Sáng thứ Hai có một thằng học trò mới xuất hiện ở học viện Bloor. Nó mặc áo chùng xanh da trời, đồng phục của khoa Nhạc. Charlie gặp nó lần đầu tiên ở trong phòng Tập Hợp. Bọn học sinh khoa nhạc có dàn nhạc riêng, và hôm nay anh bạn thân của Charlie, Fidelio, chơi violin chính. Cậu chàng cầm cây vĩ vẫy vẫy Charlie đúng lúc thầy trưởng khoa Nhạc, giáo sư Saltweather, bước lên sân khấu.
“Ai đó?” Có giọng nói lọt vô tai Charlie.
Charlie nhìn quanh thì thấy một thằng bé cao hơn nó cả tấc, tóc dài, trông ướt rượt và mắt xanh biển.
“Ai là ai?”Charlie hỏi lại.
“Thằng đàn violin.”
“Tên anh ấy là Fidelio Gunn,” Charlie đáp. “Anh ấy là một người bạn của tớ.”
“Thế à? Nó đánh violin giỏi không?”
“Kiệt xuất luôn. À nhân tiện, mình là Charlie.”
Giáo sư Saltweather giơ tay lên ra hiệu im lặng, và dàn nhạc trỗi lên.
Ba mươi phút sau thằng bé mới tới đuổi kịp Charlie khi nó rời phòng Tập Hợp. Thằng đó dúi cho Charlie một bức thư. Nhìn một cái là Charlie chẳng thích tí nào. Nó nhận ra loại giấy có tiêu đề của học viện Bloor. Với nội dung in theo lối chữ to, bay bướm như sau:
Charlie Bone được chỉ định là giám sát chính thức của Dagbert Endless. Charlie sẽ chỉ dẫn cho Dagbert tất cả những vị trí liên quan đến một học sinh khoa Nhạc năm thứ hai. Đồng thời Charlie sẽ truyền đạt cho Dagbert những quy tắc và luật lệ của học viện, cũng như mọi thông tin về trang phục và những đồ dùng học tập bắt buộc. Nếu Dagbert Endless vi phạm bất kỳ nội quy nào của học viện, Charlie Bone sẽ phải chịu trách nhiệm.
Charlie nuốt nước miếng đánh ực.
“Đó là tôi,” thằng bé nói, chỉ vào tên mình trong bức thư. “Dagbert Endless.”
Charlie lắp bắp. “Tôi thắc mắc tại sao họ lại chọn tôi.”
“Bởi vì anh được ban phép thuật,” Dagbert bảo nó. “Tôi cũng vậy. Nhưng tôi mù tịt nhạc. Tuy nhiên tôi sẽ không phiền nếu học trống. Còn anh?”
“Tôi? Ố, tôi thổi kèn trumpet,” Charlie đáp. Nó tự hỏi sao thằng này lại vào trường trễ như vậy. Trong khi bọn chúng đã học gần hết một nửa học kỳ hai rồi.”
“Tôi đến từ phương Bắc,” Dagbert cho Charlie biết. “Phương Bắc rất, rất xa xôi. Tôi đã học ở học viện Loth nhưng họ đuổi tôi.”
Charlie lập tức quan tâm. “Vì sao?”
“Có một vụ chết đuối,” thằng bé nói tỉnh queo. “Không phải lỗi tại tôi, dĩ nhiên, nhưng anh thừa biết những bậc phụ huynh thế nào. Họ muốn trả thù và ai đó đã nói cho họ biết tên tôi.” Dagbert hạ giọng. “Hắn không yên lâu đâu, tôi bảo đảm với anh đấy.”
“Ai?”
“Kẻ mách lẻo.”
Chúng đã ra tới tiền sảnh và Charlie ham muốn nghe chi tiết vụ chết đuối kinh hoàng đến nỗi nó quên mất nội quy. “Thế, chuyện xảy ra làm sao?”
“Im lặng trong tiền sảnh, Charlie Bone,” một trong những huynh trưởng nhắc to, chị này vui tính, hiếm khi phạt cấm túc.
“Lối này,” Charlie thì thào, huých khủy tay Dagbert.
Chúng bước tới cánh cửa bên dưới hình hai cây kèn trumpet bắt chéo nhau. Vừa qua cửa Charlie nói, “Tôi mừng là chị Fiona trực chứ không phải Manfred Bloor.”
“Manfred thì sao?” Dagbert hỏi.
Charlie không thích ánh mắt Dagbert bắn vào mình. “Không có chi.” Nhanh chóng chuyển đề tài, Charlie giải thích rằng chúng đang ở trong phòng để áo khoác xanh da trời. “Học sinh khoa Kịch mặc áo chùng tím, cửa phòng để áo khoác bên đó ở dưới hai chiếc mặt nạ; còn hai cây bút vẽ bắt chéo chỉ chỗ cho học sinh Mỹ Thuật đi. Họ mặc áo chùng xanh lá cây. Mỗi khoa còn có căng-tin riêng nữa. Nhưng tất cả chúng ta cùng học chung, chỉ trừ khi nào học nhạc, họa hay kịch thôi.”
Bọn trẻ bắt đầu bu quanh Dagbert. Nó từ đâu đến? Sao nó ở đây? Nó có sống trong thành phố không?
Charlie nhận ra Billy Raven ngồi trong một góc. Vừa trông thấy Dagbert, thằng nhỏ liếc nhìn Charlie một cái đầy lo lắng và bỏ chạy. Dagbert dòm theo thằng bé bạch tạng rồi chuyện trò với những đứa khác. Nó không nói với đứa nào những điều nó vừa mới nói với Charlie. Chỉ bảo rằng nó sống trên lầu một cửa hàng bán cá.
“Tôi thích cá lắm, anh biết đấy.” Nó mỉm cười với Charlie ra điều chỉ tụi mình biết thôi.
“Nó là một con cá quái đản,” Fidelio lào thào vô tai Charlie.
Charlie cười toét. Dagbert thấy đầu Fidelio chụm sát vào đầu Charlie thì nụ cười tắt phụt khỏi gương mặt nó. Mắt nó bất thần trở nên lạnh băng đến mức khiến cho một cơn rùng mình chạy khắp sống lưng Charlie.
“Kế tiếp là giờ tiếng Anh,” Charlie nói. “Tốt hơn tụi mình tới phòng thầy Carp đi.”
“Bạn sẽ vui thích cho coi, Dagbert?” Fidelio nói. “Carp có nghĩa là một con cá chép sặc sỡ.”
Dagbert không cười. “Chỉ đường cho tôi,” nó ra lệnh.
Chúng rời phòng để áo khoác xanh da trời và len lỏi giữa những tốp học trò áo chùng xanh da trời, xanh lá cây, hoặc tím tỏa đi khắp mọi hướng.
Thầy Carp là người mập chắc, mặt đỏ gay, lúc nào cũng đóng chỉnh tề áo ghi-lê sọc và com-lê xám lịch lãm. Thầy cho rằng Charlie Bone khiến mình ngứa mắt, phần vì mái tóc bờm xờm của nó, phần nữa vì tâm trí nó hay để đâu đâu. Nó chúa là hay lo xa và thỉnh thoảng lại tương một câu trả lời dớ dẩn làm cho cả lớp bò ra cười.
“Trò, ngồi kia,” thầy bảo Dagbert. “Đúng, kế bên Charlie Bone. Tôi được biết cậu ta là giám sát của em, mặc dù theo ý của tôi thì chính cậu ta mới cần người giám sát.” Thầy Carp bật cười trước câu đùa của mình trong khi cả lớp im thin thít.
Dagbert ngồi vào bàn kế bên Charlie. Ở phía bên kia Charlie, Fidelio nhướng một chân mày lên. Tiếng ghế cạ sàn nhà, cả lớp ngồi xuống và bài học về dấu chấm câu bắt đầu.
Suốt thời gian còn lại trong ngày Dagbert đeo dính Charlie như đỉa đói. Đó không phải là lỗi của Dagbert, Charlie lập luận, nhưng nó đang dần gây tai hại đến các quan hệ bạn bè của Charlie. Hai nhỏ bạn Emma và Olivia tới chơi với Charlie trong giờ nghỉ giải lao, nhưng tình hình bỗng chuyển xấu khi Olivia phán rằng Dagbert tanh mùi cá. Charlie đã đinh ninh cái mùi đó phả ra từ khu nhà bếp, nhưng giờ thì nó nhận thấy Olivia nói đúng.
Phản ứng của Dagbert khiến Charlie ngỡ ngàng. “Tụi này nghĩ mấy người bốc mùi nước hoa rẻ tiền, Charlie nhỉ?” Nó nháy mắt Charlie, thằng này mở mồm định phản đối thì Dagbert tiếp. “Tụi này nghĩ hai người lôi thôi lếch thếch quá đi. Nhất là mấy kiểu tóc lố bịch đó.”
“Tớ... không...” Charlie cà lăm.
Emma sững sờ nhìn nó, trong khi Olivia trả treo, “Ra vậy. Hừ, chúng tôi biết mình đang đứng ở đâu, có đúng không?” Con nhỏ chụp cánh tay Emma và kéo xệch đi. Được vài bước, Olivia quay lại, hét lớn, “Tớ luôn biết đằng ấy là đồ lừa đảo mà, Charlie Bone. Lừa đảo và dối trá.”
Đáng lẽ Charlie Bone đã chạy theo bọn con gái, nhưng câu nói đau xốc của Olivia chặn nó khựng lại. Phải chăng con nhỏ luôn nghĩ nó là đồ lừa đảo? Nó nhìn hai đứa con gái băng qua sân. Trong áo khoác đỏ và quần bó đen, trông Olivia không luộm thuộm tí nào. Một chiếc mũ nồi xinh xinh bằng nhung đen đội trên mái tóc nâu điểm những vệt đen và vàng óng của con nhỏ. Charlie chưa kịp khen Olivia thì Dagbert đã ném ra cái câu nhận xét chết người đó rồi. Hôm nay thậm chí cả Emma cũng rất duyên dáng, với mái tóc vàng cuộn thẳng lên đỉnh đầu.
“Mặc cho tụi nó đi,” Dagbert nói. “Tụi mình dư biết ngữ chúng nó. Bọn đầu rỗng.”
“Dẹp xưng ‘tụi mình’ đi,” Charlie nổi đóa. “Chúng ta không cùng quan điểm gì hết. Các bạn gái đó không hề đầu rỗng.”
Dagbert tảng lờ câu này. “Anh hứa sẽ chỉ cho tôi lâu đài đỏ. Từ đây tôi có thể thấy những bức tường. Đi thôi.”
Ở cuối sân chơi, những bức tường đỏ bầm của lâu đài ẩn hiện giữa tàng cây. Nhìn đống đổ nát, thật khó tin Vua Đỏ đã từng xây cung điện ở đó. Đôi khi Charlie lấy đống tàn tích đó làm nơi nương náu, nhưng thường thì những bức tường cao vọi luôn tạo cảm giác ơn ớn, gợi nhắc về thời quá khứ tang thương của lâu đài.
“Bạn tự đi đi,” Charlie bảo Dagbert. “Tôi muốn nói chuyện với người khác.” Nó đã thấy anh bạn Gabriel Silk đang lơ ngơ tiến về phía chúng.
Khi Gabriel đến gần, Dagbert hét lên ầm ĩ. “Anh nói phải, Charlie. Đúng là kẻ thua cuộc.”
Chẳng may đúng lúc đó Gabriel tình cờ đi ngang qua Bragger Braine, kẻ bắt nạt khét tiếng năm hai. Bragger cùng với đám con trai vây quanh hắn dòm mái tóc dài và bộ mặt thiểu não của Gabriel rồi phá lên cười độc địa.
“Gabe!” Charlie hét gọi.
Nhưng Gabriel đã chạy mất tiêu. Charlie đảo quét khắp sân, cuối cùng thấy Gabriel chạy về phía cửa vườn.
“Dagbert, sao mày nói vậy?” Charlie điên tiết. “Gabriel rất nhạy cảm. Tao không biết phải giải thích làm sao với anh ấy đây.”
“Tôi cóc quan tâm,” Dagbert tỉnh bơ. “Ai thèm một thằng bạn như thế? Hắn thậm chí còn không thể mặc được áo cũ.”
“Tại anh ấy không thể. Anh ấy chịu mọi cảm xúc của tất cả những ai đã mặc chiếc áo đó trước anh ấy.” Charlie dậm chân. “Nếu mày muốn xem khu đổ nát thì tự mà đi lấy.”
Giận lôi đình, Charlie đùng đùng bỏ đi khỏi Dagbert và hướng vào trường. Tự dưng mùi cá tanh ươn nổi lên nồng nặc đến nỗi nó suýt ói mửa. Thật nhẹ nhõm khi vào trong tiền sảnh và đóng cửa chặn cái mùi nghẹt thở đó lại. Charlie chạy tới phòng để áo khoác xanh da trời, nơi Gabriel thường lánh nạn khi có chuyện không hay. Nhưng thay vì gặp Gabriel, nó thấy Billy Raven ngồi thu lu ở đầu một băng ghế.
“Billy, em có thấy anh Gabriel đâu không?” Charlie hỏi.
Billy lắc đầu. Trông thắc thỏm bất an.
“Em sao vậy?” Charlie ngồi xuống cạnh thằng bé con.
“Anh cần phải biết đôi chút về thằng Dagbert đó,” Billy nói, “May Phúc bảo với em...”
“Đây rồi!” Dagbert hiện ra ở ngưỡng cửa, mặt nó trơ tráo và mùi cá đã bị chế ngự. Hình như nó có thể xả hay bít cái mùi đó lại. “Anh có mấy người bạn quái đản quá, Charlie Bone.”
“Này,” Charlie cố hết sức giữ bình tĩnh. “Tao không phiền làm giám sát cho mày, nhưng hãy để các bạn của tao yên, kẻo không thì...”
“Thì sao?” Mặt Dagbert đanh lại.
Charlie không thể nghĩ ra lời đối đáp.
“Không thì chẳng sao cả,” Dagbert trả lời giùm nó. “Mày chả có phép gì sất, Charlie Bone. Cho nên mày phải lợi dụng người khác.”
Charlie đang bận suy nghĩ, nó đã tống tiễn ba đứa trong đám bạn mình. Nhưng luôn còn Tancred và Lysander. Nó nhìn Dagbert chằm chằm, nhưng thằng người cá này dù có là gì chăng nữa cũng không phải là kẻ đọc tâm trí.
Sau bữa tối, trong khi bọn trẻ khác đến các lớp học của chúng, Charlie dẫn Dagbert tới phòng Nhà Vua.
“Phòng Nhà Vua là gì?” Dagbert hỏi khi chúng leo lên những cầu thang hẹp ở cuối tòa nhà.
“Đó là nơi treo bức chân dung Vua Đỏ. Tất cả những đứa trẻ được ban phép thuật đều phải làm bài tập về nhà ở dó. Bởi vì chúng ta là hậu duệ của Vua Đỏ.”
“Vậy là tôi sắp gặp những người còn lại.” Dagbert vượt lên trước Charlie. Đến lúc Charlie tới cánh cửa cao màu đen của phòng Nhà Vua, Dagbert đã vào bên trong. Charlie thấy nó đang ngó chòng chọc những kệ sách ép sát các bức tường cong.
“Một căn phòng hình tròn,” Dagbert nhận xét ra vẻ thỏa chí. “Và một cái bàn tròn. Giống thời vua Arthur1 quá ta.”
Có bốn đứa nữa đi vào: Joshua Tilpin, Dorcas Loom và hai chị em sinh đôi, Inez và Idith.
“Nào, để coi,” Dagbert nhìn xỉa vào Joshua. “Thỏi từ tính.”
Joshua cười tét lét.
“Tốt, tốt.” Dagbert quay qua Dorcas, đang xếp sách vở của nó cho ngay ngắn trên bàn. “Còn đây thì ếm bùa quần áo?”
“Sao mày biết?” Dorcas hỏi – nó là một đứa con gái bị thịt, mặt húp híp, tóc vàng rối tít.
“Tôi không biết,” Dagbert thú nhận. “Có người bảo cho tôi biết.”
“Còn chúng tôi là người siêu năng,” một trong hai chị em sinh đôi tuyên bố. Chả ai phân biệt được là đứa nào. Cả hai đều mặt nhợt, trơ như búp bê, tóc đen bóng láng. Dải tóc ngang trán chạy một đường thẳng xoẹt ngay phía trên mắt chúng – những con mắt đen không bao giờ biểu lộ một thoáng cảm xúc. “Mày là ai?” Vẫn con đó nói.
“Tôi là người có cái tên mang nghĩa là vĩnh cữu như biển cả.” Dagbert mỉm cười với bọn chúng. “Tên tôi là Dagbert.”
Hai đứa sinh đôi há hốc mồm trước thằng bé. Không đứa nào hỏi thêm câu nào nữa.
Charlie cảm thấy thấp thỏm, một mình trong phòng với bốn đứa không giấu giếm là kẻ thù của nó, và đứa thứ năm rõ ràng không thể coi là bạn. Nó thở đánh phào khi Tancred và Lysander xuất hiện.
Tancred đang hưng phấn mãnh liệt – chiếc áo chùng xanh lá cây tung phồng lên quanh người anh như làn mây, mái tóc vàng dựng đứng và sách vở không ngừng bay phập phều khỏi tay anh. Khi anh đặt đống bài tập về nhà lên bàn, một luồng gió mạnh thổi u u quanh phòng, bốc giấy má lên không và cuốn lăn bút chì, bút mực trên chiếc bàn tròn.
“Đồ trời đánh thánh vật, anh không học được cách kiểm soát mình sao, Tancred Torsson?” Dorcas lầu bầu khi cúi xuống nhặt một quyển tập.
Trước khi Tancred kịp trả lời trả vốn, Dagbert gào lên, “Kẻ tạo bão! Rất hân hạnh. Tôi là Dagbert Endless.” Nó sấn tới hai anh lớn và bắt tay họ. “Còn anh chắc chắn là Lysander Sage, người gọi hồn.”
Lysander, người Phi châu, nhếch với Dagbert một nụ cười lạnh nhạt.
Dagbert không đếm xỉa tới ba đứa vô tiếp theo. Cố ý tránh Charlie, Emma kiếm chỗ ngồi bên Tancred, và Gabriel ở phía kia con nhỏ. Chỉ có Billy chọn ngồi gần Charlie. Lần này là vì nó bắt phải tia nhìn ớn xương của thằng mới đến.
Đáng ra còn một thành viên thứ mười hai của nhóm này, nhưng Asa Pike đã chẳng còn thấy đâu suốt mấy tuần nay. Charlie chợt nhận ra mình nhớ cái anh cựu học sinh lớp sáu lẻo khẻo, tóc đỏ lưa thưa và mắt vàng như mắt sói, tố cáo tài phép kinh khủng của mình ấy.
Lysander là nhân vật lớn tuổi nhất trong đám được ban phép thuật, vì vậy anh được giao nhiệm vụ trông coi phòng làm bài tập về nhà. Anh thừa hưởng phong thái lãnh đạo rất tự nhiên từ cha mình, thẩm phán Sage lừng danh. Joshua, Dorcas và hai đứa sinh đôi có ý muốn nắn gân vị trí của Lysander, nhưng chúng trờn trợn anh châu Phi cao lớn này, và cho tới nay, chưa đứa nào dám công khai chống đối anh.
“Số mười hai của chúng ta đâu rồi?” Dagbert hỏi. “Tôi được bảo là có một tên người sói cơ mà.”
“Đã có,” Lysander lẳng lặng nói. “Cậu ấy không còn ở với chúng ta nữa. Làm bài tập của cậu đi, ngay.”
Dagbert cung cúc mở một quyển tập ra và bắt đầu đọc.
Charlie không sao tập trung được. Nó ngước nhìn bức chân dung Vua Đỏ rồi lại nhìn đồng hồ treo tường. Khi Manfred ngồi ghế phụ trách phòng Nhà Vua, hắn luôn quát Charlie phải nhìn khỏi bức tranh mà tập trung vào bài tập về nhà. Charlie luôn ao ước đi vào bức tranh đó để nói chuyện với nhà vua, nhưng không thể được. Đằng sau nhà vua có thầy bùa Harken, một cái bóng chặn đứng mọi cố gắng tiếp cận tổ tiên mình của Charlie.
Có lần cái bóng đó đã sổng ra, nhưng bây giờ hắn bị nhốt lại rồi – một bộ dạng ủ ê, căm hận mà Charlie cảm nhận khi nhìn hắn. Nhưng tôi không cần phải tiếp cận nhà vua nữa, nó thầm nói với cái bóng, bởi vì tôi đã tìm thấy cha tôi rồi, và ông không làm gì được nữa đâu.
Còn một kẻ khác cũng đang nhìn Charlie. Đôi mắt xanh biển của Dagbert gắn chặt vào nó. Charlie lập tức hạ ánh mắt xuống và cố chú tâm vào bài tập về nhà.
Lúc 8 giờ tất cả mọi người đóng sách vở lại và lục tục ra khỏi phòng Nhà Vua.
Trước khi Dagbert đuổi kịp bọn chúng, Charlie thì thầm với Billy, “Muốn về nhà anh cuối tuần này không?”
“Muốn chứ. Em có nhiều chuyện...”
“Hê! Chờ tôi với!” giọng Dagbert léo nhéo đằng sau chúng. “Anh phải chỉ phòng ngủ chung cho tôi mà.”
“Tôi tưởng bà giám thị đã chỉ cho cậu rồi chứ,” Charlie nói.
“Bà ấy chỉ rồi, nhưng tôi quên mất,” Dagbert cười ruồi và bắt kịp Charlie trong dáng đi lảo đảo chúi về trước quái dị của nó.
Billy Raven lỉnh lẹ.
“Thằng oắt đó khiến tôi thấy ớn,” Dagbert nhận xét khi nhìn thằng bé bạch tạng đang lủi đi.
“Cậu cũng khiến nó ớn tương tự,” Charlie bảo.
“Tại sao?” Dagbert tỏ vẻ ngạc nhiên thật sự.
Charlie tăng tốc không trả lời. Nó tự hỏi Dagbert sẽ ngủ ở đâu. Mọi giường trong phòng ngủ chung của nó đều đã có người. Cho nên thằng mới vào ngủ sẽ không gây nguy hiểm. Hay là có? Phía trước, nó thấy Gabriel Silk đứng ngoài hành lang. Trông rất quẫn trí. Charlie gọi anh, nhưng anh quay ngoắt và đi vô một cánh cửa xa hơn một chút.
“Cái gì thế không biết?” Charlie bước vô phòng ngủ chung của nó, Dagbert nối gót.
Fidelio đang ngồi trên chiếc giường kế giường của Charlie. “Họ chuyển Gabriel đi rồi,” anh nói. “Tội nghiệp Gabe. Bất công quá. Họ xếp anh ấy gần với Damian Smerk.”
Charlie thở hốc lên. “Kẻ thù tệ hại nhất của anh ấy!”
Dagbert bổ nhào tới chiếc giường từng là giường của Gabriel.
“Giờ thì tụi mình biết lý do Gabriel bị trục xuất rồi,” Fidelio lầm bầm, quay đầu về hướng Dagbert.
Charlie hạ giọng. “Em bị buộc phải trông coi nó. Em đoán chính vì vậy mà bà giám thị xếp nó vô đây.”
Những đứa con trai khác bắt đầu đi vào: ba đứa năm nhất và năm đứa năm hai do Bragger Braine và kẻ nô lệ dốc lòng của hắn, Rupe Small, dẫn đầu. Dagbert phớt lờ tụi đó. Điều này thật ngạc nhiên, có thể đoán ra nó chỉ rắp tâm kết thân với bọn được ban phép thuật mà thôi. Có lẽ nó cho rằng lũ con trai bình thường không bõ công làm quen – Charlie nghĩ.
Bragger Braine dừng lại ở đầu giường Dagbert và ra lệnh cho thằng mới tới phải tự giới thiệu. Dagbert vẫn điềm nhiên chuyển quần áo từ giỏ xách vào tủ ngăn kéo cạnh giường nó.
“Tao đang nói chuyện với mày, thằng kia,” Bragger hạch sách, bộ mặt mũi tẹt hếch tựa chó púc của nó đỏ lựng lên.
“Trả lời!” Rupe Small the thé hùa theo.
“Trả lời, trả lời, trả lời mau!” bọn khác la ông ổng.
Charlie bỗng nhiên thấy mình phải bênh vực thằng bé mới. “Để nó yên,” Charlie nói.
“Ai hỏi mày, Charlie Bone?” Thằng năm ba bự con quát.
“Tôi chịu trách nhiệm giám sát nó,” Charlie nói dõng dạc. “Tên nó là Dagbert Endless.”
“Tao nghĩ nó là một trong bọn quái dấm ‘được ban phép thuật’,” Rupe vừa ré lên vừa cười hơn hớn.
Charlie thấy Rupe còn đáng ghét hơn cả Bragger. Giọng nói thì gắt như ngựa hí. Nó tò tò theo từng bước chân Bragger, đôi mắt giống mắt chó mở to, không bao giờ hó hé nửa lời trừ phi nó biết chắc chắn là Bragger đồng ý.
“Họ không quái dấm,” Fidelio bình thản phản đối.
“Hừm. Vậy mày học gì, thằng mới?” Bragger leo lên thành đằng chân giường của Dagbert. “Cáo lỗi vì tao nói vầy, nhưng Endless không phải là một cái tên.”
Bất ngờ Dagbert đứng thẳng lên. Nó cắm đôi mắt xanh biển vào Bragger và nói, “Tên tao vĩnh cửu như đại dương, và tao dìm chết người.”
Bàn chân của Bragger trượt khỏi thành giường và nó ngã ngửa xuống sàn.
Không đứa nào phá lên cười.