thót mình, sực nhớ ra Đồng Ngư thị vừa mất con trai, nàng cũng lờ mờ hiểu được đôi phần, bèn bước lại hành lễ với bà ta, nhưng Đồng Ngư thị chẳng nói chẳng rằng, chỉ nghiến răng nghiến lợi nhìn nàng chằm chằm khiến A Hành lạnh cả người, vội cáo từ lui ra.
Giọng bà ta âm u vẳng lại sau lưng nàng: “Các người đừng vội đắc ý, ta nhất định phải khiến con đàn bà lòng dạ rắn rết Tây Lăng Luy nếm đủ mùi đau khổ!”
A Hành giận sôi gan, quay phắt lại.
Đồng Ngư thị chỉ mặt nàng cười sằng sặc: “Đại ca ngươi hại chết Huy nhi, nó đã muốn thiêu sống Huy nhi từ lâu rồi, nó hận Huy nhi thiêu chết Vân…”
Vừa nói đến đó Di Bành đã xông đến bịt miệng bà ta lại rồi quay qua cười xòa với nàng: “Mẹ ta bị kích động quá mức nên ăn nói linh tinh, muội đừng chấp nhé.”
“Cửu ca.” A Hành nguôi giận tươi cười tiến đế nhưng Di Bành đã kéo mẹ mình lùi lại, ánh mắt đầy cảnh giác.
Thấy vậy nàng khựng lại, lòng buồn mênh mang, Di Bành và nàng chỉ hơn kém nhau vài tuổi, lại học chung một thầy, thuở nhỏ vẫn ngày ngày chơi đùa cùng nhau, thân mật khăng khít, vậy mà sau này lớn lên, chẳng hiểu sao càng lúc càng xa lạ.
“Cửu ca, muội về đây.” Nàng gượng cười, rảo bước ra khỏi điện.
Ra khỏi Chỉ Nguyệt điện, A Hành liền kêu A Tệ bay thẳng tới Ngu uyên.
Gương mặt Đồng Ngư thị cứ chập chờn trong đầu nàng, lẽ nào Tam ca thật sự bị Đại ca hại chết ư? Sao lại thế? Vì Tam ca cản trở việc Đại ca kế thừa vương vị chăng?
Đột nhiên nàng giật thót mình, phụ vương thường ở lại Chỉ Nguyệt điện, lẽ nào không nghe thấy những lời linh tinh của bà ta? Nàng không muốn nghĩ xấu cho phụ vương, nhưng phụ vương trước dùng Tứ ca buộc nàng phải xung phong đi Ngu uyên, sau đó Đồng Ngư thị lại xuất hiện đúng lúc như thế khiến nàng không khỏi liên tưởng liệu đây có phải một lời cảnh cáo của phụ vương chăng? Cảnh cáo nếu nàng không đạt được Hà Đồ Lạc Thư thì mẹ nàng sẽ bị đẩy vào hiểm cảnh?
A Hành chợt thấy lạnh từ trong lạnh ra, cả người run lẩy bẩy, bèn rạp mình ôm chặt lấy A Tệ.
A Tệ cũng cảm nhận được, liền ngoảnh lại cọ cọ vào má nàng như an ủi.
Ngu uyên là nơi mặt trời lặn, nằm ở đầu cuối đại hoang, vùng cực Tây hoang vu không một bóng người, cũng là một trong năm thánh địa lớn từ thời thượng cổ, nhưng người trên đại hoang không ai hiểu vì sao nó lại được tôn làm thánh địa sánh ngang với Thang cốc nơi mặt trời mọc lên, Quy khư nơi đầu nguồn con nước, Ngọc sơn nơi ngọc linh quy tụ và Nam Bắc minh nơi hai cực hợp lại làm một. Ngu uyên sở hữu nguồn sức mạnh có thể nhấn chìm mọi thứ, chẳng sinh vật nào sống nổi ở đó, gọi là thánh địa, chi bằng gọi là ma vực còn đúng hơn, bởi vậy dần dà người đại hoang bèn gọi Ngu uyên là ma vực.
Lúc A Hành tới nơi là chính Ngọ, cũng là thời điểm sức mạnh của Ngu uyên suy yếu nhất trong ngày, khói đen vần vũ trên vùng trời Ngu uyên cơ hồ đã nhạt đi nhiều, nhưng chẳng có thần tiên hay yêu quái nào dám xông vào làn khói cuồn cuộn đó.
Liệt Dương sẵn tính nóng nảy chẳng đợi A Hành lên tiếng đã xông thẳng vào màn khói đen, lập tức khói đen quấn quanh mình nó kéo xuống, nhìn bên dưới cũng chỉ thấy mịt mù khói đen, chẳng trông rõ vật gì, càng xuống dưới, khói đen càng dày đặc như một thứ dầu đen kịt, Liệt Dương hơi sờ sợ vội lật mình bay vút lên, đỗ xuống vai A Hành.
A Hành nhìn qua con lạch không mọc nổi một ngọn cỏ, mắt trông về phía Tây chỉ thấy khói đen cuồn cuộn ngút mắt trào lên như sóng, lại tựa như mặt biển đen mênh mông chẳng thấy bến bờ, chẳng ai biết nó rộng bao nhiêu, cũng chẳng ai biết nó sâu chừng nào.
Nàng quay sang hỏi Chu Du: “Mọi chuyện thế nào rồi? Có phải là Hà Đồ Lạc Thư thật không đó?”
“Điện hạ đã dùng linh lực tra xét rồi, có vẻ lần này là thật đó.” Ả chỉ tay về phía vách núi ngoài cùng của Ngu uyên. Lúc này đây phân nửa vách núi vẫn chìm trong màn khói đen, chỉ có phân nửa lộ ra dưới ánh mặt trời, nửa đen nửa vàng, càng toát lên vẻ đẹp đầy quỷ dị.
“Nghe nói gà vàng chui vào sơn động, điện hạ đã đuổi theo hơn một canh giờ rồi.” Chu Du ngẩng đầu nhìn vầng dương đã bắt đầu ngả về Tây, thấp thỏm: “Mặt trời càng ngả về Tây thì sức mạnh nhấn chìm vạn vật của Ngu uyên càng mạnh lên, sau cùng còn hút luôn cả mặt trời vào, thần lực mạnh thế nào cũng không thoát nổi.”
Nàng liền giao A Tệ và Liệt Dương lại cho Chu Du, “Ngươi trông nom chúng giùm ta, đừng để chúng xông vào đó. Ta đi xem Đại ca thế nào.”
“Vương cơ phải cẩn thận đó! Nhớ ra khỏi Ngu uyên trước khi mặt trời lặn nhé!”
A Hành quăng tơ Thiên Tằm bám vào vách núi rồi xông thẳng vào cửa động.
Bên trong tối đen như mực, chẳng nhìn thấy bất cứ thứ gì, A Hành cầm mộc khúc mê cốc[2] soi đường, thận trọng tiến vào.
[2] Mê cốc: một loài thực vật được nhắc tới trong phần Nam Sơn kinh của Sơn Hải kinh, có thể phát sáng soi đường, đề phòng bị lạc. Theo Sơn Hải kinh chép lại: “Núi Chiêu Diêu có một loài cây, hình dạng như kẻ, màu đen, phát sáng, tên gọi mê cốc, đeo vào sẽ không bị lạc đường.”
Đi một lúc ước chừng một tuần trà, nàng trông thấy Thanh Dương. Y đang ngồi xếp bằng trên mặt đất, mặt tái nhợt, vạt áo lấm tấm máu, hiển nhiên đã bị trọng thương.
Trông thấy A Hành, y đùng đùng nổi giận, “Sao muội lại đến đây?”
“Huynh đến được, sao muội lại không thể?” Nàng tiến lại xem xét vết thương của y, “Là âm thương, Yến Long đả thương huynh sao?”
Nói rồi nàng dúi cho Đại ca một viên đan dược, “Thuốc này không trị được thương, nhưng có thể giúp huynh điều hòa nội tức.”
Thanh Dương chẳng buồn hỏi lại, nhận lấy uống ngay, “Nói chính xác là Yến Long và Thiếu Hạo cùng đả thương ta, sáng hôm qua tỷ thí với Thiếu Hạo đã bị thương nên hôm nay Yến Long mới thừa nước đục thả câu.”
“Phát hiện Hà Đồ Lạc Thư chưa?”
“Chỉ cần tìm thấy gà vàng, moi trứng ngọc trong bụng nó ra là được, tìm được gà vàng không khó, cái khó là làm sao đối phó được với đám cao thủ Thần tộc cũng đang lăm le giành Hà Đồ Lạc Thư kia.”
“Chúng đâu cả rồi?”
Thiếu Hạo đang bị Hậu Thổ cầm chân, y cũng đã thụ thương, hơn nữa thổ linh của Hậu Thổ lại khắc chế thủy linh của Thiếu Hạo, nếu như bình thường thì chẳng có gì đáng ngại, nhưng Ngu uyên là nơi vạn linh giai không, có mỗi thổ linh nên linh lực của Thiếu Hạo khó mà thi triển được, chỉ có thể đánh ngang tay với Hậu Thổ thôi. Chúc Dung và Cộng Công đụng phải Yến Long, đôi bên cũng đang giao tranh ác liệt. Trung Dung và Xi Vưu đuổi theo gà vàng cả rồi. Ta vừa tiến vào sơn động chưa bao lâu đã bị Yến Long đánh lén nên định tránh sang một bên, để chúng quần nhau chán đi đã.”
Cảm nhận được tình hình mới qua lưới tơ tằm giăng sẵn, Thanh Dương chợt rùng mình, “Xi Vưu đả thương Chúc Dung, bắt được gà vàng rồi…” Cả sơn động nhoáng lên một luồng sáng xanh biếc dịu dàng, chẳng cần Thanh Dương phải nói, A Hành cũng đoán ra, “Xi Vưu giành được Hà Đồ Lạc Thư rồi.”
Thanh Dương lập tức đứng dậy, “Thiếu Hạo đột nhiên biến mất trong thổ trận của Hậu Thổ, ắt hẳn là đuổi theo Xi Vưu rồi.”
A Hành kéo y lại, “Đại ca, để muội đi.”
Thanh Dương đưa mắt nhìn nàng, A Hành gấp gáp nói: “Hiện giờ chúng ta đuổi theo cũng chẳng kịp nữa rồi, chi bằng cứ đón lõng trên đường rút lui của chúng, huynh ở trong tối, muội ở ngoài sáng. Huynh ra cửa động đợi muội, lấy nhàn cự mệt, để muội đi dụ địch, đến lúc đó hai ta kẻ trong tối người ngoài sáng cùng phối hợp, nhất định sẽ có cơ hội đoạt lấy Hà Đồ Lạc Thư.”
Thanh Dương hành sự quả quyết, liền gật đầu, lẩn vào trong bóng tối.
A Hành vận linh lực lên tay, thận trọng tiến vào.
Vào sâu trong động, nàng mới thật sự cảm nhận được sự đáng sợ của Ngu uyên, mỗi bước đi, linh lực lại vơi đi một chút, hơn nữa, mặt trời càng ngả xuống gần Ngu uyên, mức độ tiêu hao càng tăng dần.
Đột nhiên, một lưỡi thổ đao từ dưới đất chỉa lên, nàng vừa tránh khỏi đã thấy vách động đâm ra tua tủa thổ kiếm, cứ chặt gãy lại thấy cái mới mọc lên, bốn bề đều là đất, những lưỡi kiếm cứ đâm ra liên miên không dứt.
Vách động sau lưng nàng như hóa thành một cánh cung, bắn ra từng loạt từng loạt thổ kiếm dày đặc như mưa, A Hành tránh né đến phờ cả người, chợt thấy một thanh thổ kiếm từ đằng trước đâm thẳng tới, nàng tự biết không sao tránh nổi, đành hét toáng lên, giương mắt trơ trơ nhìn thanh kiếm đâm vào ngực mình.
Hậu Thổ ẩn thân giữa đám đất đá nghe nàng hét vội thu kiếm lại, thanh kiếm dừng sựng trước ngực nàng, gã cũng theo đó mà hiện thân, ngạc nhiên gọi: “Bạt tỷ tỷ? Sao tỷ lại ở đây?”
A Hành còn chưa kịp hoàn hồn, nàng không sao tưởng tượng được gã Hậu Thổ tuấn tú nhã nhặn trước mặt chính là kẻ bừng bừng sát khí, suýt lấy mạng mình vừa nãy. Nàng bên khom lưng thi lễ: Đa tạ Tướng quân nương tay.”
Hậu Thổ vội đỡ lấy nàng, vừa thất vọng vừa hoảng hốt hỏi: “Nếu nói cảm tạ thì đệ cảm tạ tỷ tỷ mới phải, tỷ vẫn chưa nhớ ra đệ ư?”
A Hành giơ mê cốc soi vào mặt gã, nhìn thật kỹ. Thuở nhỏ nàng có tới Thần Nông một lần, nếu từng gặp gã thì hẳn là từ hồi đó, tiếc rằng chuyện xưa nàng đã quên gần hết, chỉ nhớ có lần mình đánh cho mấy tên vương tôn công tử vỡ đầu chảy máu, để xoa dịu cơn giận của họ, Đại ca phạt nàng phải bưng tảng đá nặng trịch đứng suốt đêm, nhưng tại sao lại đánh nhau nhỉ? À, hình như là bởi chúng ăn hiếp một đứa bé, tuy đứa nhỏ đó là hậu duệ vương tộc nhưng mẹ nó lại là người thuộc Yêu tộc, thân phận thấp kém nên luôn bị những đứa trẻ khác khinh miệt. Đứa nhỏ đó có đôi mắt nai dịu dàng vô hạn, tròng mắt nâu ngơ ngác, lông mi dài thật dài, lại rất mau nước mắt, mỗi khi bị đám trẻ kia làm nhục, nó chẳng hề phản kháng kêu la, chỉ rúc mình trong xó âm thầm khóc. Lúc nàng bị phạt đứng, nó lén lút tới thăm, còn hỏi nhỏ: “Có nặng không?”
Nàng lắc đầu cười còn nó lại bật khóc nức nở như thể chính mình bị phạt vậy, thoạt đầu nàng dịu giọng dỗ dành, nhưng càng dỗ nó càng khóc tợn, nước mắt lã chã như mưa, y hệt con gái, khiến nàng phát bực, bèn mắng cho mấy câu. Thằng nhỏ bị nàng mắng chỉ biết ngây ra nhìn nàng đến quên cả khóc.
A Hành nhìn vào mắt Hậu Thổ, lắp bắp, “Đệ… đệ là… đứa bé mau nước mắt đó ư?”
Vị anh hùng nổi danh khắp thiên hạ như Hậu Thổ không ngờ lại đỏ bừng mặt, “Là đệ đây, có điều mấy trăm năm nay đệ không khóc nữa. Đệ còn nhớ tỷ tỷ từng mắng rằng nam tử hán chỉ đổ máu chứ không rơi lệ mà!”
A Hành ngượng ngùng cười, buông lời cảm khái: “Giờ đệ đã trở thành nam tử hán chân chính rồi!”
Hậu Thổ vẫn bịn rịn chưa muốn đi khỏi, nhưng nơi này chẳng phải chỗ ôn lại chuyện xưa, đành nói: “Tỷ tỷ mau đi đi, thể chất của tỷ là mộc linh, mà Ngu uyên lại là nơi cây cỏ không mọc nổi, mặt trời càng ngả về Tây thì linh khí của tỷ sẽ càng bị khắc chế nhiều hơn, sau cùng e rằng chẳng còn sức mà rời khỏi đây nữa đâu.”
A Hành cười tán thành: “Vậy ta đi đây, à phải, đệ có gặp Thiếu Hạo không?”
Hậu Thổ ngượng ngập đáp: “Bọn đệ vừa giao thủ khi nãy, Thiếu Hạo thật không hổ là Thiếu Hạo, nơi này toàn thổ linh, y hình như lại đang bị thương, vậy mà đệ vẫn chỉ đấu ngang tay với y, có điều…”
“Sao cơ?”
Hậu Thổ áy náy nói: “Có điều về sau y nôn nóng xông ra khỏi thổ kiếm trận của đệ nên bị thương nhẹ. Nếu tỷ tỷ tới tìm y thì mau đi đi, giờ y bị thương nên lại thêm thương, nấn ná ở đây không tiện đâu.”
“Đa tạ đệ.”
Hậu Thổ vội nói: “Tỷ tỷ đừng khách khí với đệ như thế. Đệ nói rồi mà, kẻ nên cảm tạ là đệ mới phải. Có lẽ chuyện xưa đối với tỷ chẳng đáng gì nhưng đối với một đứa nhỏ bơ vơ cô độc, tự ti yếu đuối như đệ thì…” Hậu Thổ nghẹn lời, ánh mắt sẫm lại, lát sau mới bình tĩnh nói tiếp: “Nhờ có tỷ mà đứa nhỏ ngày xưa mới có thể trở thành Hậu Thổ hôm nay.”
A Hành biết từng câu chữ của gã đều xuất phát tự đáy lòng, bèn hào sảng nói: “Được! Từ nay về sau ta sẽ coi đệ như đệ đệ mình, không khách khí nữa.”
Hậu Thổ mừng rỡ nhoẻn cười.
Nhớ đến Xi Vưu cùng Thiếu Hạo, nàng lại càng sợ họ vì Hà Đồ Lạc Thư mà giao tranh, vội nhớn nhác toan đi, Hậu Thổ thấy vậy bèn trao cho nàng một quả cầu bằng đất vàng, “Nơi đây ngoài thổ linh thì vạn linh giai không, món pháp bảo này do đệ luyện ra, chỉ cần tỷ nắm nó trong tay, đi đến bất cứ nơi nào có đất cũng có thể ẩn thân, hòa mình vào đất, lúc nguy cấp quăng nó ra còn có thể điều khiển thổ linh trong vòng ba trượng xung quanh, nhưng không kéo dài được lâu đâu.”
A Hành toan mở miệng cảm ơn nhưng rồi lại lè lưỡi cười cười nhận lấy quả cầu gã đưa.
Mặc Hậu Thổ ba lần bảy lượt dặn dò nàng rời khỏi Ngu uyên cho mau, A Hành vẫn chạy thẳng vào trong, có điều càng lúc nàng càng thấy áp lực đè nặng lên mình như thể bị một bàn tay khổng lồ trì kéo xuống vậy.
Ngửi mùi máu tanh thoang thoảng trong không khí, nàng ngỡ Xi Vưu và Thiếu Hạo đã giao tranh với nhau, vội cuống cuồng chạy đến, tim cơ hồ nhảy thót ra khỏi lồng ngực, chẳng biết rốt cuộc là ai bị thương.
Lần theo mùi máu, nàng tìm tới nơi giao đấu nhưng chẳng gặp Xi Vưu, chỉ thấy Yến Long và Thiếu Hạo. A Hành nắm pháp bảo của Hậu Thổ trong tay, nín thở dán mình sau vách động âm thầm nghe ngóng.
Thiếu Hạo ngồi xếp bằng trên mặt đất, bao quanh là một bong bóng nước màu lam khổng lồ, Yến Long ôm đàn đi vòng quanh Thiếu Hạo, vừa đi vừa gảy, không nghe thấy tiếng đàn nhưng hễ y gảy là bong bóng nước quanh Thiếu Hạo lại co vào một chút, chẳng khác nào một trái tim đang khổ sở vùng vẫy.
Chẳng hiểu Thiếu Hạo bị thương ở đâu, chỉ thấy bạch bào trên người y vấy đầy máu.
Yến Long càng cười càng đắc ý, khí thế gảy đàn cũng càng lúc càng tiêu sái tự nhiên. Bóng nước bao quanh Thiếu Hạo càng lúc càng co lại.
Thiếu Hạo cất tiếng: “Ngươi thật không biết nặng nhẹ! Dù muốn giết ta cũng không nên đánh lén lúc ta giao thủ với Xi Vưu! Để Hà Đồ Lạc Thư rơi vào tay Xi Vưu, ngươi có từng nghĩ tới hậu quả chưa?”
Yến Long cười đáp: “Đừng lo, ta xử lý ngươi xong sẽ hỏi đến hắn. Hà Đồ Lạc Thư đương nhiên khó tìm, nhưng cơ hội để giết ngươi còn khó kiếm hơn, ta đợi hơn hai ngàn năm mới có ngày hôm nay đó. Hai tên đần độn Chúc Dung và Cộng Công tưởng rằng dựa vào năng lực của chúng mà cầm chân được ta ư, ha ha, ta chẳng qua chỉ vờ giết thời gian với chúng, để hai kẻ lợi hại thực sự là Hậu Thổ và Xi Vưu lại cho ngươi, sẵn tiện tiêu hao linh lực của ngươi thôi, chỉ tiếc ngươi quá vô dụng, đệ nhất cao thủ Thần tộc quái gì mà lại bị Hậu Thổ và Xi Vưu đả thương đến nông nỗi này.”
Vết máu trên áo Thiếu Hạo càng lúc càng nhiều, bong bóng nước cũng mỏng dần đi, thu nhỏ lại.
Yến Long vừa cười vừa lắc đầu, thưởng thức cảnh tượng Thiếu Hạo bất lực tránh né. Từ lúc sinh ra, Thiếu Hạo vẫn luôn là kẻ địch của y. Từ nhỏ đến lớn, y làm gì cũng bị đem ra so sánh với Thiếu Hạo, dù nỗ lực cỡ nào, làm tốt tới đâu, chỉ cần thua kém Thiếu Hạo thì đều thành công cốc. Từ nhỏ tới lớn, y cũng được coi là thiên tư siêu quần, thông tuệ xuất chúng, năng nổ giỏi giang, nhưng hễ đụng phải Thiếu Hạo là lại thất bại, đến nỗi y lấy làm thắc mắc, ông trời đã sinh ra Thiếu Hạo, sao còn sinh ra y? Lẽ nào y chỉ dùng để làm nền cho Thiếu Hạo thôi ư?
Đây là lần đầu tiên y trông thấy hy vọng thắng lợi, miễn là Thiếu Hạo không còn, y sẽ có thể trở thành Yến Long chứ không phải là Nhị vương tử Cao Tân thua kém Thiếu Hạo về mọi mặt nữa.
Yến Long dụng lực gảy liên tiếp ba lần khiến bóng nước choang một tiếng vỡ tan tành, Thiếu Hạo đổ gục xuống, máu từ tai rỉ ra.
Yến Long phá lên cười, bước lại gần Thiếu Hạo, nghe Thiếu Hạo thều thào nói: “Đừng lãng phí linh lực với ta nữa, ta không còn sức rời khỏi Ngu uyên đâu, ngươi mau đi đoạt lại Hà Đồ Lạc Thư đi.”
Yến Long tàn nhẫn bồi thêm cho Thiếu Hạo mấy cú đá, “Đừng làm bộ làm tịch như Cao Tân là của riêng ngươi nữa, lẽ nào chỉ mình ngươi biết lo cho dân cho nước còn ta thì không ư? Từ nay trở đi, ta chính là Đại vương tử của Cao Tân, việc của Cao Tân sẽ do ta lo liệu.”
Nói rồi y vận linh lực trên tay, toan hạ một chưởng lấy mạng Thiếu Hạo, đột nhiên Hậu Thổ từ đâu cười ha hả xông ra, lập tức hang động vặn vẹo biến hình, thổ đao từ dưới đất chỉa lên, khói bụi mù mịt khắp nơi, chẳng nhìn thấy gì hết.
Ngu uyên là lãnh địa của thổ linh, tại đây, thần lực của Hậu Thổ có thể tăng gấp bội, Yến Long lại không giỏi cận chiến, y giật thót mình, vội chăm chú tránh né thổ kiếm thổ đao, đồng thời cao giọng: “Hà Đồ Lạc Thư rơi vào tay Xi Vưu rồi.”
Giọng Hậu Thổ từ đâu đó vẳng lại, nghe chữ được chữ mất, “Thật không?”
Yến Long cười nhạt, “Ta gạt ngươi làm gì?”
“Vậy được, cáo từ!”
Chỉ lát sau khói bụi mịt mù đều tan đi, để lại mặt đất trống trơn, xem ra Thiếu Hạo nhân lúc hỗn loạn đã chuồn mất. Yến Long điên tiết bèn ngưng tụ linh lực toan đuổi theo, chợt y khựng lại nghĩ thầm, chẳng rõ vừa nãy Hậu Thổ nhìn trộm được bao nhiêu, lỡ như Tuấn Đế biết y ra tay giết Thiếu Hạo thì dù có lòng thiên vị, phụ vương cũng sẽ trừng phạt y thật nặng.
Sức mạnh của Ngu uyên càng lúc càng tăng, không thể nấn ná ở đây thêm nữa, Thiếu Hạo bị thương nặng như vậy ắt chẳng thể rời khỏi nơi này, chi bằng để Ngu uyên kết liễu Thiếu Hạo, sau này dù Hậu Thổ nói gì đi nữa y cũng có thể hùng hồn bẩm lại với phụ vương rằng Thiếu Hạo bị Hậu Thổ và Xi Vưu vây đánh, không may bị thương nặng, linh lực cạn kiệt, không kịp thoát khỏi Ngu uyên nên bỏ mạng, vậy là kín kẽ như áo trời chẳng thấy đường may.
Yến Long đắn đo một hồi rồi vội vã chạy thẳng ra ngoài.
Đợi y khuất dạng, Thiếu Hạo và A Hành nấp gần đó mới dám thở phào nhẹ nhõm.
“Cảm ơn nàng.” Thiếu Hạo không vướng bụi trần lúc xưa, giờ chẳng những bê bết máu me mà còn lấm lem mặt mũi, nhưng khí độ ung dung vẫn y hệt thuở nào.
“Cần gì khách khí thế? Muốn cảm tạ thì phải cảm tạ chàng hàng ngày tận tình dạy dỗ thiếp. Nếu chàng không kể với thiếp rằng phụ vương hiền từ nhân hậu thì thiếp cũng chẳng dám tin đóng giả Hậu Thổ lại có thể dọa Yến Long sợ không dám đuổi theo đâu.”
Thiếu Hạo lại hỏi: “Trụ Nhan hoa của nàng có thể thay đổi dung mạo, nhưng sao nàng lại khống chế được thổ linh khiến cho Yến Long tin nàng là Hậu Thổ?”
“Nói ra thì dài dòng lắm, dù sao lần này cũng phải cảm ơn Hậu Thổ.” A Hành cõng Thiếu Hạo dậy. “Chúng ta mau rời khỏi đây thôi, sức mạnh của Ngu uyên càng lúc càng tăng kìa.”
Vừa nãy nàng một thân một mình xông ra đã tiêu hao kha khá sức lực, giờ đây lại cõng theo Thiếu Hạo nên tốc độ càng lúc càng chậm.
Đi mãi đi mãi vẫn chưa ra được khỏi động, trong khi đó áp lực cứ ngày một tăng thêm, chân nàng nặng trịch như sắp dính vào mặt đất, lại thêm sức nặng của Thiếu Hạo trên lưng, mỗi lần cất bước, A Hành đều phải vận hết linh lực.
Thấy nàng càng đi càng chậm, Thiếu Hạo hiểu ngay rằng nàng không đủ linh lực, giỏi lắm cũng chỉ có thể tự mình rời khỏi mà thôi.
“A Hành, bỏ ta xuống, nhân lúc mặt trời chưa lặn hẳn nàng mau đi đi, thà thoát được một người còn hơn cả hai cùng chết.”
Trong lòng A Hành đang giằng xé kịch liệt, nàng đâu phải không hiểu đạo lý mà Thiếu Hạo nói. Vừa khó nhọc lê bước vừa cân nhắc thiệt hơn, chợt nhớ tới mẹ và Tứ ca, nàng đột nhiên khựng lại mà nhủ thầm, mình không thể chết được.
Thiếu Hạo thấy là hiểu, liền nhúc ngắc toan tuột xuống.
A Hành đặt y ngồi tựa vào tường, cúi gằm mặt không dám nhìn vào mắt y: “Xin lỗi chàng.”
Thiếu Hạo cười, “Khỏi cần xin lỗi, nếu đổi lại là ta hẳn đã không mạo hiểm ra tay cứu người trước mặt Yến Long rồi, nàng mau đi đi!”
A Hành nghiến răng, vận linh lực chạy vụt ra ngoài.
Nàng cắm đầu cắm cổ chạy trong đêm tối, nhưng chạy thế nào cũng không thoát được bóng đêm. Nụ cười của Thiếu Hạo còn rành rành trước mắt nàng, cứ chạy thêm một bước, gương mặt ấy lại rõ thêm một phần, tất cả tháng ngày từ khi quen biết tới nay đều biến thành muôn mặt nụ cười, cười hờ hững, cười vui vẻ, cười khanh khách… Lần đầu tiên nàng nhận ra rằng, bất kể lúc nào, Thiếu Hạo cũng mỉm cười. Kể cả khi nãy y cũng vẫn tươi cười.
Nàng dừng phắt lại, nghiến răng chạy ngược trở về.
Bốn bề tối đen như mực, lại im phăng phắc, Thiếu Hạo đang nhắm mắt chờ chết đột nhiên nghe thấy tiếng bước chân chậm chạp mà nặng nhọc, nhưng y chẳng buồn mở mắt ra.
Mãi tới khi tiếng bước chân dừng trước mặt mình, y mới từ từ mở mắt, đăm đăm nhìn A Hành, chẳng nói một lời.
A Hành cũng chẳng nói chẳng rằng dụng lực cõng y lên, thân thể Thiếu Hạo dưới lực hút của Ngu uyên đã nặng tựa ngàn cân, nàng chỉ có thể lê từng bước từng bước một.
Thiếu Hạo lặng thinh, hai tay rũ trên vai A Hành.
A Hành vừa thở hổn hển vừa bấu víu vào những mẩu đá gồ lên trong động, dùng sức dịch chuyển về phía trước.
Nhiệt độ trong động càng lúc càng tăng, lực hút cũng mỗi lúc một mạnh, A Hành cơ hồ không nhích nổi một bước nhưng vẫn nghiến chặt răng, bám vào mẩu đá lết tới trước, hai tay xước xát hết cả.
Hai người lê lết bằng tốc độ của ốc sên, nhích được một chút là phải trả giá bằng bao nhiêu máu chảy.
Bỗng Thiếu Hạo gắng gượng giơ tay lên bám lấy mẩu đá, gắng hết sức nhích thân thể mình và A Hành lên phía trước, máu của hai người hòa lẫn vào nhau trên vách động.
Đi thêm được chừng mười trượng thì A Hành không nhấc nổi chân lên nữa, nàng ra sức đá chân ra nhưng bàn chân cứ dính chặt lấy mặt đất, như thể mọc lên từ đó vậy.
Nàng gắng gượng nhấc, gắng sức nhấc, gắng hết sức nhấc chân lên…
Thân hình nàng ngả ngả nghiêng nghiêng rồi ngả phịch xuống đất, kéo theo cả Thiếu Hạo.
A Hành vùng vẫy toan bò dậy nhưng cả người nàng đã dính chặt vào mặt đất, không sao dậy nổi, Thiếu Hạo bên cạnh dường như đoán trước được kết quả này, chỉ một mực nằm im, chẳng buồn nhúc nhích.
A Hành nằm đè lên cánh tay Thiếu Hạo cười khúc khích, “Thiếp ngốc thật đấy! Chẳng cứu được chàng mà chính mình còn chết chùm theo, sao khi nãy chàng không khuyên thiếp thêm mấy câu nữa hả? Cứ tỏ vẻ một lòng muốn chết, không cần thiếp nhiều chuyện có phải đỡ không?”
Thiếu Hạo nhắm nghiền mắt làm thinh, lát sau mới lên tiếng: “Vì ta cũng sợ chết lắm.”
Khi nãy sau khi A Hành đi khỏi, y chẳng hề thấy sợ hãi, chỉ ngồi yên bình tĩnh cảm nhận sức mạnh của Ngu uyên đang tăng lên từng chút một, cũng từng chút từng chút nuốt lấy mình. Từ lâu y đã quen với cảm giác từ từ bị bóng đêm nhấn chìm thế này rồi, bởi từ nhỏ đến lớn, mỗi ngày của y đều là như vậy. Y từng coi phụ vương là chỗ dựa vững chắc nhất nhưng lại quên khuấy rằng phụ vương là phụ vương duy nhất của y, nhưng y không phải con trai duy nhất của phụ vương, y từng ngỡ rằng vú già thương mình nhất, nhưng suốt mấy trăm năm ngày nào bà ta cũng bỏ độc vào đồ ăn của y, từng cho rằng có thể tin tưởng muội muội nhưng cô ta lại đem hết thảy lời ăn tiếng nói của y mách với Tuấn Hậu không sót một chữ, từng tưởng rằng… Hết lần này đến lần khác, y đã quen bình thản nhìn từng kẻ thân bằng quyến thuộc vứt bỏ mình chẳng hề do dự, đến nỗi y cảm thấy vậy mới là bình thường.
Vậy mà khi nghe tiếng chân A Hành trở lại, sự bình thản của y chợt vỡ vụn, tim bỗng đập liên hồi, như đang âm thầm khát khao một điều gì đó. Đối mặt với mười vạn đại quân Thần Nông, y vẫn có thể cười nói như thường, nhưng trong khoảnh khắc đó, y thậm chí còn chẳng có can đảm mở mắt ra nhìn nữa.
A Hành thở dài, “Thiếp cũng sợ chết.” Nhớ tới Xi Vưu, nàng thật không cam tâm bỏ mạng ở đây!
Thiếu Hạo lặng thinh không nói, chỉ chăm chăm nhìn vào bóng đêm, lạ thay, tuy hiện giờ lực hút lớn đến nỗi không sao ngồi dậy nổi nhưng y lại chẳng hề có cảm giác bị màn đêm nhấn chìm như lúc trước, có lẽ không phải y sợ chết, mà sợ phải chết đi trong cô độc. Bóng tối của Ngu uyên thật ra không đáng sợ, cái đáng sợ là bóng đêm thăm thẳm khi bị hết thảy mọi người ruồng bỏ.
Thiếu Hạo đột ngột lên tiếng, “A Hành, nếu như, ta chỉ nói là nếu thôi nhé, nếu có kiếp sau, ta không còn là Cao Tân Thiếu Hạo, nàng cũng chẳng còn là Hiên Viên Bạt nữa, bất kể nàng trở thành người như thế nào, ta cũng muốn được làm chồng nàng, suốt đời không xa rời.”
A Hành khẽ cười, “Kiếp này trói buộc nhau chưa đủ hay sao mà còn muốn dằng dai sang tận kiếp sau? Nếu thật sự có kiếp sau, thiếp chỉ muốn sống thanh thanh bạch bạch một đời.”
Thiếu Hạo bật cười theo, “Nàng nói phải lắm.”
“A Hành, A Hành…”
Tiếng gọi lo âu chẳng biết từ đâu truyền tới, văng vẳng trong sơn động tối om.
A Hành cùng Thiếu Hạo dỏng tai nghe ngóng một thoáng, đoạn nàng la toáng lên: “Đại ca, muội ở đây, muội ở đây này!”
A Hành run giọng mừng rỡ bảo Thiếu Hạo: “Đại ca tới tìm thiếp! Đại ca thiếp tới tìm thiếp, chúng ta được cứu rồi! Hai ta không chết đâu!”
Thiếu Hạo chỉ chăm chú nhìn nàng, cười không nói.
Bị sức mạnh của Ngu uyên quấy nhiễu, Thanh Dương lại chịu thêm một vết thương. Y vận linh lực không tìm được A Hành, chỉ có thể lần theo tiếng đáp của nàng mà tìm đến, trông thấy cả Thiếu Hạo trọng thương nằm dưới đất, y hết sức bất ngờ, nhất thời cứ yên lặng nhìn cả hai, vẻ mặt nặng nề, hồi lâu không lên tiếng.
A Hành hiểu ngay rằng Đại ca thân mang trọng thương, lực hút của Ngu uyên lại quá mạnh, y chỉ có thể cứu một trong hai người mà thôi.
Thiếu Hạo hờ hững cười, “Đừng lề mề nữa đi, ta chỉ hận rằng chúng ta vẫn chưa phân thắng bại.”
Thấy Thanh Dương bế A Hành lên, Thiếu Hạo cũng ngừng lời, mỉm cười nhắm nghiền mắt lại.
Thanh Dương nhìn y lần cuối rồi rảo bước chạy như bay ra ngoài. A Hành ôm lấy cổ Đại ca, mở to mắt nhìn lại phía sau, thấy bóng áo trắng của Thiếu Hạo càng lúc càng nhỏ dần, tựa hồ đang từ từ bị bóng tối nhấn chìm. Nàng gục đầu vào cổ Đại ca, nước mắt tuôn lã chã. Lần cuối cùng đưa mắt nhìn nàng, Thiếu Hạo còn mỉm cười như thể an ủi nàng, không sao đâu! Nhưng rõ ràng y đã nói y sợ chết kia mà!
Gương mặt Thanh Dương sắt lại như đá, chỉ chăm chăm cắm cúi chạy thẳng ra ngoài, nhưng hai bên thái dương cứ phập phồng liên hồi, gân xanh cũng nổi đầy cả hai tay.
“Quác quác, quác quác.”
A Hành ngẩng phắt lên gọi lớn, “Liệt Dương, A Tệ!”
Trong tiếng quang quác điếc tai, Liệt Dương nhào đến đậu trên tay A Hành, A Tệ theo sau, luôn miệng kêu “kiu kíu”, mừng rỡ nhìn nàng. Chẳng hiều chúng gặp phải chuyện gì mà con xác xơ lông lá, con kia sém cả bộ lông, dường như đã giao tranh với ai đó.
Thanh Dương kinh ngạc nhìn hai con vật trước mặt. Thú vật có linh cảm vô cùng nhạy bén, thường thường còn linh mẫn hơn cả những tay cao thủ Thần tộc linh lực cao cường, bởi thế khi mặt trời vừa ngả xuống gần Ngu uyên, tất cả tọa kỵ đều lui lại phía sau, tránh xa khỏi đó. Không phải chúng không trung thành với chủ nhân mà đó chính là bản năng sinh tồn của muông thú, vậy mà hai con vật này lại dám xông vào tìm A Hành, vượt qua cả nỗi sợ bản năng.
Trông thấy A Tệ, A Hành phá lên cười rồi mừng mừng tủi tủi trỏ vào trong, “Mau đi cứu Thiên Hạo ra, mau lên!”
A Tệ tung người xông thẳng vào trong, Thanh Dương lập tức đặt A Hành xuống đất chạy ngược trở lại.
A Hành nằm dài trên mặt đất, ôm chặt lấy Liệt Dương, cười khúc khích. Liệt Dương bực bội lắc lắc mình, vừa lắc vừa mổ mổ nàng nhưng A Hành chẳng những không né mà còn siết chặt hơn nữa, Liệt Dương bị siết đến hết cả giận, đành ngẩng đầu chịu đựng.
Lát sau A Tệ đã cõng Thiếu Hạo chạy tới, Thanh Dương bế xốc A Hành lên, tất cả liều mạng xông ra, chẳng ai nói với ai một lời.
Mọi người vừa xông ra khỏi cửa động thì mặt trời lặn xuống Ngu uyên, làn khói đen phía trên Ngu uyên dày thêm, đen đặc như mực, chẳng trông thấy bất cứ thứ gì.
“Điện hạ!” Chu Du mừng rỡ gọi lớn, ả ôm chặt lấy Trùng Minh điểu, mặt mũi tay chân chi chít vết thương, nhếch nhác đứng trên vách núi, thấy khói đen lan đến chân mình, ả tái mét mặt, thân người ngả nghiêng chực ngã nhưng chẳng hề xê dịch nửa bước.
Thanh Dương khẽ huýt một tiếng, lập tức Trùng Minh điểu run rẩy bay đến, y nhảy lên tọa kỵ, bay thẳng ra khỏi Ngu uyên.
Mãi tới khi rời khỏi Ngu uyên, mọi người mới lếch thếch đậu xuống, ngoảnh đầu trông lại cả vùng trời Tây đều vần vũ khói đen, mặt trời đang lặn xuống Ngu uyên từng chút từng chút một.
Thanh Dương giận dữ hỏi Chu Du, “Sao ngươi còn đứng ngây ra ở Ngu uyên thế, định chờ chết đấy à?” Y giận ả có gan chờ chết mà chẳng xông vào trợ giúp.
Chu Du hùng hồn đáp, “Chẳng phải điện hạ bảo nô tỳ đứng đợi ư? Đương nhiên nô tỳ cứ phải đứng đó đợi chứ sao.”
Thanh Dương sững sờ còn Thiếu Hạo đang nằm phục trên lưng A Tệ nghe vậy cười không ra tiếng.
Chu Du quỳ xuống tạ tội với A Hành, “Vương cơ sai nô tỳ trông nom A Tệ và Liệt Dương, nhưng thấy mặt trời đã kề sát Ngu uyên mà vương cơ vẫn chưa ra, chúng liền liều mạng xông vào trong, nô tỳ giữ thế nào cũng không được.”
A Hành ngẩn người, đành nói: “Chẳng sao đâu, may mà ngươi không giữ được chúng.” Đứng trên vách núi chờ chết và chờ chết trong sơn động có gì khác nhau đâu? Ả Chu Du này… quả nhiên là đầu gỗ mà.
Lúc này mọi người mới hiểu những vết cào xước trên người Chu Du từ đâu mà có, A Tệ và Liệt Dương sao lại tả tơi lông lá. Thiếu Hạo phá lên cười ngặt nghẽo, vừa ho sù sụ vừa bảo Thanh Dương: “Ngươi nói khúc gỗ này rốt cuộc có đầu óc hay không?”
Thanh Dương cau mày nhìn ra đỉnh núi phía xa, chẳng buồn để ý kẻ khác nói gì.
A Hành chỉ bị thương ngoài da chứ không thương tổn linh lực, vừa rời khỏi Ngu uyên, nàng đã hồi phục nhanh chóng, bèn lại bên hồ nước rửa bùn đất máu me dính trên mặt trên tay.
A Tệ bám theo nàng tới bên hồ, Thiếu Hạo rớt khỏi lưng nó, ùm một tiếng lăn tõm xuống hồ, may sao A Hành nhanh tay nhanh mắt giữ được y lại.
Thiếu Hạo cười: “Ta tu luyện thủy tinh mà, lần này cảm ơn nàng giúp đỡ.”
Bấy giờ A Hành mới sực hiểu ra hồ nước là nơi trị thương của y. Nước là gốc rễ của vạn vật, thần tiên tu tập thủy tinh dù bị thương nặng tới đâu cũng mau hồi phục hơn hẳn kẻ khác.
A Hành nhoẻn cười thả tay ra để Thiếu Hạo từ từ chìm xuống đáy nước.
Thanh Dương bước tới bên nàng, hai chân giẫm thẳng lên mặt nước, lập tức cả hồ nước bắt đầu đóng băng.
Y dặn dò: “Ta và Thiếu Hạo đều bị thương nên trước khi tiến vào Ngu uyên, để đề phòng bất trắc, hai ta đã hợp lực giăng một trận pháp bên ngoài Ngu uyên, hiện giờ Xi Vưu đang khốn đốn trong đó, trước khi Thiếu Hạo kịp hồi phục vết thương, nhất định chúng ta phải đoạt lấy Hà Đồ Lạc Thư từ tay Xi Vưu.”
A Hành tròn mắt kinh ngạc: “Hai người ai nấy dẫn theo thuộc hạ tới Ngu uyên, còn chẳng có cơ hội gặp nhau, sao có thể hợp lực bày trận vậy?”
Thanh Dương thản nhiên đáp, “Chừng nào muội giao du với một kẻ suốt mấy ngàn năm sẽ biết rằng có những chuyện chẳng cần phải nói ra.”
Nhìn hồ nước đã đóng băng toàn bộ, A Hành nửa đùa nửa cợt nói: “Hẳn y cũng hiểu được ý đồ của huynh khi ngăn trở y trị thương lúc này.”
Chu Du vừa biến mất đã lại ló ra từ đâu đó, gơ tay chỉ chỉ cho Thanh Dương một hồ nước nhỏ ở xa, đó chính là hồ nước đầu tiên mà bọn họ bắt gặp từ khi thoát khỏi Ngu uyên.
Thanh Dương giậm mạnh lên mặt hồ đóng băng bên dưới, lập tức lớp băng lách cách nứt ra, y cũng theo đó chìm xuống dưới.
A Hành còn đang ngơ ngác đã thấy Thanh Dương cầm tượng gỗ nhảy ra khỏi hồ, quăng pho tượng xuống dưới chân nàng rồi nhảy lên lưng Trùng Minh điểu bay vút về phía hồ nước Chu Du chỉ.
A Hành nhặt pho tượng lên, nhận ra nó được chạm khắc vô cùng sống động, hệt như Thiếu Hạo thu nhỏ vây, nơi trái tim còn điểm một chấm máu tươi trích từ tim Thiếu Hạo. Thì ra vừa rời khỏi Ngu uyên, y đã dùng Khôi Lôi thuật hoán đổi bản thân, kẻ dọc đường cười nói đùa cợt với họ chỉ là một con rối gỗ mà thôi.
Nghĩ đến Thiếu Hạo vừa cảm kích tạ ơn mình chỉ là một con rối gỗ, A Hành lạnh cả sống lưng.
Thấy A Hành ngẩn người, Chu Du ngỡ rằng nàng không hiểu sao mình lại tìm được Thiếu Hạo, bèn trỏ mấy cây thù du nói, “Trước khi tiến vào Ngu uyên, điện hạ dặn nô tỳ phải lưu ý tất cả mọi nơi có nước, nô tỳ bèn lén trồng bên mỗi hồ nước một cây thù du[3], nếu không e rằng đã bị Thiếu Hạo qua mặt rồi.”
[3] Thù du: một loài cây rụng lá, ra hoa li ti màu vàng, quả có hình oval, màu đỏ, vị chua, có thể dùng làm thuốc. (ND)
Lúc A Hành cùng A Tệ đuổi đến nơi, cả hồ nước đã đông cứng lại thành băng, Thanh Dương đang nhắm mắt ngồi xếp bằng trên mặt băng.
A Hành cất tiếng, “Xin lỗi Đại ca.”
Thanh Dương dặn, “Ta cầm chân Thiếu Hạo ở đây, muội đem Chu Du cùng…” Thanh Dương quan sát A Tệ và Liệt Dương, cũng chẳng coi chúng là súc vật nữa, “Cùng bọn chúng đi đoạt lấy Hà Đồ Lạc Thư về. Nhớ đừng ra tay vội, để Yến Long và Xi Vưu đánh đến nỗi hai bên đều thương tích, bấy giờ hẵng lợi dụng trận pháp đoạt Hà Đồ Lạc Thư, có điều muội cũng đừng chần chừ chậm trễ, linh khí địa thế nơi này rất có lợi cho Thiếu Hạo, ta chẳng nắm chắc sẽ giữ chân y được bao lâu đâu!”
A Hành đang định đi chợt nghe Thanh Dương nói tiếp: “Muội nhớ đừng để Yến Long chết, y là con cờ hay nhất để kiềm chế Thiếu Hạo đấy.”
“Muội hiểu rồi.”
“Còn gì nữa không?”
A Hành vụt hỏi: “Tam ca là do huynh giết ư?”
Thanh Dương cười nhạt đáp: “Là Chúc Dung giết, muội nghe đâu được mấy câu tầm xàm ba láp này thế?”
“Hôm nọ muội nghe được ở chỗ phụ vương đấy. Tuy phụ vương chẳng nói rõ ra nhưng Đồng Ngư thị lẩm bẩm nói với muội, có lẽ phụ vương cũng đem lòng hoài nghi.”
Thanh Dương nhếch môi cười, “Mấy chuyện này không cần muội lo, đi đoạt Hà Đồ Lạc Thư đi.”
“Đại ca, huynh đừng vì dã tâm của mình mà đẩy mẹ và Tứ ca vào vòng nguy hiểm, bằng không, muội nhất định sẽ không tha thứ cho huynh đâu!”
Dứt lời nàng nhảy lên lưng A Tệ, bay vút lên trời.
Quyển 1 – Chương 16: Cảnh Ấy Đêm Này Thoắt Trôi Nhanh[1]
[1] Trích trong bài từ theo điệu Dương Quan khúc, nhan đề Trăng trung thu của Tô Thức. (ND)
Bấy giờ Xi Vưu mới như sực tỉnh, vội bước tới trước mặt A Hành, toan đặt miện hoa lên đầu nàng, nào ngờ A Hành nghiêng đầu né tránh, “Ta không cần vương miện, chỉ cần đóa hoa đào tượng trưng cho tấm lòng của ngươi là đủ.”
Theo lời Đại ca, A Hành chỉ khoanh tay đứng ngoài quan sát.
Dựa trên phương vị ngũ hành kim mộc thủy hỏa thổ, Thanh Dương đã bố trí một tấm gương băng năm mặt, hễ đứng trước gương là có thể thu hết tình hình trong trận pháp vào tầm mắt.
Hậu Thổ, Chúc Dung, Trung Dung đều đang bị vây trong trận pháp. Hậu Thổ hành sự cẩn trọng, không nôn nóng vội vàng mà bình tĩnh thăm dò xung quanh, trong khi Chúc Dung tính tình nóng nảy đã tả xung hữu đột khắp nơi, phóng hỏa thiêu núi, trông biển lửa phừng phừng như vậy nhưng thực tế những thứ hắn đốt chỉ là ảo ảnh, còn Trung Dung lại cưỡi Huyền điểu bay mãi bay mãi, có điều thật ra y vẫn bay vòng tại chỗ.
Yến Long vốn chẳng coi trận pháp vào đâu, chỉ ngồi trên đầu nũi gảy đàn, vẻ mặt bình thản, phong thái nhàn nhã, tiếng đàn khi vang vang mạnh mẽ như sóng to gió lớn, lúc lại thê thiết triền miên tựa người đẹp khóc than.
Theo tiếng đàn của Yến Long, những tảng đá trong sơn cốc lần lượt vỡ nát, mấy lần suýt đánh trúng Xi Vưu khiến hắn phải nhảy lên nhảy xuống, tránh trái né phải liên hồi, tuy ỷ vào thân pháp linh hoạt như dã thú cũng gắng gượng duy trì được ít lâu, nhưng càng lúc hắn càng kiệt sức, quần áo tóc tai đều lấm lem bùn đất.
Thấy Xi Vưu sắp bại, Liệt Dương hể hả vô cùng, nó đập cánh phành phạch, ngửa cổ kêu quang quác, trái lại A Tệ thấy Xi Vưu bị Yến Long bức hiếp thì vô cùng lo lắng, cứ lấy đầu hích hích A Hành, ngỡ ngàng không hiểu sao nàng chỉ khoanh tay đứng nhìn.
Chu Du lè lưỡi than, “Yến Long đã thành danh cả ngàn năm, còn tên Xi Vưu này chẳng qua chỉ mới tu hành năm sáu trăm năm là cùng, vậy mà có thể cầm cự với Yến Long bao lâu, hèn chi Đại điện hạ lại để tâm tới gã này đến thế.” Thông qua những ngọn cỏ dưới chân, ả vươn dài linh thức của mình ra, lặng lẽ cảm nhận một hồi rồi tiếp tục than thở: “Tiếc ghê, sát khí của Yến Long nặng quá, chắc Xi Vưu sắp chết rồi!”
Ả vừa dứt lời, tiếng đàn của Yến Long chợt trở nên dịu dàng hết mực, hệt như gió mát trăng trong, suối reo róc rách, tiếng đá nứt lách tách cũng ngừng bặt, cả sơn cốc chìm trong tĩnh lặng, vậy mà trông Xi Vưu vô cùng căng thẳng, lập tức ngồi xuống xếp bằng vận toàn bộ linh lực kháng cự, từ bốn phía vươn lên những nhánh dây leo bao lấy hắn vào giữa.
Chu Du thở dài thườn thượt, lại sinh lòng trắc ẩn với Xi Vưu, “Ái dà! Đây mới là Mị Hoặc Tâm Âm đáng sợ nhất trong Âm Tập chi thuật[2], có thể tiêu diệt thiên quân vạn mã chỉ trong nháy mắt đó!”
[2] Âm Tập chi thuật: thuật sử dụng âm thanh để tấn công người khác. (ND)
Cái gọi là Mị Hoặc Tâm Âm chính là lợi dụng sức mạnh âm thanh để khống chế tình cảm trong lòng, có thể là vui mừng, đau thương hoặc phẫn nộ… Dù là Thần tộc, Yêu tộc hay Nhân tộc, chỉ cần có trí tuệ ắt sẽ có thất tình lục dục, cảm xúc buồn vui, một khi bị Yến Long nắm được sơ hở, lợi dụng tiếng đàn tấn công vào nhược điểm trong tình cảm, sớm muộn gì cũng phải sụp đổ bởi tâm tình cực đoan của chính mình.
Lần trước Xi Vưu từng lợi dụng tiếng kêu mê hoặc của A Tệ khiến cả đám tinh nhuệ trên Thần Nông sơn khốn đốn, chưa đánh đã thua, công lực của Yến Long còn hơn A Tệ gấp trăm lần, uy lực đương nhiên chẳng phải nghĩ bàn, thêm vào đó Xi Vưu yêu hận đều vô cùng quyết liệt, tính tình cực đoan nên càng dễ bị thao túng trong mắt Chu Du và Yến Long, Xi Vưu coi như cầm chắc cái chết.
Theo tiếng đàn nỉ non của Yến Long, những dây leo xanh biếc bao bọc quanh Xi Vưu dần dần ngả vàng, cây lá trong rừng cũng lần lượt úa vàng như thể trời đã vào thu, vạn vật sắp đến hồi điêu linh phiêu tán.
Yến Long khẽ mỉm cười, đợi chừng nào tất cả lá cây rụng xuống thì Xi Vưu cũng cạn kiệt linh lực mà chết! Nghĩ vậy y lại vận thêm linh lực vào mười đầu ngón tay.
Đúng lúc này trong rừng chợt vang lên tiếng hổ gầm, làm rối loạn khúc nhạc của Yến Long.
Y ráng định thần lại, tiếp tục gảy đàn, tiếc rằng trong rừng càng lúc càng nhốn nháo.
Hổ gầm, sói tru, vượn hú, ngựa hí, chim kêu, trùng gáy… dường như tất cả các loài động vật đều thức dậy, đây con này kêu, kia con nọ hót theo tiếng đàn của Yến Long. Tiếng kêu của một hai con thú chẳng đáng gì nhưng cả trăm ngàn con họp lại cùng gầm rú lên thì thật vô cùng đáng sợ.
Khác với con người, dã thú chẳng có giận hờn yêu hận nên chẳng thể bị tiếng đàn chi phối tâm tình. Nếu chỉ có tiếng sói tru chẳng hạn, Yến Long có thể mượn tiếng đàn mô phỏng tiếng hổ gầm để bầy sói biết sợ mà lui, nhưng cả ngàn con thú gầm rống ầm ĩ thế này, y chẳng làm sao dọa nổi chúng, ngược lại toàn bộ sức mạnh gửi vào tiếng đàn đều bị chúng làm loạn cả lên.
Chu Du như mở cờ trong bụng, vỗ tay reo, “Xi Vưu giỏi quá! Chiêu thế này mà hắn cũng nghĩ ra để phá giải Mị Hoặc Tâm Âm được. Ngươi lợi dụng tình cảm con người để tấn công thì ta tặng ngươi một bầy dã thú vô tình, xem ngươi làm sao nào?”
Khóe môi A Hành thấp thoáng nụ cười nhưng giọng điệu vẫn thản nhiên, “Thần lực của hắn không bằng Yến Long, đành phải giở mấy trò láu cá ấy thôi!” Nói rồi nàng liếc nhìn vào gương băng, “Hậu Thổ tìm thấy cửa ra rồi kìa!”
Thấy Hậu Thổ đắp đất toan phá trận, Chu Du vội kéo A Hành lùi lại, vừa kịp lúc tấm gương băng trước mặt hai người vỡ vụn, linh lực của Thiếu Hạo và Thanh Dương biến thành mưa tuyết lả tả đầy trời.
Cùng lúc đó, Xi Vưu nắm được sơ hở trong tiếng đàn của Yến Long, liền điều khiển cây cỏ trên sườn núi nhất loạt xoay tròn đâm thẳng về phía Yến Long, từng cọng cỏ đều mảnh như sợi tóc, cứng tựa kim châm, Âm Tập chi thuật của Yến Long lại không phù hợp đánh xáp lá cà, y chỉ có thể ôm đàn tránh trái né phải, tiếng đàn cũng loạn cả lên, quần áo trên mình bị cứa rách tơi tả.
Bấy giờ Xi Vưu mới rẽ đám dây leo nhảy ra, cười ha hả, “Sau Thiên Thảo châm còn có Vạn Diệp nhận, mời vương tử từ từ thưởng thức.” Lá vàng trong rừng tựa vô số rắn vàng từ bốn phương tám hướng bay vùn vụt về phía Yến Long, khiến tròng mắt y co rút lại vì hoảng hốt, mặt mày tái dại đi, cuống quýt ngã nhào xuống đất, lăn trái tránh phải.
Xi Vưu đứng trên tảng đá, cả người đầy máu, quần áo xốc xếch nhưng vẫn đầy vẻ kiêu ngạo tự đắc hệt như chim công xòe cánh, cười khẩy nói: “Thì ra Âm Tập chi thuật nổi tiếng khắp Thần tộc cũng chỉ đến thế, nói cái gì ‘không tổn hại mảy may mà nháy mắt hạ được thiên quân vạn mã’, chẳng qua là trò láu cá vặt, tránh tránh né né không dám giao đấu trực diện mà thôi. Lần sau dùng tới Tập Âm chi thuật, vương tử nhớ kêu một trăm thần tướng vây quanh bảo vệ để ngài thong thả tấu đàn nhé.”
Yến Long thân là vương tử Cao Tân, xưa nay chưa từng bị mai mỉa như thế bao giờ, y uất đến thiếu điều sặc tiết, thoáng cái, một chiếc lá đã xẹt qua cổ tay.
“Á!” Yến Long thét lên thảm thiết, máu bắn tung tóe, một bàn tay cùng cây đàn trong tay văng ra.
Xi Vưu cười nhạt toan gia tăng linh lực kết liễu Yến Long, đột nhiên hắn thoáng trông thấy bóng thiếu nữ áo xanh từ từ xuất hiện giữa cả trời lá úa, Lang điểu trắng muốt đậu trên vai, bên cạnh còn có một con hồ ly cao lớn đen tuyền.
Nữ tử thong thả dừng bước, chú hồ ly bên cạnh nàng liền hoan hỷ chạy thẳng về phía Xi Vưu. Thấy A Tệ sắp lao vào đám lá khô nhọn sắc như dao, Xi Vưu vội thu hồi linh lực, chỉ trong nháy mắt A Tệ đã xuyên qua một trời lá rơi lả tả, nhào vào lòng hắn, vừa vẫy đuôi mừng vừa cào cào vào áo hắn, trái dụi đầu phải nhảy nhót, kêu líu kíu vui sướng.
Xi Vưu ngồi xuống vuốt vuốt lưng A Tệ nhưng cặp mắt cứ dán chặt vào bóng A Hành đứng bên sườn núi, khẽ hỏi nhỏ A Tệ, “Sao cô ta lại tới đây? Chắc cũng vì Hà Đồ Lạc Thư hả?”
A Tệ chẳng hiểu cái gì là Hà Đồ Lạc Thư, chỉ mải nhảy cỡn lên vì lại được gặp Xi Vưu mà nó quý mến.
Bây giờ trận pháp đã bị phá, ảo ảnh thảy đều tan biến cả, Trung Dung bay trên không, trông thấy Yến Long bị trọng thương, vội gọi ầm lên: “Nhị ca, Nhị ca…” rồi cuống quýt bảo Huyền điểu đỗ xuống.
Thấy Yến Long cau rúm mặt lại vì đau, Trung Dung một tay đỡ y dậy, tay kia nhặt bàn tay đứt, nhảy lên lưng Huyền điểu bay về phía Đông chuồn thẳng.
Trước lúc đi khỏi, Yến Long còn cao giọng ném lại cho Xi Vưu một câu: “Mối thù hôm nay, ngày sau ta nhất định sẽ trả!”
Xi Vưu phá lên cười, coi như gió thoảng ngoài tai.
Sau khi phá được trận pháp, Chúc Dung và Hậu Thổ lập tức lẩn vào rừng, đứng ngoài quan sát Xi Vưu cùng Yến Long giao đấu. Tuy Chúc Dung căm ghét Xi Vưu nhưng hắn còn hận Yến Long hơn nhiều bởi lần trước Yến Long đã đánh bại hắn trước mặt bao người ở hội Bàn Đào, thấy Yến Long bị Xi Vưu đánh trọng thương, Chúc Dung hả hê cười phá lên: “Ta đã bảo mà, Âm Tập chi thuật của Yến Long để làm màu thì được, chứ dùng ứng chiến có ra gì, năm xưa nếu chẳng phải ta sơ ý bị hắn chớp thời cơ thì đời nào lại bại dưới tay hắn?”
Hậu Thổ cau mày, ánh mắt thoáng âu lo, “Trước đây chúng ta giết Hiên Viên Huy đã là đắc tội với Hiên Viên tộc, nay lại đánh Yến Long trọng thương, kết oán với Cao Tân tộc, cứ thế này Thần Nông tộc sẽ ngày càng bị cô lập.”
Chúc Dung lên giọng khiển trách: “Ngươi yếu đuối chẳng khác đàn bà, nên biết rằng giết một tên thì bớt được một tên, đây mới là cách tốt nhất để đối phó kẻ địch! Yến Long chỉ biết mượn tiếng đàn tấn công kẻ khác, nay hắn đã mất một bàn tay, còn gì đáng sợ? Bây giờ điều chúng ta phải suy nghĩ là làm sao giành được Hà Đồ Lạc Thư từ tay Xi Vưu.”
Thấy Hậu Thổ lặng thinh, Chúc Dung trừng mắt nhìn gã, nói tiếp: “Ngươi chớ quên rằng Xi Vưu là dã thú, bản tính khát máu, nếu hắn thấu triệt được Hà Đồ Lạc Thư, ngươi có biết hậu quả sẽ ra sao không? Ngươi tưởng hắn sẽ để yên cho tên đần độn Du Võng làm Viêm Đế mãi ư?”
Hậu Thổ cung kính cúi đầu, giấu đi biểu cảm trong đôi mắt.
Trông thấy nữ tử áo xanh đi về phía Xi Vưu, Chúc Dung không nhận ra A Hành dùng Trụ Nhan hoa thay đổi dung mạo, bèn quay sang hỏi Hậu Thổ: “Ả kia là ai thế nhỉ?”
Hậu Thổ lờ mờ đoán ra A Hành nhưng chẳng muốn nói, chỉ trả lời qua quýt: “Chắc là bằng hữu của Xi Vưu!”
“Bằng hữu ư? Không phải tình nhân của hắn đó chứ?” Chúc Dung cười gằn, “Chẳng phải kia chính là còn Lang điểu phóng hỏa đốt Chi Ấp lần trước hay sao? Hèn chi Viêm Đế dặn ta không được đả thương nó, hóa ra lại vì Xi Vưu!”
Hậu Thổ thản nhiên nói, “Trên đời có mấy vạn con Lang điểu lận, ngài quá đa nghi rồi.”
“Hừm!” Chúc Dung phất tay áo, trừng mắt căm hận nhìn Xi Vưu, “Chúng ta qua xem xem!” Nói rồi nhảy lên Tất Phương điểu bay đi.
Hậu Thổ khẽ thở dài, thân mình cũng hòa lẫn vào một mảnh núi rừng.
Vừa tới trước mặt Xi Vưu, A Hành đã thấy hắn cười giễu cợt: “Chẳng hay cô là vương cơ của Hiên Viên tộc hay vương tử phi của Cao Tân tộc đây?”
A Hành mỉm cười hỏi lại: “Là vương cơ thì sao, mà là vương tử phi thì sao?”
Xi Vưu trỏ lên trời, “Hà Đồ Lạc Thư đang ở trong bụng Tiêu Dao, nếu là Hiên Viên vương cơ, ta sẽ niệm tình giao hảo mà cho cô ta thêm mấy ngày để cô ta tìm cách trộm lấy Hà Đồ Lạc Thư, còn nếu là Cao Tân vương tử phi thì xin lỗi, ta không quen biết người này, đành lệnh cho Tiêu Dao lập tức đem Hà Đồ Lạc Thư về cho Du Võng thôi.”
Tiêu Dao chính là đại bàng tọa kỵ của Xi Vưu. Thấy đại bàng đen cả gan bay lòng vòng ngay trên đầu mình, Liệt Dương hậm hực ngẩng đầu nhìn đại bàng quang quác mấy tiếng cảnh cáo, nào ngờ bị đại bàng lờ tịt. Lần đầu tiên Liệt Dương thấy một con chim không tuân lời mình, liền nổi cơn thịnh nộ, toan xông lên dạy cho đối phương biết thế nào là lễ độ.
A Hành vội nhăn lại: “Liệt Dương, đó không phải đại bàng thường mà là giống đại bàng do cá côn ở Bắc Minh[3] biến thành đó. Rồng đứng đầu các loài thủy tộc, phượng hoàng là vua của muôn chim nhưng dưới nước nó chẳng quy thuận rồng, trên trời cũng không xem phượng hoàng vào đâu cả, mày đừng trêu vào.” Cá côn Bắc Minh là loài dị thú thần kỳ nhất trên đại hoang, sinh tại Bắc Minh, chôn ở Nam Minh, vốn là thân cá, thường gọi là côn nhưng vừa ra khỏi trứng đã có thể biến thành chim, lúc hóa chim gọi là đại bàng, vô cùng nhanh nhẹn, nghe nói giống đại bàng do cá côn biến thành mỗi lần vỗ cánh có thể bay vút lên cao chín vạn dặm.
[3] Theo thiên Tiêu Dao Du trong Nam Hoa kinh của Trang Tử: “Bắc Minh có loài cá, tục gọi là côn. Thân mình rất lớn, chẳng biết tới mấy ngàn dặm. Hóa thành chim, tên gọi là chim bằng (đại bàng). Giang cánh bay lượn, sải cánh rộng như mây che rợp một góc trời. Thường nương sóng to gió cả mà bay thẳng tới Nam Minh.”
Tuy chưa hoàn toàn là chim nhưng mỗi lần đập cánh nó có thể bay xa mấy ngàn dặm, Xi Vưu giao Hà Đồ Lạc Thư cho nó quả vô cùng sáng suốt, bất kể thần tiên hay yêu quái cũng không sao đuổi kịp.
A Hành quay sang Xi Vưu, thẳng thắn: “Ta là Hiên Viên vương cơ, Hiên Viên Bạt.”
Xi Vưu chăm chú nhìn nàng, “Dù mang ơn cứu mạng của cô, ta cũng chỉ có thể cho cô ba ngày thôi, sau ba ngày ta sẽ giao Hà Đồ Thư Lạc cho Du Võng.”
“Được!”
Xi Vưu huýt một tiếng lanh lảnh, lập tức đại bàng đậu xuống ngay bên cạnh. Hắn nhảy lên lưng đại bàng, chìa tay cho nàng: “Muốn Hà Đồ Lạc Thư thì theo ta.”
A Hành phân vân nhìn A Tệ và Liệt Dương, chưa biết phải làm sao với chúng. Xi Vưu liền nói: “Chúng không đuổi kịp Tiêu Dao đâu, cô cứ đi với ta, chúng sẽ đến sau.”
A Hành nắm lấy tay Xi Vưu, nhảy lên lưng Tiêu Dao.
Tiêu Dao chỉ đợi có thế, liền vỗ cánh bay vút lên chín tầng mây, A Hành đứng không vững, hơi loạng choạng ngã ngửa ra sau, vừa vặn ngã vào lòng Xi Vưu, hắn bèn thừa nước đục thả câu, vòng tay siết chặt lấy nàng mặc nàng vùng vẫy, cả người hắn lắc lư lảo đảo nhưng vẫn ôm riết chẳng chịu buông, còn ghé tai nàng nói nhỏ: “Tiêu Dao bay nhanh lắm, hiện giờ ta chỉ đủ sức miễn cưỡng khống chế nó thôi, hay là cô muốn cả hai rơi xuống tan xương nát thịt hả? À mà cũng hay đấy, sống chẳng được chung chăn, chết lại chôn chung huyệt.”
Thân hình Xi Vưu chao đi, suýt nữa rớt khỏi lưng Tiêu Dao, A Hành hoảng sợ thét lên, đành để yên không dám giãy dụa nữa.
Tiêu Dao bay vùn vụt như tên bắn khiến A Hành không kịp trông rõ gì hết, chỉ thấy trắng xóa một màu, mây mù cuộn lên như từng đợt sóng đổ ập tới, quất vào mặt bỏng rát.
Xi Vưu thích thú phá lên cười khanh khách, Tiêu Dao cũng điên chẳng kém gì chủ, nghe tiếng hắn cười, nó càng cao hứng bay nhanh hơn, rồi đột ngột bổ nhào xuống dưới, mắt thấy sắp tan xác tới nơi, bỗng dưng nó lại bay vút lên không, xẹt ngang qua đỉnh núi, chớp mắt đã lên đến chín tầng mây. A Hành vừa kịp thở phào đã lại thấy Tiêu Dao bất ngờ chao nghiêng người, nàng vội hốt hoảng bám chặt lấy Xi Vưu.
Nỗi sợ hãi ban đầu tan đi, dần dà, một cảm giác khác lại len vào lòng.
Trời cao lồng lộng, đường mây thênh thang, dường như thế gian chỉ còn hai người bọn họ, chẳng có bất kỳ thứ gì đuổi kịp được hai người, cũng không còn gì trói buộc nổi họ nữa, cả đất trời trải ra bát ngát cho họ thả sức ngao du.
Xi Vưu ghé tai nàng hỏi lớn: “Cô thấy thế nào?”
A Hành lặng yên không đáp, nhưng thân thể đang căng cứng từ từ thả lỏng ra, vô tình tựa vào lòng hắn, đến linh lực cũng tiêu tán, phó mặc tất cả sống chết vào tay Xi Vưu. Ít ra trong lúc này nàng cũng có thể dựa cả vào hắn, tạm thời vứt bỏ hết mọi trách nhiệm và ràng buộc.
Cảm thấy linh lực trên người A Hành cơ hồ đều tan biến hết, Xi Vưu thoáng kinh ngạc nhưng hắn chẳng buồn nghĩ thêm nữa, chỉ ôm chặt lấy nàng, cùng nàng thả sức ngao du giữa chín tầng mây, lúc vút lên cao, khi chao xuống thấp.
Bay mãi bay mãi, chẳng rõ đã qua bao lâu, đột nhiên Tiêu Dao lại lao vút xuống khiến A Hành Thấy như thể mình sắp ngã lộn cổ, lồng ngực nàng bị lên chặt cơ hồ nghẹt thở, hai người một đại bàng cứ thế vùn vụt lao xuống, lâu thật là lâu, đương lúc nàng ngỡ sẽ rơi thế này mãi mãi thì đà lao chợt dừng sững lại, may có linh lực của Xi Vưu, bằng không hẳn nàng đã bắn văng ra.
Xi Vưu khẽ nói: “Chúng ta về tới nhà rồi.”
A Hành sững sờ, từ từ mở mắt ra, thấy hoa đào nở rực cả triền núi, như mây như ráng, lộng lẫy đẹp tươi, mấy chái nhà trúc xanh biêng biếc thấp thoáng ẩn hiện sau những cội đào đỏ thắm.
Thì ra bay suốt bao lâu, họ cuối cùng đã đến Cửu Lê.
Xi Vưu chìa tay, Tiêu Dao liền nhả ra một quả trứng ngọc to xấp xỉ quả trứng gà rồi bay vút lên, biến mất giữa trời đêm, chẳng hề kêu một tiếng.
Hắn giơ quả trứng ra lắc lắc trước mặt nàng rồi lại bỏ vào trong áo: “Hà Đồ Lạc Thư cô muốn ở đây này.” Dứt lời hắn đi thẳng về phía thôn trại.
A Hành cắn môi, rảo bước đuổi theo hắn.
Tới bản Xi Vưu trời còn chưa sáng, bốn bề yên tĩnh, Xi Vưu ngả người nằm xuống tế đài, ngửa mặt nhìn trời.
A Hành ngồi xuống bên hắn: “Ngươi định làm gì trong ba ngày này?”
Xi Vưu đặt tay lên môi ra hiệu cho nàng đừng lên tiếng rồi yên lặng ngắm bầu không. Lát sau, hắn nhắm nghiền mắt lại, chìm vào giấc ngủ.
A Hành đành lẳng lặng ngồi bên hắn, thấy màn đêm ở Cửu Lê yên bình xiết bao, nhẹ nhõm xiết bao, chẳng bao lâu sau, mí mắt nàng cũng trĩu xuống. Mấy ngày nay nàng hết về dự hôn lễ của Tứ ca lại vội vội vàng vàng đi Ngu uyên đoạt Hà Đồ Lạc Thư, tinh thần luôn căng như dây đàn, chẳng khi nào được ngơi nghỉ, lúc này vừa thả lỏng, nàng liền thấy buồn ngủ díp cả mắt, bèn dựa vào tường ngủ thiếp đi.
Sáng sớm ra, đám người Vu sư thức dậy toan quét dọn tế đài thì phát hiện trên đó có người. Một nam tử vận hồng bào rách rưới nằm ngửa trên tế đài, tay chân giang ra thành hình chữ “đại”, tuy đang say ngủ nhưng vẫn không giấu được vẻ ngông cuồng, cách đó không xa còn một nữ tử áo xanh ngồi co ro dựa vào tường mà ngủ, nụ cười vương vấn trên môi.
Đại vu sư vội vã chạy đi gọi Vu vương. Vu vương chống gậy tới nơi, trông thấy bèn cười móm mém xua tay ra hiệu mọi người lẳng lặng lui ra.
Ngủ một giấc dài thật dài, tỉnh dậy A Hành mới nhận ra mình đang đắp một tấm thảm lông thú, còn Xi Vưu đã mất dạng. Nàng vội bật dậy gọi toáng lên: “Xi Vưu!”
Liền nghe giọng hắn uể oải: “Gọi gì thế?”
A Hành ngó đầu ra, trông thấy Xi Vưu đang ngồi dưới cội đào sưởi nắng cùng Vu vương. Hắn cởi trần, bên dưới chỉ quấn một chiếc khố đen dài đến bắp chân, để lộ ra làn da nâu rám nắng khỏe khoắn.
A Hành vừa bước xuống tế đài vừa ngẩng đầu nhìn trời, thấy vầng dương đã ngả về Tây, nàng không khỏi cau mày tự trách mình ngủ say như chết.
Xi Vưu vươn vai, cố ý đãi giọng nói: “Ai da, sắp hết một ngày rồi mà còn chưa biết Hà Đồ Lạc Thư giấu ở đâu nữa!”
A Hành càng trông hắn càng ngứa mắt liền đá lật nhào cái ghế hắn đang ngồi khiến hắn ngã lăn ra đất, đá xong mới sực nhớ ra Xi Vưu là vị thần được cả Cửu Lê tôn kính, làm vậy trước mặt Vu vương chẳng khác nào sỉ nhục cả Cửu Lê, bèn quay sang cười lỏn lẻn với vị Độc vương mà Thần tộc cũng phải nhường nhịn ba phần.
Vu vương thấy vậy chỉ cười khà, khom lưng đứng dậy nói với Xi Vưu đang nằm bò dưới đất: “Hai vị khéo đến quá, tối nay là tết Khiêu Hoa của Cửu Lê, hai vị nhớ tới xem náo nhiệt nhé.”
Đợi Vu vương đi khỏi, A Hành liền ngồi ngay vào chiếc ghế bập bênh của lão, vừa lắc lư vừa ngắm Xi Vưu, thầm nghĩ không biết hắn giấu Hà Đồ Lạc Thư ở chỗ nào.
Xi Vưu bật dậy vọt lại ngồi xuống ghế bập bênh, thấy A Hành chăm chú nhìn mình, ánh mắt hắn thoáng vẻ lạnh lùng, như cười mà chẳng cười nói: “Nếu cô muốn biết thì lại đây mà sờ, sờ khắp cả người ta là biết ngay!”
“Phì!” A Hành đỏ mặt lườm hắn rồi quay ngoắt đi.
Ánh mặt trời rọi qua tán lá, ấm áp mà không chói gắt khiến thân thể thư thái vô cùng, cơ hồ xương cốt đều tan chảy ra cả.
Một bên tế đài là núi lửa điệp trùng, bên kia lại là vách non dựng đứng, trên vách nở đầy hoa dại, rực rỡ như gấm lụa, ngọn thác từ đỉnh tuôn ra tựa dải lụa trắng phất phơ rào rào đổ xuống những tảng đá bên dưới, khiến hơi nước bốc lên mịt mù. Ánh mặt trời rọi qua tạo thành nửa dải cầu vồng lấp lánh thấp thoáng sau bức màn hơi nước, nghiêng nghiêng vắt ngang tế đài trắng muốt, bắc lên tận trời.
Nước từ thác đổ xuống chảy vào hồ, men theo con lạch trắng phau đá cuội, lượn vòng quanh tế đài, trên mặt nước lác đác mấy cánh hoa, thi thoảng còn thấy vài chú cá mải vờn nhị hoa nhảy vọt lên rồi lại quẫy đuôi rơi tõm xuống nước, làm bắn tung tóe vô vàn bọt nước lấp loáng ánh bạc.
A Hành ngây người ra nhìn, bất giác quên bẵng cả Hà Đồ Lạc Thư, đến nỗi cánh đào rơi đầy đầu tóc cũng chẳng hay.
Xi Vưu nghiêng đầu ngắm nàng, vẻ mặt lạnh lùng trong mắt tan dần, thay vào đó là vô vàn âu yếm.
Một người ngây ra ngắm cảnh sắc thiên nhiên biến ảo, một kẻ đắm đuối ngắm người kia, hai người cứ thế tạo nên một bức tranh phong cảnh u nhã mà êm đềm.
Mãi tới khi mặt trời xuống núi, chim mỏi về rừng, thấy một đàn chim bay ngang đầu, A Hành mới sực nhớ ra mục đích của chuyến đi này.
Ánh mắt nàng chợt tối sầm, môi mím chặt, cả gương mặt toát lên vẻ kiên định, thấy vậy, cặp mắt Xi Vưu cũng trở nên lạnh buốt, hắn quay ngoắt đi trước khi nàng kịp ngoảnh lại.
A Hành quay lại trông thấy Xi Vưu đang cười ngạo nghễ, phóng mắt ngắm nhìn rừng đào tít tắp trên sườn núi.
Vừa lúc đó Vu nương sai người tới mời bọn họ dùng bữa, Xi Vưu liền đứng dậy đi thẳng, buông thõng một câu, “Tối nay ta đi chơi tết Khiêu Hoa, nếu còn nhớ mình từng hứa những gì thì cô cứ tới xem.”
A Hành ngồi lặng trên ghế bập bênh không đáp, chỉ ngẩng đầu nhìn hoa đào rợp rợp trên đầu.
Chính ngày này năm xưa, trong lúc nàng cần Xi Vưu nhất, chẳng nề đánh lén Đại ca, trốn khỏi Triêu Vân phong để đợi hắn suốt đêm dưới cội đào thì hắn lại lỡ hẹn không tới. Nếu hôm đó hắn tới đúng hẹn, chẳng rõ hiện giờ bọn họ sẽ ra sao? Cũng ngày này năm ngoái, nàng nhọc công tính toán suốt một năm mới lấy cớ dạy dân chăn tằm dệt lụa để xin Tuấn Đế xuất cung lẻn tới Cửu Lê, đợi Xi Vưu đến nửa đêm, nhưng chỉ đợi được một manh áo đỏ đứt tình đoạn nghĩa.
Năm nay ngày này lại đến, nhưng nàng chẳng rõ mình có còn dũng khí tin vào lời thề ước dưới cội hoa đào không gặp không về nữa hay chăng?
Như thường lệ, tết Khiêu Hoa chẳng có tế đài, chẳng cần Vu sư, cũng chẳng thấy vật tế, chỉ có từng đống lửa bập bùng cùng muôn ngàn đóa hoa nở khắp núi rừng, vô số đôi nam nữ ngồi bên đống lửa, dưới bóng hoa hát ca nhảy múa.
Nghe kể rằng mấy vạn năm trước, nam nữ các tộc có thể gặp gỡ hẹn hò nhau vào một ngày nhất định rồi tự ước hẹn hôn nhân, nhưng theo thời gian, tập tục này dần dần mai một chỉ còn Cửu Lê tộc vẫn theo lệ cũ, nam nữ yêu nhau không cần xin phép mẹ cha, cũng chẳng cần mối mai làm chứng, miễn là chàng có lòng em có ý thì có thể lập tức kết thành đôi.
Ánh sao ác quá đi thôi
Dụ em vào tận rừng chơi mới kỳ
Móc chân em ngã chúi đi
Đất gồ hay phẳng anh thì biết đâu
Nghe thiếu nữ mau mồm mau miệng tường thuật chuyện bực mình hôm qua, mọi người đều cười rộ, bao ánh mắt giễu cợt đổ dồn về phía tình lang của cô nàng khiến chàng ta cuống cả lên, vò đầu bứt tai nghĩ cách đối đáp lại.
Nghe lời hát A Hành vừa ngượng vừa tức cười, không nhịn được, phá lên cùng mọi người. Nàng bưng ống trúc sóng sánh Ca tửu, vừa nghe hát vừa nhắp từng ngụm nhỏ.
Tiếng hát véo von cứ dập dờn, bên đối bên đáp, đôi ba cô gái đánh đố người yêu đã thỏa lòng, bèn nhận lấy đóa hoa đào chàng tặng, cài lên mái tóc. Dân chúng đại hoang coi hoa đào là biểu tượng của tình yêu nam nữ có lẽ bắt nguồn từ tập tục cổ này đây.
A Hành gỡ Trụ Nhan hoa trên tóc xuống, Trụ Nhan hoa vốn là một đóa hoa đào đỏ thắm yêu kiều, cũng là đóa hoa đào đẹp nhất trong sơn cốc. Ngắm Trụ Nhan hoa, nàng chợt nghĩ có khi nào năm đó Xi Vưu tặng nàng Trụ Nhan hoa chỉ vì thấy đó là một đóa hoa đào mỹ lệ, chứ không phải bởi nó là thần khí?
A Hành lặng ngắm Trụ Nhan hoa, lòng muôn mối tơ vò.
Đột nhiên, trong sơn cốc vút lên một tiếng ca hào sảng mà phóng khoáng, ngạo nghễ mà bộc trực, át hẳn những giọng ca khác, tựa hồ mãnh hổ hạ sơn, đầy mạnh mẽ hoang dại, lại như thông reo đỉnh núi, chân thành tha thiết, dằng dặc bi thương, dịu dàng gọi tùng bách đi xa mau trở lại.
A ối à ối a
Mắt ta mình cứ khoét ra
Để cho máu thấm đầy tà áo xanh
Ví bằng lọt được mắt mình
Máu như hoa rải đầy cành cũng cam…
A ối a ối à
Tim ta mình cứ móc ra
Để đồng hoang thắm máu ta chan hòa
Ví lòng mình có bóng ta
Cam lòng tưới máu như hoa khắp đồi…
Nghe tiếng ca sang sảng, mọi người đều ngừng ca múa, nhìn quanh tìm kiếm người hát.
Nguồn ebook: http://www.luv-ebook.com
Xi Vưu vừa hát vừa bước lại khiến đám thiếu nữ Cửu Lê tộc ngỡ ngàng trước gã trai lạ mặt, thân hình rắn rỏi hơn cây thanh giang trên vách núi, ánh mắt sắc bén hơn chim ưng sải cánh giữa bầu không, khí thế oai nghiêm hơn ngọn núi cao nhất Cửu Lê, giọng ca tha thiết hơn dòng nước sâu nhất Cửu Lê.
A ối a ối à
Tim ta mình cứ móc ra
Để đồng hoang thắm máu ta chan hòa
Ví lòng mình có bóng ta
Cam lòng tưới máu như hoa khắp đồi…
Bóng áo đỏ của hắn băng qua đám người đông nghịt, bước tới trước mặt A Hành. Chiếc áo hắn mặc trên mình là chính tay nàng dệt tặng hắn. Cuối cùng hắn vẫn đến dưới cội hoa đào chứ không nỡ vứt bỏ manh áo ấy, nghĩ vậy, nỗi oán giận trong nàng lại vơi đi, thay vào đó là cảm giác ngọt ngào thấm ra từ tận đáy lòng.
Giọng ca của hắn dần trầm xuống, cứ hát đi hát lại:
A ối à ối a
Mắt ta mình cứ khoét ra
Để cho máu thấm đầy tà áo xanh
Ví bằng lọt được mắt mình
Máu như hoa rải đầy cành cũng cam…
A ối a ối à
Tim ta mình cứ móc ra
Để đồng hoang thắm máu ta chan hòa
Ví lòng mình có bóng ta
Cam lòng tưới máu như hoa khắp đồi…
Ánh mắt Xi Vưu tràn ngập nỗi khổ tương tư cầu mà chẳng được, không biết tỏ cùng ai, chỉ có thể gửi gắm vào tiếng ca, lặp đi lặp lại cho vơi bớt nỗi lòng.
Xi Vưu cầm lấy Trụ Nhan hoa trong tay A Hành, biến thành một chiếc vương miện hoa đào, hai tay dâng đến trước mặt nàng như dâng vương miện, “Cái này không phải là vương miện nhưng nếu cô muốn có vương miện, ta sẽ tặng cô một chiếc, nhất định không kém cái Thiếu Hạo có thể tặng cô.”
A Hàng rơm rớm nước mắt, Mễ Đóa giật giật áo nàng, nhắc nhỏ: “Nhận đi, nhận lấy đi.”
Mễ Đóa giục giã, A Hành chỉ đứng dậy cúi đầu, vòng qua người Xi Vưu đi thẳng.
Vẻ nồng nhiệt trong mắt Xi Vưu dần lụi tắt, toan vứt vương miện hoa đi, chợt nghe thấy sau lưng vang lên tiếng ca rất khẽ.
Cây cao ngất ngưởng giữa non xanh
Vấn vít dây mây quấn quýt cành
Cây níu chặt mây, mây quấn quýt
Khăng khăng khít khít giữ vẹn tình…
Xi Vưu ngỡ ngàng ngoảnh lại, trông thấy A Hành đứng bên đống lửa, hai má đỏ hồng, cất tiếng hát khe khẽ đến cơ hồ nghe không rõ, nhưng nàng quả thật đang học theo phong tục Cửu Lê, mượn khúc sơn ca giãi bày tình ý với Xi Vưu trước mặt mọi người.
Chiều chiếu sớm sớm mãi bên nhau
Tháng tháng năm năm đến bạc đầu
Cây chết mây còn, còn quấn quýt
Cây còn mây chết, chẳng rời nhau…
Gió táp mưa sa sá gì đâu
Sống chết bên nhau đến bạc đầu
Mây còn cây chết còn quấn quýt
Mây chết cây còn há lìa nhau?
Xi Vưu nhìn A Hành, ánh mắt phức tạp.
Tám năm trước họ đã ước hẹn cùng nhau, hàng năm mỗi khi hoa đào nở rộ lại gặp gỡ dưới cội đào. Mỗi lần gặp, hắn hết năn nỉ lại dỗ dành rồi lừa gạt nàng hát tặng mình một khúc tình ca, nhưng lần nào lần nấy nàng đều ngượng ngùng chối đây đẩy, còn mắng yêu hắn gian manh, bởi theo phong tục dân gian ở Cửu Lê, chàng trai hát tình ca để mời gọi bạn tình, nếu cô gái cất tiếng hát đáp lại cũng có nghĩa là bằng lòng vui vầy cùng anh ta.
Trước giờ A Hành chưa từng hát tình ca tặng hắn vậy mà năm nay, trước mắt mọi người, nàng lại cất giọng hát khúc ca cho một mình hắn.
Kim Đan liền đẩy Xi Vưu, “Kìa tiểu huynh đệ, sao cậu cứ đứng ngây ra thế?”
Bấy giờ Xi Vưu mới như sực tỉnh, vội bước tới trước mặt A Hành, toan đặt vương miện hoa lên đầu nàng, nào ngờ A Hành nghiêng đầu né tránh, “Ta không cần vương miện, chỉ cần đóa hoa đào tượng trưng cho tấm lòng của ngươi là đủ.”
Lập tức hắn biến miện hoa trở lại thành Trụ Nhan hoa gài lên tóc nàng.
Mọi người ở đó không quen biết Xi Vưu, nhưng nhận ra thiếu nữ đang thẹn thùng kia chính là Vu nữ Tây Lăng Hành từng chữa trị cho vô số người ở đây, thấy Vu nữ mà bọn họ tôn kính tìm được ý trung nhân, ai nấy đều mừng rỡ hoan hô.
Xi Vưu nắm tay A Hành hỏi nhỏ, như thể vẫn còn chưa dám tin: “A Hành, cô bằng lòng thật ư?”
A Hành nắm lấy tay hắn, siết chặt.
Mấy gã thiếu niên vẫn theo Vu sư học việc cứ chòng chọc quan sát Xi Vưu rồi xì xào to nhỏ, đùn đẩy nhau mãi mới thấy một tên cả gan cao giọng hỏi Xi Vưu: “Này! Ngươi là ai mà to gan thế, dám ve vãn Tây Lăng Vu nữ của bọn ta? Ngươi có biết đây là tết Khiêu Hoa của Cửu Lê tộc không? Người ngoài muốn tham gia phải có Vu vương đồng ý mới được.”
Xi Vưu cười sảng khoái: “Ta tên Xi Vưu, hơn năm trăm năm trước từng sống trong núi Cửu Lê, đương nhiên có tư cách tham dự tết Khiêu Hoa của Cửu Lê rồi.”
Nghe hắn nói, hết thảy người ở đó đều kinh hoàng ngẩn người ra, gã thiếu niên vừa hỏi run rẩy quỳ sụp xuống, lập tức mọi người cũng lục tục quỳ theo, dập đầu với Xi Vưu.
Xi Vưu lắc đầu quay sang bảo A Hành: “Có biết cũng chẳng làm gì, thôi, mình đi đi!”
Đoạn hắn dắt tay nàng thong dong đi khỏi, thoắt chốc, mọi người ngẩng đầu lên đã thấy khuất bóng hai người.
Nước chảy róc rách, gió thổi hiu hiu. Bầu không tĩnh lặng lấp lánh muôn ngàn vì sao, tựa như đôi mắt người tình long lanh bao điều muốn nói.
A Hành ngồi trên nhà sàn giữa rừng đào, ngẩng đầu ngắm sao trời.
Xi Vưu bưng mấy vò Ca tửu từ trong nhà ra, đưa ống hút cho A Hành, nàng thuận tay nhận lấy uống liền một mạch nửa vò, bắt đầu ngà ngà say.
Xi Vưu ngồi xuống bên cạnh, quàng tay ôm eo A Hành, đoạn tranh lấy ống hút, hớp một ngụm rượu, quay sang mớm vào miệng nàng.
A Hành cười ngượng nghịu tránh né nhưng tránh không khỏi, đành mặc cho bờ môi nóng rãy của hắn in lên môi mình, nhận lấy ngụm rượu hắn mớm. Khác hẳn vẻ ranh mãnh từng trải hàng ngày, lúc này đây tay chân Xi Vưu hết sức lóng ngóng vụng về, càng thể hiện tấm tình chân thành say đắm của hắn.
Niềm khao khát bao năm nay mới trở thành hiện thực, Xi Vưu chỉ nghe thấy tiếng tim đập thình thịch, chẳng rõ là tim mình hay tim A Hành.
Tâm trạng Xi Vưu lên xuống như thủy triều, khi thì ngùn ngụt dục vọng, con dã thú bên trong lồng lộn muốn xông ra, chỉ hận chưa được tan ngay vào thân thể A Hành, lúc lại bình tĩnh mở to mắt nhìn nàng, từ đáy lòng vang lên một giọng nói buồn bực, giận dữ. Cùng với sự biến đổi đó, hắn lúc thì ngấu nghiến hôn nàng, khi lại chần chừ lưỡng lự. Trong khi đó, A Hành vẫn chủ động ôm chặt lấy hắn, nhẹ nhành hôn hắn, thổi bùng ngọn lửa dục vọng của hắn.
Toàn thân Xi Vưu nóng như lửa đốt, luôn miệng thì thầm gọi tên nàng: “A Hành, A Hành, A Hành… nàng bằng lòng thật chứ?”
A Hành không đáp, chỉ cầm tay hắn cởi dây lưng của mình, vạt áo lụa vừa hé ra đã thấy thấp thoáng trong ngọc trắng ngà, con dã thú bên trong Xi Vưu lập tức gầm rú xông ra, đè nghiến nàng xuống.
Xi Vưu vừa ngấu nghiến hôn nàng, vừa giật phăng quần nàng xuống, A Hành không ngừng thì thào tên hắn, “Xi Vưu, Xi Vưu, Xi Vưu…”, những tiếng gọi như ngọn roi của người dạy thú, khơi dậy nhu tình trong lòng Xi Vưu khiến hắn chợt e ngại làm đau nàng, động tác cũng dần dần dịu dàng hơn.
Đóa Trụ Nhan hoa cài trên đầu A Hành cũng bị những luồng linh lực đan xen mà hai người vô tình phóng thích tác động, nở bung ra vô số cánh đào đỏ thắm, phủ ngợp đất trời bằng một trận mưa hoa.
Muôn ngàn cánh đào lả tả trút xuống như mưa, dưới ánh trăng, giữa đám trúc phượng vĩ, trên lan can, hai con người quấn quýt lấy nhau, môi kề má áp, uyển chuyển triền miên.
Những ve vuốt dịu dàng của Xi Vưu tựa ngọn gió xuân tháng Ba hây hẩy lướt qua mình A Hành, mà tấm thân nàng là một đóa hoa bừng nở đón gió, nhưng khi tiến được vào trong nàng, hắn lại càng lúc càng mạnh mẽ, như biển lửa rít gào, như cuồng phong bạo vũ cuốn nàng theo, mỗi lúc A Hành ngỡ rằng sóng đã yên biển đã lặng thì ngay sau đó, một cơn sóng mới lại dấy lên, dấy lên, nhấn chìm nàng. Ý thức của nàng cũng bị cuốn theo từng cơn sóng dữ, cơn sau cao hơn cơn trước, đợt khoái cảm này vừa trào tuôn thì đợt khác lại ập tới, khiến nàng cũng kinh ngạc, chẳng hiểu sao thân thể mình có thể sản sinh ra nhiều khoái cảm đến vậy.
Theo từng cơn sướng khoái, ý thức nàng cũng càng lúc càng bâng khuâng mơ hồ, như bay bổng lên chín tầng mây rồi đột ngột bùng nổ khiến nàng không kìm được tiếng rít, cả người run lên bần bật trước niềm hoan lạc cực cùng.
Xi Vưu ôm chặt lấy nàng, vừa hôn vừa hỏi khẽ: “Thích không?”
A Hành lả người đi, nói chẳng nên lời, chỉ nhoẻn cười hạnh phúc.
Từ trong khe núi nghe văng vẳng tiếng ca vọng lại.
“Chàng là cây lớn đỉnh non, em dây mây vấn vít sườn núi xanh. Chàng cao em thấp vẫn tình, níu chân quấn quýt quanh chàng chàng ơi, chừng nào chàng mệt rã rời, thời em đây mới buông lơi cho chàng…”
Má kề má môi kề môi, ngón tay Xi Vưu vân vê nghịch mấy sợi tóc của nàng, chợt nghe tiếng ca, hắn khẽ bật cười, nụ cười đượm đầy mệt mỏi sau cơn ái ân hoan lạc, khác hẳn vẻ sắc sảo ngạo mạn hôm qua.
A Hành đỏ bừng mặt, “Chàng cười gì thế?”
“Nàng xấu hổ chuyện gì thì ta cười chuyện ấy.” Hắn đan tay vào tay nàng, nhắc lại rành rọt từng chữ: “Cây chết mây còn, còn quấn quýt. Cây còn mây chết chẳng rời nhau!”
A Hành siết chặt tay hắn, “Thật ra ta và Thiếu Hạo không phải như người ta đồn đại đâu, ta và y chỉ vờ làm bộ ân ái để che mắt phụ vương ta và Tuấn Đế thôi, y đã ứng thuận một ngày nào đó sẽ cho ta tự do rời khỏi…”
“Hừ!” Vừa nghe đến tên Thiếu Hạo, Xi Vưu đã thấy bực mình, cơn giận thường thấy ở những con đực khi sống chết quyết đấu để giữ con cái lại cho riêng mình chợt bùng lên, hắn đặt tay lên môi A Hành ngăn nàng nói tiếp, “Ba ngày này chỉ thuộc về riêng hai ta thôi, đừng nhắc tới chuyện khác nữa. Tết Khiêu Hoa sang năm, ta sẽ đợi nàng dưới cội hoa đào, nếu nàng tới gặp mặt, chúng ta sẽ bàn tính tới bước đường sau này nhé.”
A Hành gật đầu cười.
Xi Vưu hôn lên môi nàng, mặc cho cơn mưa hoa lại bắt đầu lả tả đổ xuống.
Sáng hôm sau A Hành tỉnh dậy đã chẳng còn thấy Xi Vưu bên cạnh, hồi tưởng lại cảnh tượng đêm qua, nàng vội trùm chăn kín đầu để giấu nỗi thẹn thùng, nhưng lại không khỏi nhoẻn cười ngượng nghịu. Thì ra nam nữ ái ân lại khoái lạc thích thú đến nhường ấy.
Đương lúc vừa hạnh phúc vừa ngượng ngùng, nàng chợt nghe thấy bên ngoài vang lên tràng cười rộn rã, vội mặc quần áo bước ra lan can, thấy A Tệ và Liệt Dương đã tới tự lúc nào, đang nô giỡn với Xi Vưu giữa hồ, ngay dưới thác nước.
A Tệ lúc dùng móng cào lúc lấy cánh đập Xi Vưu làm bọt nước bắn tung tóe, còn Liệt Dương bay vòng vòng trên không, vừa bay vừa khạc ra lửa thiêu đốt Xi Vưu, vậy mà hắn vẫn nhanh nhẹn tránh thoát, khiến lửa của Liệt Dương không rơi xuống nước thì lại táp phải A Tệ làm A Tệ luôn miệng rít lên ngụp xuống hồ, chỉ còn chiếc đuôi bông xù mượt như nhung ve qua vẩy lại trên mặt nước.
A Hành ngồi trên lan can vừa chải tóc vừa tươi cười xem cả ba đánh lộn.
Xi Vưu ngẩng lên gọi nàng: “Xuống ăn cơm đi, ăn xong mình sẽ vào núi chơi. Hôm qua chúng ta cùng Tiêu Dao đi trước làm hai bạn nhỏ này giận, hôm nay ta phải nhận lời dắt chúng vào núi chơi, chúng mới chịu làm lành với ta đó.”
Xi Vưu làm cơm rất ngon, đặc biệt là món thịt nướng thơm nức mũi, ngon đến nỗi A Tệ liên tục vẫy đuôi với hắn.
Ăn cơm xong, hai người dắt theo A Tệ và Liệt Dương vào núi chơi.
Thoạt đầu lúc mới khởi hành, A Tệ còn quấn quýt quanh A Hành, nhưng vừa trông thấy mấy cánh bướm rực rỡ đủ màu, nó lập tức bỏ nàng lại phía sau, tung tăng chạy khắp nơi vồ bướm. Sáng nay Liệt Dương cũng vừa được Xi Vưu chỉ dạy, lại khống chế được phượng hoàng nội đan linh hoạt hơn nên chỉ nhăm nhe thử nghiệm xem sao, bèn tập phun lửa về phía mặt hồ, nhân đó, Xi Vưu với A Hành mới dành được chút tĩnh tại bên nhau.
Xi Vưu nằm dài xuống thảm cỏ, đầu gối lên hai tay, miệng ngậm cọng cỏ, ngửa mặt nhìn trời đầy khoan khoái, A Hành ngồi bên cạnh hắn, dõi mắt nhìn theo A Tệ đang tung tăng giữa những lùm cây.
“A Hành!”
“Hở?”
“Có thật là cây chết mây còn còn quấn quýt, cây còn mây chết chẳng rời nhau không?”
A Hành đăm đăm nhìn hắn không đáp, chỉ gật gật đầu, cặp mắt trong veo chẳng gợn chút tạp niệm, hệt như mặt hồ mỹ lệ nhất giữa rừng núi Cửu Lê.
Xi Vưu rút Hà Đồ Lạc Thư ra, “Cái này nàng định thế nào đây?”
A Hành nghiêng đầu ngẫm nghĩ, “Phụ vương một lòng muốn đoạt Hà Đồ Lạc Thư nên ta nhất định phải dâng lên. Có điều nếu chàng giao nó cho ta, chỉ e bọn Chúc Dung chẳng chịu tin đâu, chúng sẽ cho rằng chàng một mình nuốt trọn đó.”
“Ta hơi đâu mà quan tâm bọn chúng nghĩ gì.”
“Lẽ nào các huynh đệ mình nghĩ gì chàng cũng không màng được ư, nghe nói hiện giờ chàng có rất nhiều huynh đệ tốt kia mà?”
Nét mặt Xi Vưu chợt phấn chấn hẳn lên, “Bọn họ đều là những dũng sĩ chân chính.”
A Hành đề nghị: “Chúng ta chia trứng ngọc ra làm hai phần, như vậy ai cũng đoạt được Hà Đồ Lạc Thư, mà ai cũng không đoạt được, ta có cái để dâng lên phụ vương, mà chàng cũng dễ bề ăn nói với Thần Nông.”
“Hay lắm!” Xi Vưu liền gọi Liệt Dương lại, “Lại đây, ta kiểm tra xem Phượng Hoàng huyền hỏa của mày đã vận dụng thành thục chưa. Mày điều khiển cho ngọn lửa mảnh hơn sợi tơ tằm rồi từ từ xẻ đôi quả trứng này ra xem.”
Liệt Dương quác lên một tiếng đầy tự phụ rồi phun ra một sợi lửa nóng rãy, mảnh hơn cả tơ tằm.
Vừa nghe mấy tiếng xì xì, thượng cổ chí bảo Hà Đồ Lạc Thư đã bị xẻ làm hai nửa. Xi Vưu đưa một nửa cho A Hành còn nửa kia nhét vào túi ngầm giấu trong giày, “Đôi giày này thoạt nhìn giản dị nhưng lại do Vu vương dày công thiết kế, nếu đụng vào mà không biết bí mật bên trong sẽ khởi động bộ phận chứa chất độc đấy.”
A Hành nín cười quan sát đôi giày, “Chàng rõ ràng là lắm mưu ma chước quỷ!”
“Thuở nhỏ ta lớn lên giữa bầy dã thú, điều đầu tiên phải học chính là làm sao cất giấu thức ăn, nếu cất không kỹ thì thức ăn mình vất vả săn được sẽ bị những con lớn hơn đoạt mất, dốc sức săn mồi mà không được ăn, rất có thể sẽ chẳng còn cơ hội bắt được con mồi nào khác nữa, sau cùng lại biến thành thức ăn cho kẻ khác.” Xi Vưu chăm chú nhìn nàng, nghiêm trang nói, “Dã thú muốn sống sót không thể chỉ dựa vào sức mạnh, mà xảo trá, nhạy bén, đa nghi, hung tàn đều phải có, không được thiếu thứ gì.”
Nhớ về thời thơ ấu hạnh phúc của mình, lại liên tưởng tới Xi Vưu, A Hành chợt thấy xót xa vô hạn, bèn nắm chặt tay hắn, “Từ nay về sau, hai ta sẽ sánh vai chiến đấu, khi nào chàng mệt mỏi muốn nghỉ ngơi, ta sẽ trông giữ thức ăn cho chàng.”
Xi Vưu đăm đăm nhìn A Hành, vừa cười vui vẻ, vừa siết chặt tay nàng, đoạn từ từ ngả người lại định hôn nàng, nhưng vừa chạm môi vào môi nàng, đột nhiên A Tệ nhảy phốc vào giữa hai bọn họ, quấn quýt lấy A Hành, cọ cọ vào người nàng, cũng cọ luôn bao nhiêu vết bẩn trên mình vào người nàng rồi nằm lăn xuống phơi bụng ra, huơ huơ móng vuốt, tỏ ý làm nũng đòi nàng gãi ngứa.
Xi Vưu vừa tức cười vừa bực bèn cốc cho A Tệ một cái, A Tệ nghiêng đầu ngơ ngác nhìn hắn, vẫn chưa hiểu vì sao Xi Vưu đột nhiên tức tối đánh mình, cặp mắt hồ ly long lanh tròn xoe, đáng thương hết sức.
Liệt Dương hiểu chuyện, cứ ngoác mỏ ra cười quang quác, cười lộn cổ từ trên cây xuống đất, lại lăn ra đất tiếp tục cười, vừa cười vừa khép hai cánh lại với nhau, làm điệu bộ hai người thân mật giảng giải cho A Tệ.
Hở?
A Tệ hết nghiêng đầu sang phải lại nghiêng sang trái, mãi vẫn chưa hiểu ý Liệt Dương.
Chỉ có A Hành thẹn quá hóa giận, quay lại bảo Xi Vưu: “Thay ta dạy con chim thối tha kia một bài học đi.”
Nghe vậy Liệt Dương vội chuồn thẳng, trước khi chuồn còn không quên ngoảnh về phía Xi Vưu và A Hành khạc lửa, một lùm cây đuổi theo sát sau lưng khiến nó phải nhảy vọt lên tránh trái né phải, càng trốn càng xa, chỉ thấy mấy cọng lông trắng bị xiến đứt rơi lả tả, lùm cây vẫn bám sát phía sau, không chịu buông tha.
Thấy Liệt Dương bị lùm cây đuổi sát sau lưng, A Tệ thích thú bay vút lên, đuổi theo lùm cây.
A Hành thở phào nhẹ nhõm, “Cuối cùng cũng được yên tĩnh rồi!”
Xi Vưu tiếp lời: “Cuối cùng cũng được yên tĩnh rồi, chúng ta có thể…” Xi Vưu hướng hai ngón cái về phía nhau máy máy, rồi nháy mắt với A Hành.
“Chàng học theo con chim thối tha kia làm gì? Kệ chàng đấy.” A Hành vừa mắng vừa bật dậy chạy vụt lên sườn núi.
Xi Vưu cười khanh khách đuổi theo nàng, kẻ chạy người đuổi, dần dà hắn bắt kịp nàng, liền nhào tới ôm chầm lấy A Hành vào lòng, cúi đầu hôn lên môi nàng.
A Tệ từ trên trời nhìn xuống lại ngỡ hai người đang chơi đùa gì đó, vội kêu líu kíu vui vẻ lao tới, mặc kệ lùm cây đuổi đánh Liệt Dương, nó níu cả bốn chân lên người Xi Vưu, đẩy hai người ngã vật ra, cả ba quấn lấy nhau lăn tròn trên cỏ.
Liệt Dương chẳng chịu thua thiệt, cũng nhào trở lại.
Thoát chốc, dưới vòm trời cao xanh đã rộn lên tiếng chim quang quác, hồ ly líu kíu cùng giọng A Hành cười khanh khách và Xi Vưu chửi ông ổng