Ký Linh mơ một giấc mơ.
Trong mơ, nàng trở về Linh Sơn ở hồi nhỏ, theo Thanh Đạo Tử tu tập võ nghệ. Từng chiêu từng thức Thanh Đạo Tử dạy, từng nụ cười, từng cái nhíu mày đều giống y như năm xưa, trong mơ nàng thực nghĩ rằng bản thân vẫn là đứa bé gái bảy, tám tuổi.
Sau đó không biết tại sao, cảnh mơ bỗng trở nên lộn xộn, lúc thì nàng ngồi chơi cờ với Thanh Đạo Tử, lúc thì nàng và Thanh Đạo Tử thi vẽ, lúc lại là nàng thắp hương cho Thanh Đạo Tử đã về cõi tiên. Những cảnh ở chung với sư phụ bị ngắt thành những khúc nhỏ lộn xộn trút hết vào trong mơ.
Sau cùng, giữa những cảnh hồi ức trở đi trở lại, nàng nghe thấy mình hỏi bằng chất giọng con trẻ năm xưa: Sao sư phụ không xuống núi bắt yêu vậy?
Sau đó có giọng một người khàn khàn trả lời: Vi sư già rồi, bắt không nổi nữa nên giao lại cho con.
Ký Linh nhỏ lại hỏi: Trên đời này nhiều yêu như vậy, con biết bắt thế nào?
Thanh Đạo Tử đáp: Gặp, muốn bắt thì bắt, không muốn bắt thì thôi; không gặp thì không cần phải nghĩ.
Ký Linh nhỏ lẩm bẩm: Tùy ý quá.
Thanh Đạo Tử cười nhẹ: Không phải tùy ý, là tùy duyên, tùy cơ duyên.
Ký Linh nhỏ ngơ ngác: Sư phụ, cơ duyên là gì?
Thanh Đạo Tử cúi xuống bảo: Là thứ mà nó tới con mới biết được.
Sau đó, Ký Linh tỉnh giấc.
Mặt trời đã lên bằng ba con sào chiếu nắng lên chăn lên mặt nàng, chói không mở nổi mắt.
Lâu lắm rồi nàng không mơ thấy Thanh Đạo Tử, dù rằng chỉ là mơ nhưng vẫn làm vơi bớt nỗi nhớ sư phụ của nàng khiến lòng nàng ngập tràn ấm áp và bình yên.
“Ký Linh cô nương…” A hoàn khẽ gọi ngoài cửa.
Ký Linh díp mắt nhìn ra ngoài cửa sổ thấy không còn sớm sủa gì nữa, e là a hoàn thấy không thể chờ được tới lúc nàng tự dậy nên mới lại gọi.
Duỗi lưng một cái, Ký Linh xuống giường đi mở cửa cho a hoàn.
A hoàn bê chậu nước sạch đứng sững ra ngoài cửa vì không ngờ cửa được mở nhanh như vậy.
Ký Linh nhận lấy chậu nước, cười với đối phương: “Đa tạ.”
A hoàn hoàn hồn, đáp vội: “Cô nương chớ nói vậy.”
Ký Linh cẩn thận kê chậu nước lên giá gỗ định rửa mặt, thấy a hoàn vẫn đứng nguyên đó thì thắc mắc hỏi: “Sao vậy?”
A hoàn lúc này mới nhớ ra nhiệm vụ thứ hai của mình: “Nhị thiếu gia hỏi cô nương muốn dùng cơm ở đâu. Muốn qua sảnh phụ hay đưa về phòng.”
Theo lệ thường thì tầm này không phải giờ ăn, bữa sáng đã quá mà bữa trưa thì chưa tới. A hoàn hỏi vậy ắt là vì Đàm Vân Sơn lo nàng chưa ngủ dậy.
Ký Linh vẫn luôn biết Đàm Vân Sơn vừa tỉ mỉ lại vừa rảnh rỗi, chỉ là không ngờ sau chuyện tối qua, chàng vẫn còn tâm trạng lo lắng thứ chuyện nhỏ nhặt này.
Nên là nàng đã nói gì với Phùng Bất Cơ nào, người này sẽ chẳng để bản thân vướng bận bởi những phiền não mãi không dứt đâu, cùng lắm thì đêm nằm ngắm sao, sáng ra là ổn ngay.
Ký Linh bảo a hoàn đưa đồ ăn qua phòng. A hoàn đi, nàng rửa mặt, chỉnh trang, tới lúc nghe tiếng gõ cửa thì nàng đã thay xong quần áo, ngay cả đồ đạc cũng đã gói ghém chỉnh tề.
Một mặt thấy lạ vì lần này a hoàn gõ cửa chứ không gọi, một mặt nàng vẫn ra mở cửa, sau đó, Ký Linh trông thấy hai gương mặt cười rạng rỡ: Đàm nhị thiếu gia bê mâm thức ăn và bên cạnh còn mọc ra một vị Phùng Bất Cơ.
Hai khuôn mặt tươi rói làm Ký Linh giật mình bất giác bước lùi về nửa bước, nhíu mày nhìn Phùng Bất Cơ tỏ ý hỏi: Chuyện gì đây?
Phùng Bất Cơ hiểu ý nàng muốn hỏi, gật đầu, ra dấu lại bằng mắt: Giống y như Ký Linh nói, đệ ấy thật chẳng sầu não nổi mấy canh giờ.
Ký Linh cạn lời: Tôi không hỏi chuyện đó!
Phùng Bất Cơ chớp mắt đầy vô tội: Thế gì?
Ký Linh ra sức trừng mắt với huynh ta.
Đàm Vân Sơn thò đầu lại gần: Kỳ thực liếc mắt đưa tình thế này tôi cũng biết…
Một hồi đấu mắt kết thúc bằng thắng lợi tuyệt đối thuộc về Đàm nhị thiếu gia nhàn nhã bê mâm thức ăn vào cửa.
May là Đàm nhị thiếu gia không thích để mọi người phải sốt ruột tò mò, để mâm thức ăn xuống xong liền nhẹ nhàng nói: “Cô nương ăn cơm trước đã, ăn xong rồi mới nói chuyện chúng ta tu tiên.”
Tay Ký Linh cầm đũa khựng lại giữa chừng, ngơ ngác nhìn lên: “Chúng ta… tu tiên?”
“Đệ ấy đã bái biệt cha mẹ, quyết định cùng tu tiên với chúng ta!” Phùng Bất Cơ nhanh nhảu tiếp lời, rõ ràng là rất vui trước quyết định này.
“Khoan đã,” Ký Linh giơ tay ngăn vị cùng nghề nói tiếp, sắp xếp lại tư duy, tìm ra vấn đề trọng yếu, “chúng ta là gồm những ai?”
Phùng Bất Cơ cười khoe hàm răng trắng sáng: “Ký Linh, tôi, đệ ấy!”
“Tại sao tôi phải cùng tu tiên với huynh ấy?” Ký Linh gần như bật thốt ra câu này, nói xong lại thấy không ổn, sửa lại là, “Không, tại sao tôi phải cùng tu tiên với các huynh? À cũng không phải, không phải huynh không tu tiên hay sao? Sao lại muốn cùng tu tiên với huynh ấy?”
Phụ nữ mà đã hỏi như súng bắn liên thanh là Phùng Bất Cơ chịu, huynh ta thong thả tựa người vào ghế, giơ tay ra dấu với Đàm nhị thiếu gia ý bảo: Đệ tiếp đi.
Đàm Vân Sơn ấp ủ đã lâu, cuối cùng cũng đợi được tới lượt mình khẩu chiến.
Trước khi vào trận, để thể hiện cấp bậc lễ nghĩa, kiểu gì cũng phải mỉm cười một cái thật phong nhã.
Ký Linh phẩy tay: “Đừng bày vẽ, mau nói đi.”
Đàm Vân Sơn hắng hắng giọng, bắt đầu: “Trên “Trần Thủy tiên duyên đồ” có đề đôi câu thơ: Ngày ngũ yêu đền tội, Ấy là lúc lên tiên. Ý rằng ngũ yêu thượng cổ đều bị tiêu diệt là đường tu hành của tôi viên mãn, được đắc đạo lên tiên. Từ chuyện Ứng Xà có thể thấy bất kể yêu thú được ai thu phục, nốt ruồi của tôi đều sẽ biến mất, đều tính là tôi bước thêm một bước trên bước đường tu tiên…”
Dựa trên những gì đã xảy ra thì đích xác là vậy nhưng Đàm Vân Sơn nói trắng ra như thế, Ký Linh nghe lại thấy con đường tu tiên này thật vô cùng đáng khinh: “Vậy huynh mau cầm tiên duyên đồ đi bắt yêu đi.”
“Tôi nào có bản lĩnh bắt yêu.” Đàm nhị thiếu gia đối đáp nhanh nhẹn, thẳng thắn, thành khẩn, có thể nói là rồng phượng giữa đám người thường.
Ký Linh ngạc nhiên nhìn chàng, thực sự không nói lại được chữ nào.
“Cho nên chúng ta mới phải tu cùng nhau, cô nương tu hành, tôi tu tiên.” Đàm Vân Sơn tựa như người thầy dốc lòng dạy bảo đứa trẻ thiếu hiểu biết, “Cô nương thấy đó, trước đây cô nương bắt được nhiều yêu như vậy, Lục Trần Kim Lung đều không sáng, một con Ứng Xà liền sáng ngay một lỗ. Nếu cô nương đi theo Trần Thủy tiên duyên đồ thì không cần phải làm gì thêm chỉ riêng việc bắt ngũ yêu đã đủ để Lục Trần Kim Lung của cô nương sáng năm lỗ, lỡ đâu trên hành trình này còn gặp được một con yêu quái bất phàm nào nữa thì lại sáng thêm được một lỗ, thế há chẳng là thiên hạ thái bình!”
Sáng hết sáu lỗ có sức cám dỗ quá lớn với Ký Linh, không chỉ vì câu “thiên hạ thái bình” mà hơn hết là vì đó là tâm nguyện sư phụ dành trọn đời vẫn không hoàn thành được. Nếu nàng có thể làm được, ắt sư phụ sẽ rất vui.
Khoan, Ký Linh bỗng tỉnh táo lại, suýt nữa thì đã bị Đàm Vân Sơn cho vào tròng rồi: “Muốn bắt ngũ yêu, tôi cướp lấy Trần Thủy tiên duyên đồ là xong, cần huynh làm gì?”
Đàm Vân Sơn thở phào hài lòng, câu “cuối cùng cũng đợi được hỏi tới câu này” như viết rõ trên mặt: “Bởi vì từ giờ trở đi, tôi chính là Trần Thủy tiên duyên đồ.”
Ký Linh nhíu mày không hiểu.
Đàm Vân Sơn nhìn nàng, cười dịu dàng: “Trần Thủy tiên duyên đồ cháy rồi.”
Ký Linh giật mình, lớn tiếng kinh ngạc: “Huynh đốt tu tiên đồ rồi à?!”
Đàm Vân Sơn không ngờ trong lòng Ký Linh mình lại là người quả quyết như vậy, mặc dù thấy vui nhưng vẫn phải giải thích: “Nó tự bốc cháy, tới lúc tôi phát hiện ra thì đã quá muộn, hơn nữa cháy xong hoàn toàn biến mất, không để lại chút tro tàn nào, nếu không phải tận mắt nhìn thấy, tôi sẽ cho là nó thình lình biến mất vào hư không.”
Nếu là vật tiên, hoàn thành sứ mệnh xong không lưu lại nhân gian cũng là dễ hiểu nhưng chẳng phải Đàm Vân Sơn còn phải dựa vào nó để bắt yêu hay sao…
Ký Linh ngẫm nghĩ mới nhớ ra: “Nãy huynh nói huynh chính là Trần Thủy tiên duyên đồ?”
Đàm Vân Sơn rót một chén trà đầy đẩy qua cho Ký Linh, thong thả ung dung đáp: “Tôi đã ghi tạc bức đồ vào đầu, mỗi gốc cây mỗi tòa nhà đều nhớ chính xác.”
Ký Linh không tin: “Có bao nhiêu là thôn trấn, ngọn núi, đường lớn đường nhỏ cơ mà!”
Đàm Vân Sơn chỉ vào đầu mình, đôi mắt ánh lên niềm đắc ý: “Yên tâm, đều ở đây rồi, nếu cô nương không tin, tôi có thể lập tức vẽ lại cho cô nương xem.”
Ký Linh lập tức gật đầu: “Vậy huynh vẽ đi.”
Đàm Vân Sơn đáp không chút do dự: “Không.”
Ký Linh: “…”
Đàm Vân Sơn cởi bỏ lớp áo văn nhã, hiếm khi mới vô lại một lần, kề sát gần nàng thủ thỉ: “Cùng đi Trần Thủy, muốn bao nhiêu tấm tiên duyên đồ, tôi đều vẽ cho cô nương.”
Ký Linh hoài nghi hơi nóng Đàm Vân Sơn nói phả ra có bùa mê vì đầu óc nàng hiện giờ hoàn toàn trống rỗng.
Chứng kiến toàn bộ, Phùng Bất Cơ thầm thở dài trong bụng, tuy Đàm nhị công tử lòng không có ý gió trăng nhưng một chút gió trăng như có như không này thực sự rất có lực sát thương.
Mặc dù không biết vì sao nhưng trực giác mách bảo Ký Linh nếu còn tiếp tục đôi co với Đàm Vân Sơn thì thua là cái chắc, nàng bèn quay qua chia rẽ “phe địch”: “Phùng Bất Cơ, huynh còn nhớ không, trước đây huynh ấy còn nói là việc tu tiên mông lung, hư vô, không đáng để nhớ mong, thấp thỏm.”
“Đương nhiên,” Phùng Bất Cơ gật đầu trước rồi đổi giọng, “nhưng xưa khác nay khác. Huống hồ đệ ấy đã nói với tôi là không phải cứ nhất nhất phải tu thành, chủ yếu là đi ra ngoài thăm thú một phen, xem thử đất trời rộng lớn, về phần có thành tiên hay không thì phải xem cơ duyên.”
Ký Linh giật mình.
Hai chữ “cơ duyên” gợi lại giấc mơ ban nãy.
Sư phụ nói cơ duyên là thứ mà nó tới thì con mới biết được.
Giờ nàng đã hơi hơi hiểu câu này.
Thấy Ký Linh mãi không nói gì, Phùng Bất Cơ bèn nói luôn hết lối nghĩ của mình ra: “Dù sao lúc trước người nói không tu tiên là đệ ấy, giờ người nóng lòng muốn thử cũng là đệ ấy, nói xuôi nói ngược đệ ấy đều nói được hết mà lại còn nghe có vẻ đều rất có lý, tôi chẳng còn cách nào.”
Ký Linh chịu phục: “Thế là huynh liền vui vẻ trở thành đồng đội của huynh ấy?”
Phùng Bất Cơ cười khà khà: “Tôi cũng rất hiếu kỳ bốn yêu thú còn lại trông như thế nào, dù sao tôi là người nhàn tản, đi đâu cũng như nhau.”
Ký Linh lại không nói lại nổi.
Giờ nàng cực muốn chạy ngay tới trước mặt sư phụ để lên án, cơ duyên nào có huyền diệu như sư phụ nói, rõ ràng là một cái lưới dao chặt không đứt, lửa đốt không cháy, làm cho dù lòng có chí xông mây cũng bị lưới cản không thể phi lên được!
Lòng buồn bực đâm lại ngứa tay, Ký Linh ấm ức hồi lâu quyết định không việc gì phải kìm nén bản thân, tháo chuông Tịnh Yêu ra gõ vào đầu Đàm Vân Sơn.
Chuông Tịnh Yêu không lớn nhưng là một cục bạc, Đàm Vân Sơn bị đánh bất ngờ không kịp tránh, la đau thành tiếng.
Ký Linh thầm giật mình vì nàng thực không cảm thấy mình mạnh tay nhưng ngoài mặt vẫn cố nói cứng: “Còn không đi vẽ đi.”
Đàm Vân Sơn lập tức chuyển từ rên đau sang vui vẻ, rạng rỡ, lóc cóc chạy đi tìm bút mực.
Phùng Bất Cơ dở khóc dở cười nhìn theo bóng lưng chạy đi nhanh như gió của Đàm nhị thiếu gia: “Ký Linh đập đệ ấy làm gì.”
Ký Linh bĩu môi: “Không phải huynh bảo không có cách nào làm gì huynh ấy được sao, tôi muốn cho huynh xem thử muốn làm gì huynh ấy cực kỳ đơn giản, cứ dùng vũ lực là xong, dù sao huynh ấy cũng không giận.”
Tâm trạng Phùng Bất Cơ khá là phức tạp, vừa đồng tình với cô nương đơn thuần này lại vừa đồng tình với vị công tử chưa thành tiên kia: “Cách ấy thì hay nhưng phải chăng là hơi thô bạo quá…”
Ký Linh lẩm bẩm: “Cũng có đau lắm đâu.”
Phùng Bất Cơ không tin: “Chẳng lẽ Ký Linh từng bị nó đập rồi sao? Chưa bị đập thì không có quyền bình luận.”
Ký Linh bi chặn họng, không nói được gì.
Ký Linh không nói gì nữa, Phùng Bất Cơ đâm chán lại tìm chuyện để nói: “May là đệ ấy nhớ được tiên duyên đồ không thì đúng là lúng túng …”
Ký Linh nghĩ theo hướng nghĩ của Phùng Bất Cơ thấy cũng nguy hiểm thật nhưng nghĩ đi nghĩ lại lại bảo: “Một khi thần tiên đã an bài như vậy thì chắc là đã định liệu được huynh ấy có thể nhớ.”
Phùng Bất Cơ ngẫm thấy cũng phải: “Dù sao cũng là người có tiên duyên, nào có thể là người tầm thường chứ.”
Ký Linh bật cười hết giận.
Đột nhiên một vấn đề nhảy ra trong đầu, nàng không kịp nghĩ mà hỏi ngay: “Cho là Đàm Vân Sơn thực sự quyết tu tiên thì có huynh và tiên duyên đồ là được rồi, sao còn phải kéo tôi theo?”
Phùng Bất Cơ đang tự rót trà cho mình, nghe vậy liền đáp mà chẳng cần ngẩng đầu lên: “Ký Linh nghĩ yêu thú thượng cổ dễ bắt lắm sao, đừng nói Ký Linh và tôi, dù có thêm mấy người tu hành nữa cũng chưa chẳng đã có thể thuận buồm xuôi gió.”
Ký Linh nhíu mày: “Không phải Đàm Vân Sơn nói ngao du đất trời rộng lớn là chính, có thành tiên hay không là tùy duyên hay sao?”
Phùng Bất Cơ để ấm trà xuống, đáp rất đương nhiên: “Cho dù không bắt yêu thì kết thêm nhiều bè bạn cũng là chuyện tốt, ít ra lúc chán còn có người trò chuyện, lỡ gặp phải tên khốn nào…” uống hớp trà ấm bụng, Phùng Bất Cơ cười gian nói nốt, “còn có thể “cậy đông bắt nạt” lại.”
Ký Linh cố nín cười, không muốn thừa nhận vị đang ngồi trước mặt đã là “người phe mình”.
Đàm Vân Sơn tìm được bút mực mang tới nhưng bàn trong phòng Ký Linh quá nhỏ nên ba người xuống nhà đi ra vườn.
Đàm Vân Sơn vẽ tranh trên bàn đá, Phùng Bất Cơ đứng bên vừa xem vừa tán thưởng, Ký Linh còn cần thời gian để chấp nhận hiện thực họ đã thành bạn đồng hành cho nên ngồi xa xa dưới gốc một cây hòe già trầm ngâm một mình.
Gió thổi trong vườn, cỏ cây xào xạc.
Vài mẩu lá hòe rơi dưới đất, nhỏ như một miếng ngọc.
Ký Linh ngắm nghía chuông Tịnh Yêu, trong đầu chỉ nghĩ câu “kết thêm nhiều bè bạn cũng là chuyện tốt” của Phùng Bất Cơ.
Phùng Bất Cơ nói đầy tùy ý, không chừng giờ đã quên.
Nhưng nàng thì không.
Mình cũng có bè bạn rồi, Ký Linh nghĩ, thậm chí còn là một phát hai bạn.
Nghĩ tới nghĩ lui, Ký Linh quyết định nghe Phùng Bất Cơ, không nên quá thô bạo, gõ đầu Đàm Vân Sơn thì được nhưng không nên gõ quá mạnh, vậy mới có thể gõ lâu dài, không làm bạn sợ chạy.
Nhưng thế nào mới được xem là “không quá mạnh” đây?
Ký Linh mím môi nhìn chằm chằm chuông Tịnh Yêu trong tay một hồi rồi bỗng vung nó lên gõ thử vào đầu mình.
Cục.
Tiếng nhỏ và trầm nhưng… rõ đau.
Ký Linh nhíu mày, vội nhẹ tay lại rồi gõ thử tiếp.
Lần này ổn hơn nhưng vẫn còn có thể ổn hơn nữa, đạt tới trình độ “có cảm giác nhưng không đau lắm” mới là ổn nhất…
Bên bàn đá.
Phùng Bất Cơ không hiểu sao Đàm Vân Sơn lại để bút xuống bèn hỏi: “Thế là xong rồi à?”
Kỹ thuật vẽ của Đàm nhị thiếu gia rất tài tình, loáng cái đã vẽ xong phần Ứng Xà và Sùng Ngục, thôn trang, dòng sông, đường sá gần như giống hệt, trông y đúc tranh gốc.
Nhưng, phần còn lại thì sao?
“Không thể vẽ hết một lần được,” Đàm Vân Sơn vừa lòng nhìn tác phẩm của mình, “lỡ nàng cầm tranh chạy mất thì sao.”
Phùng Bất Cơ bất lực vỗ trán: “Có cần phải lo nhiều thế không!”
Đàm Vân Sơn thở dài buồn buồn, thật lòng đáp: “Đệ vẫn có cảm giác nàng sẵn sàng bỏ đệ lại bất kỳ lúc nào.”
Phùng Bất Cơ cạn lời, bất giác nhìn về phía tàng cây, thế rồi giật mình.
Đàm Vân Sơn nhìn theo Phùng Bất Cơ cũng ngạc nhiên theo.
Ký Linh đang tự gõ chuông Tịnh Yêu vào đầu mình, gõ đủ kiểu, đủ hướng, mỗi cách thử một lần, miệng lẩm bẩm, mày cau chặt, thái độ nghiêm túc.
Đàm Vân Sơn thì thầm hỏi nhỏ: “Nàng đang làm gì vậy?”
Phùng Bất Cơ cũng không hiểu, chưa kể là huynh ta đã quên lời thuận miệng nói ban nãy, dù có nhớ thì cũng không thể hiểu được tâm tư phức tạp của Ký Linh, cuối cùng chỉ còn cách phán đoán dựa trên kinh nghiệm: “Có lẽ món pháp khí đó cần được tẩm bổ bằng cách này, giống như kiếm gỗ đào của huynh cũng cần được chà lau hàng ngày, cách vài bữa còn phải chích máu của huynh bôi lên để pháp khí hấp thụ linh lực.”
Đàm Vân Sơn nuốt nước bọt nhìn Ký Linh vẫn đang kiên trì gõ dưới tàng cây, trong đầu hồi tưởng cảnh Phùng Bất Cơ cắn ngón tay bôi lên kiếm, lập tức cảm thấy vai đau ghê gớm.
Bắt yêu cũng vậy mà tu tiên cũng thế, đúng là một hành trình đầy gian khổ.
Bảy ngày sau.
Ký Linh không biết Đàm Vân Sơn bái biệt Đàm viên ngoại và Đàm phu nhân thế nào, tóm lại là trong bảy ngày qua, Đàm Vân Sơn đang phải dưỡng thương dành phần lớn thời gian tụ tập với nàng và Phùng Bất Cơ tán gẫu chuyện bắt yêu với họ hoặc là bàn về hành trình Trần Thủy sắp tới nhưng không hề nhắc tới nhà họ Đàm một chữ.
Cứ thế đến tận hôm nay, bả vai Đàm Vân Sơn đã không còn vấn đề gì nữa, ba người kéo nhau ra sảnh chính cáo từ Đàm viên ngoại.
Đàm phu nhân vắng mặt, chỉ có Đàm viên ngoại ngồi trong sảnh chính nhìn ba người họ bằng những thái độ khác nhau, có xa lạ, có cung kính, chỉ không có vương vấn.
Lời dã từ do Phùng Bất Cơ nói, Đàm viên ngoại khách sáo đáp lời, từ đầu chí cuối Đàm Vân Sơn không nói tiếng nào song trước khi đi, chàng quỳ xuống, dập đầu vội một cái với Đàm viên ngoại.
Hòe Thành nắng ráo đã nhiều ngày, gió mát hiu hiu thổi.
Ba người kẻ trước người sau không ai nói chuyện với ai.
Lúc sắp ra tới cổng thành, Ký Linh cầm nửa tấm tiên duyên đồ dừng bước hỏi dò: “Phải chăng chúng ta nên mướn một chiếc xe ngựa?”
Theo tiên duyên đồ cho thấy, cách Hòe Thành Ứng Xà ở gần nhất là Sùng Ngục, con yêu thú này náu mình ở U Thôn, Mặc Châu nhưng Hòe Thành cách Mặc Châu hơn hai ngàn dặm, nếu đi bộ thì không rõ chừng nào mới tới.
*dặm: theo cách tính cổ ở Trung thì được tính bằng 300 bước, ngày nay tính bằng 500 mét, một bước bằng bao nhiêu thì thay đổi theo từng thời kỳ, có thể là 5, 6 hoặc 8 thước. (Theo thông tin trên baidu)
Đàm Vân Sơn và Phùng Bất Cơ đứng lại nhìn nàng, không nói năng gì.
Ký Linh nhíu mày không hiểu.
Phùng Bất Cơ thở dài: “Mướn xe ngựa phải mất tiền, giờ đến bữa cơm tiếp theo chúng ta còn không biết phải làm sao, tiền đâu mà thuê xe ngựa chứ?”
Đàm Vân Sơn không thê thảm như Phùng Bất Cơ nhưng biết rằng rời khỏi nhà thì tiêu tiền phải tính toán: “Tôi có mang theo chút tiền, dù có thuê xe ngựa thì vẫn đủ để chúng ta tiêu một thời gian nhưng rốt cuộc vẫn là miệng ăn núi lở.”
Ký Linh còn tưởng hai người họ không nhắc chuyện thuê xe ngựa là vì không nghĩ tới, nghe vậy liền dở khóc dở cười: “Tiền thì tôi có mà.”
Phùng Bất Cơ không ôm hi vọng: “Một cô nương thì có thể có bao nhiêu.”
“Bạc đã tiêu kha khá rồi, chỉ còn thứ này nhưng tôi không dám mang nhiều theo người, sư phụ nói ở bên ngoài thì không được để lộ tiền ra…” Ký Linh vừa nói vừa móc bao đồ lấy ra một chiếc túi sẫm màu lớn bằng bàn tay thắt dây ở miệng, xách lên trông nặng trịch: “Đây hiện là toàn bộ gia sản của tôi, nếu mà không đủ thì còn có thể về Linh Sơn lấy thêm.”
“Ngọc bội? Trang sức?” Phùng Bất Cơ nhíu mày nhìn túi tiền, không chờ mong gì nhiều.
Ký Linh kéo dây, đổ ra lòng bàn tay một viên, hai viên, ba viên, năm sáu bảy viên, đếm không xuể, toàn là… châu vàng.
Ánh nắng vừa đẹp chiếu lên mặt châu vàng óng ánh rất đẹp đẽ.
Độ “xa xỉ” của đồng đội chói lòa mắt Đàm Vân Sơn và Phùng Bất Cơ.
*châu vàng: hay gọi là ngọc trai vàng. Đọc thêm về các loại và cách phân biệt châu vàng tự nhiên và châu vàng nhuộm: https://zhuanlan.zhihu.com/p/26202790