Rồi người ta lau rửa và khâm liệm cơ thể hốc hác của nó. Nhân ở lại bên nó, không chịu rời mắt khỏi gương mặt xanh xao và đôi môi vẫn hồng hào dường như đang chờ tỉnh giấc của nó. Tôi ở trong phòng ngủ chờ phần linh hồn lang thang của nó xuất hiện. Tôi tin chắc rằng nó sẽ yên lòng khi nhìn thấy người quen.
Tôi thật sai lầm biết mấy. Lúc nhìn thấy tôi, nó trề môi và nhe răng ra. “Chính là chị! Tôi biết sẽ gặp chị!” “Mọi chuyện sẽ ổn thôi. Chị ở đây để giúp em...” “Giúp tôi ư? Chị giết tôi thì có!” “Em nhầm rồi,” tôi dịu dàng nói. Tôi cũng đã mất phương hướng khi mới chết.
Nó may mắn vì có tôi ở đây để làm dịu tâm trí nó. “Ngay từ trước lễ cưới, tôi đã biết rằng chị sẽ làm hại tôi,” nó nói tiếp bằng một giọng không kém phần giận dữ. “Chị đã có mặt trong đám cưới của tôi phải không?” Khi tôi gật đầu, nó bảo, “Lẽ ra tôi phải bôi tiết chó mực lên bia mộ chị.” Đây là điều độc địa nhất mà con người có thể làm với linh hồn.
Vì người ta tin rằng thứ máu này ghê tởm như máu kinh nguyệt của phụ nữ vậy. Nếu nó làm việc đó thì tôi sẽ bị đẩy tới bước đường giết hại gia đình người thân của mình. Tôi ngạc nhiên trước sự gay gắt của nó, nhưng nó đã không làm. “Chị đã ám tôi ngay từ lúc bắt đầu,” nó tiếp tục.
“Tôi nghe thấy tiếng chị khóc trong những đêm gió bão.” “Chị nghĩ mình đã làm em hạnh phúc...” “Không! Chị đã khiến tôi đọc vở kịch đó. Rồi chị khiến tôi viết về nó. Chị khiến tôi bắt chước chị trong mọi việc, cho tới khi rốt cuộc chẳng còn lại gì của tôi cả.
Chị chết vì vở kịch và rồi chị khiến tôi bắt chước chị làm theo Lệ Nương.” “Chị chỉ muốn Nhân yêu em hơn thôi. Em không phân biệt được sao?” Điều này làm nó nguôi đi phần nào. Rồi nó nhìn các móng tay mình. Chúng đã chuyển thành màu đen. Thực tế tàn nhẫn đã làm tiêu tan phần giận dữ còn lại của nó.
“Tôi cố bảo vệ mình, nhưng tôi làm gì có cơ hội nào để chống lại chị?” nó hỏi với vẻ đáng thương. Tôi đã nhiều lần tự nhủ điều ngược lại, người chị em chung chồng của tôi không có cơ hội chống lại tôi. “Tôi đã tưởng rằng có thể khiến chàng yêu mình nếu chàng đọc những lời bình chú và nghĩ rằng tất cả là của tôi,” nó tiếp tục, sự trách móc lại len vào giọng nói.
“Tôi không muốn chàng đọc về nỗi tương tư của chị. Tôi không muốn chàng tin rằng tôi tiếp tục công trình của chị là để tôn vinh vợ ‘cả’. Tôi mới là vợ cả. Chị có nghe chồng tôi nói không? Hai người bọn chị chưa bao giờ thành hôn. Chàng không hề quan tâm đến chị.” Nó tàn nhẫn cả khi chết.
“Bọn chị được trời xe duyên,” tôi nói, và tôi vẫn tin đó là sự thật. “Nhưng chàng cũng yêu cả em nữa.” “Chị đã phát bệnh vì trí tuệ của mình rồi đấy. Chị khiến tôi bị lạnh, giữ tôi trong bóng tối và săn đuổi tôi trong những giấc mơ. Chị đã khiến tôi không quan tâm đến ăn uống và nghỉ ngơi...” Sự thực là câu này trích trong Mẫu Đơn Đình không làm tôi dễ chịu, vì chính tôi đã khiến nó không quan tâm đến những thứ đó.
“Cách duy nhất tôi có thể thoát khỏi chị là ở chỗ trú ẩn an toàn trong chiếc đình ngoài ao,” nó nói tiếp. “Cây cầu hình chữ chi.” “Phải!” môi nó lại trề ra để lộ hàm răng trắng ởn. “Tôi đã đốt bản Mẫu Đơn Đình của chị để xua chị ra khỏi đời tôi. Tôi nghĩ tôi đã thành công nhưng chị chưa bao giờ bỏ đi cả.” “Chị không thể bỏ đi được, không thể nào, sau khi em làm việc tiếp theo.
Em để mọi người tin rằng chồng chúng ta đã viết phần bình chú.” “Cách gì hay hơn để bày tỏ sự tận tâm của tôi nào? Cách gì hay hơn để chứng tỏ rằng tôi là một người vợ hiền chứ?” Dĩ nhiên là nó đúng. “Thế còn chị thì sao?” tôi hỏi. “Em đã cố làm chị biến mất.
Làm sao em có thể làm điều đó khi chị em mình là chị em chung chồng?” Nó cười nhạo câu hỏi ngu ngốc của tôi. “Con người là tinh hoa của cõi dương trong sáng nhưng hồn ma như chị tất cả chỉ là những thứ chết chóc và bệnh hoạn ở cõi âm. Tôi đã cố chống lại chị nhưng sự can thiệp liên tục của chị đã giết chết tôi.
Hãy cút đi. Tôi không cần và cũng không muốn tình bạn của chị. Chúng ta không phải là bạn bè. Và chúng ta không phải là chị em chung chồng. Tôi sẽ được người ta nhớ đến. Chị sẽ bị lãng quên. Tôi đảm bảo điều đó.” “Bằng cách giấu những trang sách ghi rõ tác giả thực sự...” “Mọi lời chị ép tôi phải viết ra đều dối trá.” “Nhưng chị đã thừa nhận vai trò của em.
Hầu như tất cả là nói về em...” “Tôi không coi chuyện viết bình chú là do mong muốn tiếp tục công việc của chị. Tôi không viết từ trái tim. Chị đã biến nỗi ám ảnh của chị thành của tôi. Chị là hồn ma và chị không thừa nhận chuyện chị đã làm, vì thế tôi xé những trang đó ra khỏi cuốn sách.
Nhân sẽ không bao giờ tìm thấy chúng.” Một lần nữa tôi cố làm nó hiểu ra sự thật. “Chị muốn em được hạnh phúc...” “Vì thế chị đã sử dụng thể xác tôi.” “Chị vui khi em có bầu...” “Đứa bé đó không phải của tôi!” “Đương nhiên nó là của em.” “Không! Chị đã mang Nhân đến giường tôi hết đêm này đến đêm khác mà tôi không hề muốn.
Chị khiến tôi làm những việc...” Nó run lên vì giận dữ và ghê tởm. “Rồi chị đặt đứa bé đó vào bụng tôi.” “Em sai rồi. Chị không đặt nó vào đó. Chị chỉ để ý cho nó được an toàn...” “Ha! Chị đã giết tôi và cả đứa bé nữa.” “Chị không...” Nhưng phủ nhận cáo buộc của nó để làm gì khi mà rất nhiều điều nó nói là sự thật? Tôi đã bắt nó thức cả đêm, đầu tiên là với chồng và sau đó là vì chuyện viết lách.
Tôi đã làm cho căn phòng nó lạnh lẽo, nhốt nó trong bóng tối để bảo vệ cặp mắt nhạy cảm của tôi và thổi gió theo nó ở bất cứ nơi nào nó tới. Khi tôi buộc nó tiếp tục công trình của tôi, tôi đã ngăn không cho nó ăn uống với chồng và mẹ chồng. Rồi khi nó về phòng sau khi đốt tác phẩm của tôi và trao hết mọi công lao cho Nhân, tôi đã không khích lệ nó ăn uống vì tôi chán nản.
Tôi đã hoàn toàn nhận thức được những chuyện này ngay cả khi tôi tự phủ nhận điều tôi đang thấy và đang làm. Tôi bắt đầu thấy buồn nôn trước sự thật. Tôi đã làm gì vậy? Nó trề môi, một lần nữa bộc lộ bản chất xấu xa của mình. Tôi nhìn đi hướng khác. “Chị đã giết tôi,” nó tuyên bố.
“Chị trốn trên xà nhà và chị nghĩ không ai có thể thấy mình được, nhưng tôi đã thấy chị.” “Sao em thấy được?” Tất cả lòng tin của tôi đã tan biến. Giờ thì tôi mới là kẻ thảm hại đáng thương. “Khi tôi hấp hối! Tôi đã thấy chị. Tôi cố nhắm mắt không nhìn chị nhưng mỗi lần mở mắt chị đều ở đó nhìn tôi bằng cặp mắt chết chóc.
Rồi chị xuống và đặt tay lên tim tôi.” Ôi chao! Phải chăng tôi đã góp phần vào cái chết của nó? Phải chăng nỗi ám ảnh về công trình kia đã khiến tôi mù quáng đến nỗi trước tiên khiến tôi mất mạng và giờ là giết hại người chị em chung chồng với mình? Thấy vẻ kinh hoàng trên gương mặt tôi khi hiểu ra, nó mỉm cười đắc thắng.
“Chị giết tôi nhưng tôi đã thắng. Có vẻ như chị đã quên thông điệp sâu sắc nhất của Mẫu Đơn Đình. Đó là câu chuyện về tình yêu vượt trên cái chết, và đó là điều tôi đã làm. Nhân sẽ nhớ đến tôi và chàng sẽ quên cô gái chưa chồng ngốc nghếch ở trong nội đường của nhà cô ta.
Chị sẽ tan biến thành hư không. Công trình của chị sẽ bị lãng quên và sẽ không một ai, không một ai, nhớ đến chị cả.” Không nói thêm lời nào, nó quay ngoắt đi, rời khỏi căn phòng và bắt đầu lang thang. Bốn mươi chín ngày sau, cha Trắc tới để điểm lên bài vị cho nó. Sau đó, tấm bài vị này sẽ được đặt trong từ đường nhà họ Ngô.
Vì nó chết khi đã xuất giá và đang mang bầu, một phần linh hồn nó sẽ bị niêm phong trong quan tài. Chiếc quan tài này sẽ để hở cho đến khi chồng nó chết, lúc đó, gia đình được tái lập bằng nghi thức chôn chung. Phần linh hồn còn lại của nó bị kéo đến Tụ Huyết Trì. Người ta đồn nơi này rộng đến mức phải mất tám mươi tư vạn ngày mới băng qua được, ở đó, nó sẽ trải qua một trăm hai mươi kiểu tra tấn, hàng ngày nó sẽ bị ép uống máu hay đánh đập bằng roi sắt.
Đây là chốn vĩnh cửu của nó trừ phi gia đình mua tự do cho nó bằng việc thờ tự đúng nghi thức, cúng thức ăn cho tăng lữ và thần tiên, cầu kinh và mua chuộc phán quan địa ngục. Chỉ khi đó, mới có một chiếc thuyền mang nó ra khỏi cái hồ đau khổ sang một bến bờ ở đó nó có thể được thờ cúng trong từ đường của gia đình hay được tái sinh vào một xứ sở hạnh phúc.
Về phần tôi, tôi nhận ra rằng nếu mình đã góp phần khiến Trắc và con nó chết, dù cố ý hay không, thì tôi cũng không còn những khái niệm luân lý nữa: không cảm thông, không xấu hổ, không ý thức được phải trái. Tôi vẫn thường cho rằng mình đã rất thông minh và thậm chí là hữu ích nhưng Trắc nói đúng.