Có điều, sự nhàn nhã của Sean được xây dựng trên cơ sở sự bận bịu của bốn người, Ba Tang, đội trưởng Hồ Dương, Trác Mộc Cường Ba và pháp sư Á La - bốn người này phải thay nhau khiêng cáng. Ba người còn lại không nói gì, chỉ có Ba Tang là rất nghi ngờ về vết thương của Sean. Đầu óc Sean vẫn tỉnh táo, vết thương cũng không hề có chiều hướng nhiễm trùng nặng hơn, tại sao lâu như vậy vẫn không đỡ chút nào? Ít nhất anh ta cũng phải tự đi được vài bước mới phải. Có điều lần nào thay thuốc cũng thấy Lữ Cánh Nam và Đường Mẫn nhíu chặt đôi hàng lông mày, lần nào cũng dẫn lưu được nhiều dịch như cũ, nhưng nếu bảo là vết thương bị nhiễm trùng, thì cơ thể Sean lại cũng không xuất hiện bất cứ triệu chứng nào khác. Đối với trường hợp này, bọn họ cũng không thể nào giải thích nổi, các loại thuốc tiêu viêm, kháng sinh có thể dùng được đều đã dùng hết cả rồi, lẽ nào cả vi khuẩn ở Shangri-la này cũng khác với thế giới bên ngoài hay sao? Nhưng Trác Mộc Cường Ba cũng bị thương y như vậy, tại sao Trác Mộc Cường Ba không sao? Vết thương của gã về cơ bản đã khỏi hẳn, sẹo cũng liền lại rồi.
Nhưng chẳng phải Ba Tang quan tâm đến tình trạng sức khỏe của Sean, điều anh ta lo lắng là, Sean chẳng những không chia sẻ một phần việc vác đồ, ngược lại còn tăng thêm trọng lượng cho những người còn lại, khiến tốc độ hành trình của cả nhóm giảm xuống đáng kể, cứ tiếp tục thế này sớm muộn gì cũng bị đám phần tử vũ trang đằng sau kia đuổi kịp. Nếu là đội trước đây của anh ta, những thành viên như tay Sean này đã sớm phải rời khỏi đội ngũ, một mình tự sinh tự diệt trong rừng sâu rồi, còn nếu như gặp tình trạng quá sức đau đớn không thể sinh tồn được, thì những thành viên khác trong đội sẽ hoàn toàn không chút do dự giúp người bị thương giải thoát.
Mỗi lần nhìn thấy ánh mắt băng lạnh đầy sát khí của Ba Tang, Sean cũng không khỏi có chút áy náy, đương nhiên anh ta cũng biết hiện giờ mình đang là gánh nặng của cả đội, có điều lần "tiếp xúc thân mật" với con muỗi khổng lồ ấy có lẽ đã thương tổn đến thần kinh hay xương mông gì đó, cứ hễ đặt một chân xuống đất là lại đau đến thấu tim, mà anh ta thì cũng tuyệt đối không thể hy sinh bản thân vì nhóm người này được.
Trong thời gian nghỉ ngơi của hai ngày này, với sự cố gắng không mệt mỏi của mình, cuối cùng Trương Lập đã phát hiện được thêm hai đoạn ghi chép nữa có nhắc đến Mã Cát, pháp sư Á La đã dịch lại cho anh thành một đoạn văn đầy thi vị...
"Ngọn lửa chiến tranh, mặc dầu đã dần dần lắng xuống, nhưng mỗi lẫn nhìn thấy những gương mặt trẻ thơ vô tội, cùng những cặp mắt oán hận ấy, ta lại biết rằng, dấu ấn thù hận đã hằn sâu, bên dưới sự bình lặng bề ngoài ấy là sóng ngầm đang cuồn cuộn trào dâng. Ta thật không hiểu nổi, những kẻ sống ở phía trên kia nghĩ thế nào. Sự cân bằng thế lực giữa hai vương quốc lớn đã giữ được hơn trăm năm, phá vỡ thế cân bằng ấy, chắc chắn sẽ dẫn đến hậu quả vô cùng khủng khiếp, bọn họ hẳn cũng hiểu rõ đạo lý ấy chứ! Thật đáng tiếc, chúng ta không thể nào trở lại trên ấy nữa, xem ra, mãi mãi ta cũng không thể nào biết được chân tướng sự thực.
Có điều, khi đi qua thôn Công Nhã Lạp, ta đã thấy một cảnh tượng khiến mình thật sự cảm động, một đám trẻ con tầm sáu bảy tuổi, quần áo rách rưới vây quanh một cô bé khoảng mười tuổi, ríu ra ríu rít, tiếng cười hân hoan vang lên không ngớt. Dường như chúng đã quên đi nỗi đau do ngọn lửa chiến tranh mang tới. Trong khoảnh khắc ấy, ở chúng toát lên vẻ thuần chân mà những đứa trẻ nên có, thật hài hòa với cỏ xanh mầm biếc nơi đây. Ta bất giác dừng ngựa đứng từ xa nhìn, không phải cố ý, nhưng bất chợt nghe thấy lũ trẻ ấy báo cáo với thiếu nữ đang quay lưng về phía ta bằng chất giọng non nớt trong trẻo.
"Chị Mã Cát, em giúp chú Lạp Cát tìm được cái chổi trong nhà, chú ấy khen em cẩn thận đấy nhé..."
"Chị Mã Cát, em giặt sạch khăn giúp a ma, a ma còn khen em rất giỏi giang nữa cơ..."
"Chị Mã Cát, chị Mã Cát... chú dê nhỏ nhà em bị thương ở chân, em băng bó cho nó rồi, nó còn liếm tay em nữa nhé..."
"Cả em nữa, cả em nữa, em tưới cây cho vườn quả của a ba, a ba bảo em đã lớn rồi..."
...
Những lời báo cáo hân hoan ấy, cùng với tiếng cười ngân nga như tiếng chuông bạc như mưa xuân tưới đẫm lên linh hồn của kẻ đang lắng nghe là ta đây. Tựa hồ lần đầu tiên ta biết được, thì ra, niềm vui còn có thể hưởng thụ được theo cách như thế. Lũ trẻ tranh nhau nói ra những điều khiến mình vui vẻ, những điều mình tự hào, bất giác, đã làm nhạt đi cảm giác đau đớn, quên đi cả đói khát và nỗi sợ, những gương mặt non nớt ngây thơ càng tôn thêm vẻ đẹp của nụ cười. Cô bé gái lớn hơn một chút ấy, tay xách một giỏ trúc nhỏ, chừng như đang phát phần thưởng cho lũ bé hơn. Ta có cảm giác, bóng lưng ấy sao mà quen thuộc thế, cả cái tên Mã Cát cũng cứ vương vấn mãi trong lòng. Khi nàng quay người lại, gương mặt tươi cười khiến người ta có cảm giác như được tắm trong gió xuân, khiến lòng người thấy ngọt ngào như có dòng suối mát chảy qua, chính là nàng... trong tâm trí ta lập tức hiện lên bóng hình nhỏ nhắn mong manh ấy, Mã Cát A Mễ. Cùng với năm tháng, Mã Cát càng ngày càng thêm xinh đẹp, bất cứ ai nhìn thấy nụ cười thanh bình của nàng, cũng đều mang một hồi ức cả đời khó quên. Bạn đang đọc truyện tại Truyện FULL - www.Truyện FULL
Mã Cát đã không nhận ra ta nữa, nhưng nụ cười của nàng vẫn không hề thay đổi, đôi mắt trong suốt của nàng cũng không thay đổi. Bước lại gần, ta ngạc nhiên phát hiện ra, chiếc giỏ trúc nhỏ của Mã Cát, chứa đầy các loại hạt giống, hạt cỏ, hạt quả, hạt ngũ cốc. Còn lũ trẻ nhỏ hơn kia, thì nâng niu những hạt giống ấy trên tay như báu vật, nét mặt lộ ra vẻ dương dương đắc ý. Ta tò mò hỏi xem cả bọn đang chơi trò gì. Mã Cát bèn khẽ nói với ta rằng, lũ trẻ ấy đã phải chịu nhiều đau khổ trong chiến tranh, đứa thì mất người thân, đứa thì thành tàn phế, cặp mắt chúng đã phủ lên sắc màu u ám, nếu không có người nào giúp đỡ chúng, trái tim chúng sẽ như tảng băng ngàn vạn năm không tan trên cao nguyên tuyết phủ. Nhìn những đứa trẻ mất đi nụ cười hoan hỉ của tuổi thơ ấy, Mã Cát liền nghĩ đến bản thân mình. Nàng hy vọng những đứa trẻ mồ côi bị chiến tranh giày vò ấy có thể tìm được hạnh phúc trong bất hạnh; nàng hy vọng nỗi đau mà nàng từng phải chịu đựng, từng phải nếm trải, không còn giáng xuống đầu những đứa trẻ khác nữa. Vì vậy, nàng đã nhặt rất nhiều hạt giống, và nói với chúng, mỗi ngày chúng có thể mang những điều khiến mình vui vẻ, những điều khiến mọi người vui vẻ đến đây đổi lấy một hạt giống hạnh phúc. Mang những hạt giống ấy trồng xuống đất, rồi dùng trái tim yêu thương tưới tắm, dùng niềm vui để chăm sóc, hạt giống sẽ nảy ra những mầm xanh hạnh phúc, mầm sẽ lớn lên, đơm hoa kết thành những trái hy vọng. Như thế, mỗi ngày lũ trẻ đều đi thu thập niềm vui, bọn chúng sẽ quên đi những điều bất hạnh.
Nhìn nụ cười thuần khiết vô tà của Mã Cát, ta bất giác rung động cả cõi lòng. Rốt cuộc nàng là người như thế nào? Chỉ với một hạt giống bé nhỏ đã có thể khiến lũ trẻ ấy quên đi nỗi đau đi thu nhặt niềm vui. Nàng đã gieo trồng những hạt giống hạnh phúc vào lòng lũ trẻ ấy. Chữa lành vết thương do chiến loạn gây ra là việc ta đã vắt óc nghĩ suy cũng không thể nào làm nổi, vậy mà nàng đã làm được. Nàng mới chỉ là một thiếu nữ mười tuổi. Sau khi vào thôn Công Nhã Lạp, ta nghe được một tin đau lòng: nửa năm trước, bà của Mã Cát đã qua đời. Cô bé vừa nãy mang đầy một giỏ hạnh phúc phân phát cho đám trẻ đã phải một mình gánh vác cuộc sống rồi hay sao? Khi nhìn thấy vẻ kính ngưỡng và sùng bái trong mắt lũ trẻ ấy, ta càng có niềm tin rằng, thiên sứ bé nhỏ ấy, chính là Độ Mẫu trên trời chuyển thế đến nơi đây cứu vớt những linh hồn bị thương tổn vì chiến loạn như chúng ta đây.
...
Lúc trở về, khi đi qua thôn Công Nhã Lạp, Địch ô Lạp Tố mời ta cùng đón tết Vọng Quả, ta lại nhớ đến cô thiếu nữ ấy. Mã Cát giờ chắc đã mười hai tuổi rồi. Khi ngọn lửa cháy lên, ta liền thấy nàng. Giờ nàng đã trổ mã, càng thêm duyên dáng thướt tha. Mã Cát nhảy múa quanh đống lửa, vạt váy tung bay, ngọn lửa cũng lay động hòa theo nhịp múa của nàng, mặt đất cũng đang rung lên theo nhịp chân nàng, nụ cười toát ra từ trong ánh mắt nàng...
Khác với Trương Lập chỉ chăm chú lắng nghe những dòng văn đẹp đẽ ấy, pháp sư Á La và đội trưởng Hồ Dương để tâm hơn đến các thông tin ẩn chứa đằng sau những ghi chép dạng như du ký cá nhân hay tùy bút đó, giờ họ đã hiểu được đại khái, nơi này chắc là một vùng đất cách biệt với thế giới bên ngoài ở trong dãy núi tuyết, cực kỳ khó ra vào. Nếu các loại truyền thuyết cũng có thể coi như lịch sử, vậy thì cách đây khoảng mười nghìn năm, đã lần lượt có các dân tộc thiên di đến đây để tránh chiến loạn hoặc nạn đói. Những dân cư nguyên thủy ở đây thống nhất gọi cả ba tầng bình đài là Thánh vực, hoặc cũng có thể mấy nghìn năm trước họ đã từng có một mô thức thống nhất, nhưng về sau đã lại bị phân tán ra; từ sau khi người Qua Ba đến đây, họ bèn gọi nơi này là núi thánh Tu Di, còn một nơi nào đó trên tầng bình đài thứ ba, sau khi được người Qua Ba xây dựng kiến tạo, đã được đặt tên là Shangri-la, là nơi được kiến tạo giống như trong truyền thuyết, không có chiến tranh, không có đói khát, cơ hồ mọi thứ đều có thể tự động hoàn thành.
Sở dĩ họ cho rằng trước đây đã từng xuất hiện một mô thức thống nhất, là vì trong các phần ghi chép tản mạn, sự phân bố quyền lực trong các bộ lạc có nét tương đồng rất lớn, giống như bộ lạc người Kukuer ở rừng rậm châu Mỹ, quyền lực được chia thành thần quyền và vương quyền, người đại biểu cho thần quyền gọi là Địch ô. Pháp sư Á La giải thích, Địch ô là một dạng thầy mo có thể trực tiếp đối thoại với thần linh, có thể đoán biết tương lai, đồng thời cũng sở hữu năng lực tiêu trừ khổ bệnh hoặc giáng tai họa trong Bản giáo cổ đại. Trong các bộ tộc ở tầng bình đài thứ hai này, địa vị của Địch ô đã được nâng lên đến gần bằng hoặc có thể nói là ngang với vương quyền, mỗi bộ lạc đều có một Địch ô, chức trách của họ giống như trưởng thôn, cũng đồng thời là thầy lang của thôn làng ấy, trong chiến tranh lại có tác dụng như Thiên khí chú sư, hoặc Cổ độc sư, Thao thú sư...
Trong những ghi chép dạng hồi ức ấy, còn một điểm cực kỳ quan trọng... chiến tranh. Nhật ký thôn Công Bố dường như không hề nhắc đến chiến tranh, có thể là ngọn lửa chiến tranh không bao giờ lan đến thôn Công Bố ở tận tầng bình đài thứ nhất, cũng có thể là người phụ trách việc ghi chép của thôn Công Bố rất kín kẽ đối với vấn đề chiến tranh, nên sự việc vốn trọng đại hơn thiên tai, tế lễ gấp bội phần này không hề xuất hiện trong các bản ghi Nhật ký lấy một lần.
Từ những đoạn ghi chép hồi ức, trải nghiệm của những người thuộc nhiều thời kỳ khác nhau, có thể thấy rằng, nơi này không chỉ từng bùng nổ một trận chiến, mà cứ cách chừng mấy chục năm lại nổ ra một trận. Người Qua Ba khi mới đặt chân đến đây cũng không được thuận buồm xuôi gió, mà đã từng nảy sinh vô số xung đột lớn nhỏ với những dân tộc sống ở đây từ trước, cuối cùng mới xác lập được địa vị của mình. Trong một bản chép tay cổ xưa nhất, có nhắc đến một cuộc chiến tranh gian khổ nhất kể từ sau khi bộ tộc Qua Ba đến núi thánh Tu Di, ở trên tầng cao nhất, họ giằng co bất phân thắng bại với một bộ tộc nào đó.
Phần nội dung này Nhạc Dương phát hiện ra, anh rất ngạc nhiên vì trong phần tư liệu do những người khác phụ trách, chiến tranh chỉ được nhắc đến hết sức qua loa đại khái. Xét cho cùng ở thời đại đó, thế lực có thể đối kháng ngang hàng với Đạo quân Ánh sáng gần như không tồn tại, bộ lạc có thể buộc Đạo quân Ánh sáng phải huyết chiến nhiều ngày, ắt hẳn cũng tương đối lớn mạnh chứ chẳng chơi.
Nhạc Dương đưa phần tư liệu ấy cho pháp sư Á La. Pháp sư vừa nhìn thấy tên bộ lạc đó, liền bất giác biến sắc thốt lên: "Mã Tang!"
Nhạc Dương vội hỏi: "Đây là bộ lạc gì vậy ạ?"
Pháp sư Á La giải thích: "Mã Tang là một bộ lạc trong truyền thuyết. Tương truyền rằng, trước khi Thổ Phồn thống nhất cao nguyên Thanh Tạng, nơi đây đã từng trải qua mười mấy vương triều khác nhau, Mã Tang chính là một trong số đó. Thời kỳ thống trị của bộ tộc này có lẽ còn trước cả vương triều Tượng Hùng, chắc là cùng thời kỳ với triều nhà Thương ở Trung Nguyên. Nhưng đồng thời, Mã Tang cũng là một loại ma vật có sức mạnh vô song trong Bản giáo cổ xưa, về sau khi dung hợp với Phật giáo, Mã Tang được đổi thành Dạ Xoa và gọi như vậy cho đến ngày nay! Ngoài ra, trong các truyền thuyết thần thoại xa xưa, còn một câu chuyện rất nổi tiếng về Mã Tang nữa."
Gần đây, Trương Lập trở nên cực kỳ mẫn cảm với các loại thần thoại truyền thuyết, vội vàng ngó đầu vào hỏi: "Thật không ạ? Truyền thuyết gì thế?"
Pháp sư Á La bèn kể vắn tắt: "Là một truyền thuyết khác về nguồn gốc của người Tạng. Trong câu chuyện ấy, tổ tiên của chúng ta từ đầu đã ở trên cao nguyên rồi. Họ sống trong những hang động nằm lưng chừng núi, còn được gọi là người ở hang đá; còn ở nơi cao hơn nữa trên núi tuyết, thì có người núi tuyết sinh tồn, tên của họ chính là Mã Tang. Vì vậy Mã Tang còn có thể gọi là người núi tuyết. Trong truyền thuyết, người Mã Tang cao lớn hơn chúng ta, bên ngoài cơ thể mọc một lớp lông tóc dày, tay dài chân rộng, có thể bước đi như bay trên núi tuyết. Thời viễn cổ xa xưa, người núi tuyết thường xuống núi ức hiếp người ở hang đá. Người ở hang đá phản kháng, nhưng vì sức khỏe không bằng đối phương nên vẫn luôn bị người núi tuyết chèn ép áp bức. Về sau, vì muốn sinh tồn, người ở hang đá đã đến cầu xin mẹ của các thần Sa Đô Ngải Tang. Vậy là, trong một trận quyết chiến giữa người núi tuyết và người ở hang đá, thần Mẫu đã giúp đỡ người ở hang đá, biến vũ khí trong tay họ thành những tảng đá khổng lồ, còn vũ khí của người núi tuyết bị biến thành những quả cầu tuyết. Cuối cùng, người ở hang đã dùng những tảng đá ấy đuổi người núi tuyết sang tận phía bên kia núi, rồi từ đó vui vẻ sinh sôi nảy nở dưới chân núi tuyết, cuối cùng đã hình thành nên các bộ tộc trên cao nguyên."
"Hả?" Trương Lập và Nhạc Dương đều cho rằng mình đã tìm hiểu đủ về cao nguyên Thanh Tạng rồi, vậy mà pháp sư Á La chỉ cần thuận miệng kể ra một câu chuyện thôi cũng khiến họ cảm thấy hoàn toàn mới mẻ.
Đội trưởng Hồ Dương nói: "Truyền thuyết này tôi cũng có nghe nói. Còn nhớ khi đó có một vị chuyên gia nghiên cứu Tây Tạng đã từng phân tích, bảo rằng truyền thuyết này chắc là để ám chỉ cuộc chiến giữa người da vàng phương Đông và người da trắng ở phương Tây. Mọi người biết đấy, đám người nước ngoài kia thường thường thể hình đều cao lớn hơn chúng ta, hơn nữa lông tóc trên người cũng dài mà rậm rạp hơn. Thậm chí có người còn nói đấy là cuộc chiến giữa người Neanderthal và người Homo Sapien nữa."
Pháp sư Á La lắc đầu nói: "Không, không phải, đây có lẽ là một lần thay đổi vương triều trong thời kỳ nô lệ, thời kỳ vẫn chưa có văn tự ghi chép. Hơn nữa, về người núi tuyết này, tôi có khuynh hướng nghiêng về..."
"Người Tuyết!" đội trưởng Hồ Dương tựa hồ bỗng nhiên sực nghĩ ra điều gì đó, vội vội vàng vàng nôn nóng tiếp lời.
Trương Lập và Nhạc Dương cũng lập tức lần lượt nói theo: "Dạ Đế?" "Chính là cái thứ lần trước chúng ta ở trên núi tuyết nghe thấy tiếng, mà không thấy đâu ấy ạ?"
Đội trưởng Hồ Dương gật đầu nói: "Ừm, trên cao nguyên Thanh Tạng vùng nào mà chẳng có các truyền thuyết về người tuyết, dã nhân, miêu tả cũng tỉ mỉ kỹ lưỡng lắm, nhưng trước nay vẫn chưa có chứng cứ nào xác thực cả. Nhiều nước trên thế giới còn tổ chức các đội khảo sát khoa học đến Tây Tạng và Nepal để tìm kiếm chứng cứ về người tuyết nữa đó."
Nhạc Dương tò mò hỏi: "Đội trưởng Hồ sao lại nắm rõ những thông tin kiểu "thế giới đó đây" này thế?"
Đội trưởng Hồ Dương nhe răng cười, đáp: "Không đơn giản chỉ là chuyện lạ đó đây đâu, rất nhiều nước coi việc điều tra về người tuyết như một hạng mục nghiên cứu khoa học. Năm đó, thời tôi mới vừa tham gia công tác, cũng từng theo ông đội trưởng già lên núi tuyết tìm cái thứ ấy đấy." Đội trưởng Hồ Dương ngước mắt nhìn trời, như hồi tưởng: "Ở vùng Thanh Tạng và cả dãy Himalaya này, những câu chuyện về người tuyết thật nhiều vô số kể. Những khu vực khác nhau cũng có cách gọi khác nhau, cách gọi "Dạ Đế" là phổ biến nhất, cả vùng núi thuộc Trung Á và Đông Á đều gọi như thế cả, gần như đã trở thành tên gọi chính thức của người tuyết. Nhưng ở khu Mặc Thoát thì lại gọi là "Tắc Thị", gần vùng núi Lạp Ca Ba gọi là "Khang Mễ", vùng phía Bắc Thanh Hải gọi bằng tên "Cách Lý", các ghi chép thời nhà Thanh thì gọi là "Nhân Đồng". Đối với vấn đề dã nhân có tồn tại hay không, nhà nước xưa nay vẫn rất coi trọng, chỉ có điều trọng điểm là ở khu vực Thần Nông Giá, còn về phương diện người tuyết thì các chuyên gia nước ngoài nghiên cứu kỹ hơn chúng ta nhiều. Họ hoạt động ở phía Nepal và Ấn Độ, ngoài ra các hoạt động bí mật điều tra về người tuyết cũng được triển khai khá nhiều ở xung quanh ngọn Chomolungma."
"Không đúng." Pháp sư Á La nở một nụ cười điềm đạm, nói với đội trưởng Hồ Dương bằng giọng hết sức khẳng định.
Đội trưởng Hồ Dương thoáng ngẩn người ngạc nhiên, vẫn chưa hiểu ra không đúng ở điểm nào. Nhạc Dương đã nhanh nhảu phản ứng trước, reo toáng lên: "Đám người nước ngoài ấy không tìm người tuyết! Mà chỉ mượn đó làm cái cớ che mắt, thực ra là họ muốn tìm Bạc Ba La thần miếu! Giống như đoàn khảo sát đỉnh Chomolungma của Hitler và các nước khác thời Thế chiến II vậy, tất cả chỉ là để che mắt mà thôi, tất cả đều muốn tìm kiếm Bạc Ba La thần miếu!"
Pháp sư Á La nở một nụ cười khen ngợi, nhưng vẫn nói: "Không đúng."
Nhạc Dương gãi gãi đầu, lần này thì anh cũng không hiểu ông muốn nói gì nữa. Chỉ nghe pháp sư Á La chầm chậm giải thích: "Bọn họ tìm kiếm Bạc Ba La thần miếu, nhưng cũng tìm kiếm cả người tuyết nữa, đó không phải cái cớ." Thấy Nhạc Dương vẫn còn chau mày, pháp sư lại tiếp lời: "Giống như Cường Ba thiếu gia vậy, cậu ấy tìm kiếm Tử kỳ lân, cũng tìm kiếm Bạc Ba La thần miếu, đâu có mâu thuẫn gì. Đồng thời, cũng tương tự như chúng ta biết rõ việc bộ tộc Qua Ba đã xây dựng Bạc Ba La thần miếu, giữa Đạo quân Ánh sáng và Bạc Ba La thần miếu có một mối liên hệ tất nhiên, có một số nhà nghiên cứu phương Tây cũng tin chắc rằng giữa người tuyết và Shangri-la có một mối liên hệ tất nhiên nào đó."
"Sao lại nói thế?" Giờ thì cả đội trưởng Hồ Dương cũng bắt đầu thấy hứng thú.
Pháp sư Á La nói: "Chuyện này phải bắt đầu từ Morton Stanley. Người đời sau đều biết, Morton Stanley tìm được đầu mối về Bạc Ba La thần miếu trong sử thi A Lý Vương, vì vậy, cũng có một số người kế thừa phương hướng tìm kiếm này của ông ta, họ chuyên thu thập các loại truyền thuyết, thần thoại, hy vọng có thể phát hiện được bí mật về Bạc Ba La thần miếu trong đó. Trong đó có một câu chuyện thần thoại, bắt nguồn từ Bản giáo cổ, đại ý là thế này: vào thời kỳ của Thần và Ma, nơi Thần cư ngụ gọi là Gia quốc, nơi Ma cư ngụ gọi là Ngạn quốc. Ngạn quốc là nơi có đủ loại bệnh tật, chất độc, sinh linh tương tàn, sinh tồn là điều cực kỳ gian nan; còn Gia quốc thì ngược lại, hoa thơm cỏ lạ, chim chóc líu lo, mây lành vẩn vít, không cần lo ăn lo mặc. Hai vùng đất này bị chia tách bởi dòng sông Hy Mã, Ngạn quốc muốn chiếm lĩnh đất đai của Gia quốc, vì vậy chiến loạn cứ kéo dài liên tu bất tận. Về sau, Ngạn quốc phái đi một ma nữ để dụ dỗ Thần linh, sinh con đẻ cái, rồi ma nữ ấy giết chết mẹ ruột của mình, bỏ rơi chồng và con cái trở về Ngạn quốc, từ đó Gia quốc cũng bị vấy bẩn theo. Vì vậy, khi tiến hành mọi nghi lễ của Bản giáo cổ, nhất định phải có nghi thức tịnh hóa, chính là để rửa sạch sự ô nhiễm mà ma nữ của Ngạn quốc mang đến, dần dần thì được diễn hóa thành một tập tục của dân Tạng ngày nay... tục "đốt tang"."
Pháp sư Á La nói tới đây thì dừng lại. Trương Lập, Nhạc Dương và cả đội trưởng Hồ Dương không nói gì, chỉ trố mắt ra nhìn ông, câu chuyện này hình như chẳng liên quan gì đến người tuyết và Shangri-la thì phải?
Pháp sư Á La giờ mới nói: "Những nhà nghiên cứu nước ngoài ấy cho rằng, Ngạn quốc, chính là chỉ cao nguyên mà người thời cổ sinh sống, lúc ấy môi trường ở cao nguyên rất khắc nghiệt, con người muốn sinh tồn là chuyện cực kỳ khó khăn, các loại bệnh tật cũng rất nhiều; Gia quốc, là để ám chỉ Shangri-la; còn dòng sông Hy Mã, chính là con đường dẫn đến thánh địa Nguy Ma Long Nhân của Bản giáo cổ, cũng tức là con đường duy nhất dẫn đến Shangri-la. Còn người tuyết lại được gọi là Dạ Đế, rất nhiều nơi dịch âm thành Gia Đề, những nhà nghiên cứu ấy chỉ ra rằng, Gia quốc, thực ra có hàm nghĩa là đất nước của người Gia Đề. Ngạn quốc làm ô nhiễm Gia quốc, vừa khéo cũng rất trùng khớp với truyền thuyết người ở hang cuối cùng cũng xua đuổi được người núi tuyết, mà tục "đốt tang(1)" của người Tạng ngày nay, chính là để làm lắng đi oán niệm của người Mã Tang bằng phương thức đốt. Và sự thực là, "tang" mà chúng ta nói đó, hẳn phải có nghĩa "sạch sẽ, thanh khiết", toàn bộ nghi thức tịnh hóa này, là dùng nước sạch và khói tinh khiết của cây bách hòng xua đi những thứ vẩn đục ô ế và bệnh tật."
Nhạc Dương sắp xếp lại tư duy trong đầu, đoạn nói: "Ý của pháp sư là, những nhà nghiên cứu nước ngoài đó cho rằng, Shangri-la chính là Gia quốc trong truyền thuyết, cũng chính là nơi Người núi tuyết Mã Tang cư trú? Những từ người núi tuyết, Mã Tang, người tuyết, Dạ Đề, đều để chỉ một loại sinh vật đã từng tranh đoạt không gian sinh tồn với tổ tiên chúng ta thời xa xưa, về sau đã bị xua đuổi đi, và chạy đến Shangri-la? Sao thế được nhỉ, tôi nhớ Cường Ba thiếu gia từng nói, trong tiếng Hạ Nhĩ Ba, Dạ Đế nghĩa là người ở hang, ở đây sao lại biến thành kẻ đối đầu của người ở hang rồi?"
Pháp sư Á La lắc đầu nói: "Trong tiếng Hạ Nhĩ Ba không có từ nào chỉ người núi tuyết. Dạ Đế là để chỉ một loại sinh vật khổng lồ có vóc dáng rất giống con người, nhưng thân hình cao lớn, khắp người lông lá, hoạt động trong khu vực núi tuyết, vì người Hạ Nhĩ Ba không biết chúng sống ở đâu, cũng chưa bao giờ tìm được sào huyệt của chúng, vì vậy cho rằng chúng cư trú trong những hang đá trên núi tuyết, bởi thế, trong tiếng Hạ Nhĩ Ba, Dạ Đế còn có thể phiên nghĩa ra thành người ở hang đá. Người ở hang đá này và người ở hang đá chúng ta vừa nhắc đến là hai khái niệm hoàn toàn khác nhau. Còn những phân tích khác của cậu thì đều không sai, đại để chính là như vậy. Rất nhiều người nước ngoài tin rằng, người tuyết cư trú ở một nơi cực kỳ ẩn mật trong dãy Himalaya, nơi đó rất có khả năng chính là Shangri-la trong truyền thuyết. Hơn nữa, người tuyết chưa bao giờ thực sự lộ diện, đâu đâu cũng có truyền thuyết, song lại chẳng có một chứng cứ xác tín nào cả, nên mọi người lại càng tin rằng, người tuyết có thể tìm được đường đến Shangri-la, bắt được người tuyết, biết đâu có thể ép họ dẫn đường đến Shangri-la cũng không chừng."
Nhạc Dương nói: "Xem các tư liệu chúng ta tìm được ở thôn Công Bố, thì cách lập luận của đám chuyên gia nước ngoài kia hình như cũng có lý ra phết! Ở đây đúng là có một bộ tộc Mã Tang thật, chỉ tiếc là tôi tìm được có mỗi một đoạn ngắn."
Pháp sư Á La nói: "Sở dĩ các nhà nghiên cứu nước ngoài ấy vững tin như vậy, chính là vì câu chuyện thần thoại về Gia quốc và Ngạn quốc tôi vừa nhắc đến ấy xuất hiện rất sớm, còn sớm hơn cả các câu chuyện lưu truyền trong dân gian như sử thi A Lý Vương, sử thi Cách Tát Nhĩ Vương rất nhiều. Còn có cả nhà nghiên cứu Tạng học nước ngoài chỉ ra rằng, từ trước khi Bản giáo cổ hình thành, đã có những câu chuyện như thế lưu truyền rồi. Mặc dù tôi không biết họ tìm được chứng cứ xác thực ở đâu, nhưng truyền thuyết này thì đích thực là có từ rất sớm, bao gồm cả câu chuyện về cuộc chiến giữa người ở hang và người núi tuyết, đều được người Tạng truyền miệng cho nhau bao nhiêu đời nay rồi. Mặc dù về sau này có pha trộn thêm một số tu sức của Bản giáo cổ và các đặc điểm riêng của từng địa phương, nhưng nội dung chính của câu chuyện thì có lẽ là không thay đổi gì cho lắm."
Nhạc Dương nhìn đống tư liệu trên tay, trong đầu đột nhiên lóe lên một ý nghĩ: "Chẳng lẽ là, người Qua Ba năm xưa cũng vì nghe được câu chuyện này, nên cuối cùng mới tìm được tới nơi đây?"
Pháp sư Á La trầm ngâm gật đầu: "Có khả năng như vậy. Mọi người xem câu này, dịch ra có nghĩa là: Quân lính trong Đạo quân Ánh sáng cơ hồ chỉ cao đến ngực người Mã Tang. Mà theo như chúng ta đã biết, người Qua Ba không phải giống thấp lùn, Đạo quân Ánh sáng lại là những chiến sĩ xuất sắc nhất trong bộ tộc, từ đây có thể suy ra, chiều cao bình quân của người Mã Tang hẳn phải hơn hai mét. Với thể hình khổng lồ ấy mà người ghi chép này cũng không dùng ngữ khí kinh ngạc, xem ra giống như là ông ta đã biết có một giống người như vậy tồn tại từ lâu rồi vậy."
Đội trưởng Hồ Dương nói: "Pháp sư, ông dịch giúp bọn tôi cả đoạn này được không."
Pháp sư Á La gật đầu, rồi dịch vắn tắt cả đoạn văn ấy ra. Người viết chép lại câu chuyện của một người bạn ông ta, người này cùng với những tộc nhân khác lên tầng bình đài cao nhất ác chiến với người Mã Tang. Sau khi trở về tầng dưới này, người bạn đó đã chia sẻ đoạn chiến sự thảm liệt đó với ông ta. Đây rõ ràng là chuyện xảy ra khi người bộ tộc Qua Ba mới tiến vào đây, giữa các tầng bình đài vẫn còn có thông tin qua lại. Trong ghi chép chỉ viết rằng người Mã Tang rất khỏe, ngoài ra còn một số đoạn tả cảnh chiến đấu, nửa sau thì vẫn chưa tìm được. Nhưng sau khi nghe pháp sư Á La dịch những đoạn miêu tả về chiến tranh ấy, đội trưởng Hồ Dương lại nhíu mày lại, nói: "Dựa... dựa vào ngoại hình, thì những người Mã Tang ấy khá là phù hợp với đặc điểm hình thể của người tuyết. Có điều, xưa nay chúng ta vẫn quy người tuyết vào loại dã nhân, một giống sinh vật tương tự như khỉ vượn, trí tuệ có hạn. Nhưng người Mã Tang mà pháp sư vừa nhắc đến có hẳn bộ lạc cơ mà. Người Mã Tang và người tuyết có lẽ nào là hai loại khác nhau không?"
Pháp sư Á La cũng nói: "Đúng vậy, nếu câu chuyện truyền thuyết không bị biến đổi quá nhiều, vậy thì người núi tuyết và người ở hang chắc là có trí tuệ tương đương nhau, chỉ là hai chủng tộc khác nhau giống như người phương Đông và người phương Tây vậy thôi, trí khôn hẳn không hơn kém nhau quá nhiều. Còn nữa, trong các truyền thuyết về Shangri-la còn có một thuyết nói rằng, Shangri-la do hai tộc người A Trát Ba và Khố Tấn Ba nắm giữ, thể hình hai tộc người này cũng rất giống người tuyết, thân thể cao lớn, nhiều lông. Nhưng trong truyền thuyết đó, trí tuệ của hai tộc người này đều cao hơn những người bên ngoài chúng ta rất nhiều. Đương nhiên, tôi vẫn chưa tìm được xuất xứ của truyền thuyết này, khó mà xác định được độ tin cậy." Tới đây, pháp sư Á La mỉm cười, đoạn nói tiếp: "Tư liệu về người tuyết thì tôi không tìm hiểu nhiều lắm, nhưng nhớ hình như văn bản sớm nhất về sự xuất hiện của người tuyết chắc là vào khoảng hơn tám trăm năm về trước. Tôi phát hiện một đoạn ghi chép về họ trong một ngôi chùa nhỏ, bản ghi đó nói trí tuệ của người tuyết không cao."
Đội trưởng Hồ Dương cũng nhớ ra điều gì đó, nói: "Tôi nhớ có một nhà thám hiểm người Anh từng kể, người tuyết mà ông ta gặp có cầm cung tên. Chỉ có điều, hầu hết các miêu tả về người tuyết đều là hình tượng dã nhân, không mặc quần áo, ngoại hình giống vượn, ăn sống vật săn mà thôi."
"Việc này cần gì phải tranh luận." Trương Lập vỗ vỗ lên máy tính xách tay, nói: "Cứ bỏ thời gian ra tra cứu một lúc là biết." Trong máy tính của giáo sư Phương Tân có cài đặt toàn bộ dữ liệu của Thư viện Britanica.
Pháp sư Á La nói: "Đúng, chuyện này giờ không phải là trọng điểm, trước tiên chúng ta cần sắp xếp các tư liệu có liên quan đến chiến tranh trong đống tư liệu tìm được ở thôn Công Bố đã. Đây mới là mấu chốt để tìm hiểu thêm về vùng đất này."
Nhạc Dương lại tìm được một số ghi chép về chiến tranh. Nhưng dựa trên những đoạn ghi chép rời rạc mà họ tìm được, ngoài cuộc xung đột thuở ban đầu với các bộ tộc ở đây khi người Qua Ba mới đến vùng đất này, hồi ức về chiến tranh trong giai đoạn sau cũng như Bạc Ba La thần miếu hoàn toàn không có gì. Trong khoảng hai trăm năm trở lại đây thì mới bắt đầu nhắc đến chiến tranh. Hơn nữa thời gian những cuộc chiến này rất khớp với thời gian thiên tai, mượn lương thực, tế lễ trong Nhật ký của thôn Công Bố. Trận chiến gần đây nhất là khoảng mười bảy mười tám năm trước, bản thân phần ghi chép ấy cũng rất mơ hồ, tuồng như nguyên nhân ban đầu là do một thôn làng nào đó bị hủy diệt, nhưng rốt cuộc tại sao bị hủy diệt thì không thấy nhắc đến, chỉ biết rằng lần đó do sự cân bằng thế lực bị phá vỡ, cả tầng bình đài thứ hai này đã đánh nhau loạn cả lên.
Pháp sư Á La bảo Nhạc Dương tiếp tục suy luận. Theo ý kiến của Nhạc Dương thì điều này cũng hết sức tự nhiên: ở một khu vực khép kín, nếu gặp phải thiên tai tức là không có gì ăn, những người không có gì ăn không thể sống được, không thể sống được thì phải đi cướp của người khác ăn, người đi cướp nhiều, tự nhiên sẽ bùng nổ chiến tranh... Xét cho cùng, dựa theo những gì được ghi chép lại trong các cuộn da, tầng bình đài thứ hai của Thánh vực này không phải là một chỉnh thể thống nhất, mà bị phân chia thành rất nhiều bộ lạc khác nhau. Trong khoảng thời gian một vạn năm, có vô số bộ lạc đã lần lượt đến nơi này, đặc biệt là sau khi người Qua Ba đến đây, bọn họ đã không ra thế giới bên ngoài nữa. Trải qua nhiều năm phân chia rồi lại hợp nhất, trước mắt đại để đã hình thành hai thế lực lớn, hoặc có thể gọi là hai vương quốc, lần lượt là cái gì mà Langbu ở hồ bên trái và Yaca ở bên phải, còn phân biệt trái phải như thế nào, lại còn hồ gì, thì họ cũng không tìm được tư liệu nào liên quan, kết quả vẫn là một đống bùng nhùng không lời giải đáp.
Có một điều khiến pháp sư Á La cảm thấy khó hiểu là, sau khi người Qua Ba đến đây, không ngờ đã có một khoảng thời gian bình lặng không chiến tranh kéo dài tới mấy trăm năm. Thật sự không có chiến tranh nổ ra? Hay người Qua Ba không ghi chép lại?
Còn Nhạc Dương cũng lấy làm thắc mắc, dù là Nhật ký của thôn Công Bố hay bút ký của các vị trưởng giả trí giả gì đấy, ngoài khoảng một trăm năm đầu tiên có loáng thoáng đề cập đến tầng bình đài thứ ba, cũng là tầng của Shangri-la thực sự, và đoạn ghi chép nói một người tên Thứ Tháp Nhĩ đã gây họa, thì không còn bất cứ ghi chép nào nữa. Hơn nữa, khi các bộ lạc tầng bình đài thứ hai này đánh nhau kịch liệt nhất, cũng không thấy những người dân bản địa này xuống tầng thứ nhất hoặc lên tầng thứ ba. Nhạc Dương hết sức nghi hoặc hỏi pháp sư: "Pháp sư, lẽ nào lên, xuống một tầng bình đài thực sự khó khăn thế sao? Nếu thang kéo của người Qua Ba không bị phá hoại, việc lên xuống chắc cũng không phải chuyện gì gian nan chứ nhỉ? Hơn nữa những người Qua Ba đó, hình như cũng lên tầng bình đài thứ ba rồi còn gì? Dựa theo các tư liệu chúng ta nắm được cho đến nay, người gây ra họa tên là Thứ Tháp Nhĩ, hình như cũng lên tầng thứ ba rồi?"
Pháp sư Á La giải thích: "Lên xuống giữa các tầng chắc không phải việc khó, khó ở chỗ phải băng qua khu vực rừng rậm không người. Với những gì chúng ta biết được, vùng này đầy rẫy dã thú hoành hành, riêng loài thằn lằn khổng lồ kia cũng xuất hiện trong các ghi chép không dưới mười lần, còn nữa, dọc đường chúng ta tới đây đã gặp phải không biết bao nhiêu loài động vật hoang dã dữ tợn rồi. Với số người của một bộ tộc hoặc một thôn làng, muốn xuyên qua khu rừng rậm ấy thật chẳng khác nào đi tự tử cả, trừ phi họ cũng có vũ khí trang bị hiện đại như chúng ta đây. Chắc cũng vì nguyên nhân này mà không ai lên tầng thứ ba được cả."
Nhạc Dương lại hỏi tiếp: "Thế sao người Qua Ba có thể dễ dàng đi lên đi xuống như không vậy?"
Pháp sư Á La mỉm cười nói: "Họ là hậu duệ của Đạo quân Ánh sáng, sợ rằng người bình thường không thể nào so sánh được."
Nhạc Dương lộ vẻ kinh hãi, nói: "Từ đó suy ra, muốn tiêu diệt toàn bộ thôn làng của người Qua Ba, không để sót lại một mạng sống nào là điều rất khó khăn!"
Khóe mắt pháp sư Á La khẽ giật giật. Điều Nhạc Dương nói là sự thật, người Qua Ba thực lực mạnh như thế vậy mà vẫn bị hủy diệt hoàn toàn, tuy trước mắt vẫn chưa biết là do nguyên nhân gì, nhưng hung thủ ra tay sạch sẽ gọn gàng như thế, chắc hẳn còn đáng sợ hơn người Qua Ba nhiều chứ chẳng nghi. Pháp sư liền không nói gì nữa, tiếp tục lật những đoạn văn ngắn ngủn rời rạc còn sót lại trong đống tàn quyển, tìm kiếm thêm đầu mối.
Ngày thứ sáu sau khi đụng độ với lũ muỗi, mới đi chưa được bao xa, bỗng nghe thấy phía đằng xa có tiếng gầm rú, âm thanh nghe rất giống tiếng kêu của con thằn lằn khổng lồ họ gặp mấy ngày trước. Cả bọn bất giác giật nảy mình kinh hãi, vội tìm chỗ kín đáo ẩn nấp. Nhạc Dương và Trương Lập thì cẩn thận tiến lên thăm dò.
Không lâu sau, hai người trở lại, đội trưởng Hồ Dương vội hỏi: "Tình hình thế nào?"
Nhạc Dương thấp giọng đáp: "Phía trước có một loại thằn lằn lớn, cao tầm chừng này này..." Nhạc Dương đưa tay lên diễn tả, áng chừng cao hơn anh một chút, nhưng thấp hơn Trác Mộc Cường Ba, kế đó lại nói tiếp: "Động vật ăn thịt, bọn chúng cắn chết một con thằn lằn khác lớn gấp đôi chúng, xem chừng có vẻ như là một con thằn lằn khổng lồ còn chưa trưởng thành."
Trương Lập đứng bên cạnh bổ sung: "Loại thằn lằn nhỏ ấy rất giống với loài Tấn mãnh long(2) trong phim Công viên Kỷ Jura, trong rừng cũng có nữa, số lượng không rõ bao nhiêu."
Nhạc Dương lại nói: "Chúng ở trong khu rừng bên cạnh, có con còn nấp trên cây, rất khó phát hiện."
Sean nhíu mày, thấp giọng nói: "Đi vòng qua."
Nhạc Dương lắc đầu: "Không biết chúng có bao nhiêu con, e là rất khó..." Lời còn chưa dứt, phía xa xa đã lại vang lên một tiếng kêu nữa. Nếu âm thanh vừa nãy mới chỉ là giống, thì lần này gần như đã có thể khẳng định đó chính là một con thằn lằn khổng lồ đang chạy ra từ phía khu rừng đằng sau họ.
Ba Tang buột miệng chửi: "Chó chết! Muốn đánh nhau thì cũng đừng kẹp bọn ta vào giữa thế chứ."
Sean giơ tay lên không vẫy vẫy thử, rồi lập tức nói: "Vào trong rừng, lên cây, chỗ ấy ở cuối gió, hy vọng không bị chúng phát hiện ra."
Lữ Cánh Nam bảo Trương Lập: "Bật radar lên, giám sát động thái của các sinh vật xung quanh đây."
Trương Lập tìm một cây khá cao, hì hục leo lên, lắp đặp hệ thống radar xong xuôi thì những người khác lần lượt lên cây, cáng của Sean cũng được buộc vào bốn sợi dây thừng, nhanh chóng kéo vào chỗ tán cây ẩn mật.
Trên màn hình radar hiển thị, có một sinh vật đang xông về phía bên trái bọn họ với tốc độ cực nhanh, còn phía trước họ lại không dò ra được dấu hiệu của sinh vật nào. Trương Lập là người đầu tiên nhìn màn hình radar, không khỏi "í" lên một tiếng. Mẫn Mẫn tò mò ngó đầu qua xem, rồi hỏi: "Phía trước không có à?"
Nhạc Dương khẳng định: "Không thể nào, rõ ràng chúng tôi đã nhìn thấy mà."
Lữ Cánh Nam nói: "Loại radar này chỉ phát hiện được những vật thể di động, điều này chứng tỏ bọn thằn lằn nhỏ phía trước không di chuyển, hoặc động tác rất nhỏ, radar không thể phát giác được. Kỳ lạ thật, săn được con mồi rồi mà không lập tức di chuyển, bọn chúng còn định làm gì nữa nhỉ?"
Nhạc Dương từ trên cao nhìn xuống, nhanh chóng dùng ống nhòm điện tử phát hiện được mục tiêu và báo cáo: "Cách khoảng một nghìn hai trăm mét, tọa độ 052, 322, là con thằn lằn khổng lồ non bị sát hại lúc nãy."
Sean nằm sấp trên cáng cũng nhanh chóng nhìn thấy mục tiêu Nhạc Dương nhắc đến trong ống nhòm; đúng là có một con thằn lằn khổng lồ chưa trưởng thành, đầu hơi vuông vuông, vai gồ nhô cao, tròng mắt hõm sâu, cổ đã bị cắn đứt lìa nằm gục xuống bất động. Đồng thời anh ta cũng thấy trên cái cây cạnh đó loài thằn lằn nhỏ mà bọn Nhạc Dương và Trương Lập nhắc đến. Khác với loài thằn lằn khổng lồ, loại thằn lằn kia đầu nhọn hơn, chiều dài cơ thể khoảng chừng hai mét, phía sau kéo theo một cái đuôi lớn to và dài, các móng vuốt sắc bén ở bốn chân giúp chúng bám vững được trên cành cây, làn da nhăn nheo màu vàng úa pha lẫn sắc xanh lục khiến chúng trông như một phần của tán cây vậy.
Tại sao lại bỏ con mồi ở chỗ dễ thấy như vậy? Điều này trái ngược hẳn với chuẩn tắc hành vi của động vật. Sean tựa hồ phát hiện ra điều gì đó, không ngừng điều chỉnh tiêu cự ống nhòm. Phần mặt của con thằn lằn nhỏ đang nằm rạp trên cây kia không ngừng hiện lên gần hơn trong ống nhòm, Sean thấy rất rõ, trong cặp mắt màu vàng kim của nó, rõ ràng có ánh lên vẻ giảo hoạt! Không sai, giảo hoạt, đôi mắt ấy sắc bén, lạnh lùng, bình tĩnh, tựa như một tay lính bắn tỉa kinh nghiệm phong phú ẩn mình bất động trên chiến trường vậy. Sean thầm giật mình kinh hãi, dịch chuyển ống nhòm, lại phát hiện ra trên cây còn nhiều con thằn lằn nhỏ khác duỗi tứ chi bám trên cành cây, hơi thở chầm chậm, kéo dài, nằm phân bố xung quanh xác con thằn lằn khổng lồ non kia. Kinh ngạc hơn nữa là, bọn thằn lằn ấy cũng giống họ, đều nấp ở chỗ cuối ngọn gió. "Là một cuộc mai phục!" Sean phát ra một tiếng kêu kinh ngạc khe khẽ.
Lúc này, con thằn lằn khổng lồ trong rừng đã xông tới chỗ cái xác con thằn lằn non, tựa như cũng cảm giác được điều gì đó nguy hiểm, cặp chân to khỏe liền chầm chậm dấn từng bước một, đôi mắt hồ nghi đảo khắp bốn phía xung quanh.
Giờ thì những người khác cũng lờ mờ đoán ra được. Nhạc Dương thở hắt ra một tiếng, nói: "Ồ, thì ra là chúng giết con của con thằn lằn khổng lồ kia, hòng dẫn dụ con to vào vòng vây! Giảo hoạt thật đấy!"
Sean lắc đầu: "Chưa chắc đã là con của nó, nhưng dẫn dụ nó đến thì chắc chắn rồi." Chỉ thấy bọn thằn lằn nhỏ nấp phía sau cành cây, nhích động thân thể theo bước tiến của con thằn lằn khổng lồ, động tác đều đặn thống nhất, phối hợp có thể nói là cực kỳ ăn ý."
Con thằn lằn khổng lồ đến trước cái xác của đồng loại, mùi máu tanh đã thu hút nó, Trương Lập còn đang cảm khái rằng con thằn lằn ấy nhất định là rất thương tâm, thì nó đã há miệng đớp một phát hết nửa người con thằn lằn non, rồi ngửa cổ nuốt ực một cái. Đúng lúc ấy, lũ thằn lằn nhỏ nấp trên cây cũng phát động tấn công, cặp chân khỏe mạnh giúp chúng có thể bật tung lên khỏi cành cây như một đàn châu chấu, những móng vuốt sắc nhọn vung vẩy trên không trung. Con thằn lằn khổng lồ căng thẳng ngẩng đầu lên, lấy làm hoảng loạn trước đợt tấn công có tổ chức quá bất ngờ, cái đầu hết nghiêng sang bên trái rồi ngửa bên phải né tránh, nhưng thân thể to lớn đã bị cào xước vô số vết thương lớn.
Lúc bọn thằn lằn nhỏ nhảy xuống Sean mới để ý thấy, chi trước của chúng có khác biệt rất lớn so với con thằn lằn khổng lồ. Chi trước của thằn lằn khổng lồ so với chi sau của nó thì giống như thể chưa phát dục hoặc bị teo cơ, vừa ngắn lại vừa nhỏ, còn chi trước của bọn thằn lằn nhỏ hơn thì to khỏe linh hoạt hơn rất nhiều, nếu không có bàn tay to lớn và móng vuốt sắc nhọn, thoạt nhìn trông có vẻ không khác cánh tay người là mấy.