Đối với đàn ông, dù là kẻ bình phàm hay người vĩ đại đều hạnh phúc vô vàn khi thấy bản thân có thể đem lại nụ cười cho người mình yêu thương nhất, hạnh phúc ấy nồng nàn tới nỗi trở thành niềm kiêu hãnh của anh ta. Công danh lợi lộc có đáng gì đâu chứ? Có thể đem lại nụ cười thật sự cho một người mới là việc khó nhất trên đời!
Xi Vưu bi thương nhìn hai bóng người tựa vào nhau trên vách núi.
Lúc này hai đại cao thủ Thanh Dương, Thiếu Hạo đều có mặt trên Triêu Vân phong, nếu đổi lại là kẻ khác, bản thân đang trọng thương chưa khỏi, ắt sẽ thấy khó mà lui, từ từ tìm phương cách khác, nhưng tính tình Xi Vưu xưa nay chỉ biết lao thẳng tới trước, đời nào chịu chừa chỗ quay đầu.
Vẻ bi thương trong mắt hắn dần chuyển thành tàn nhẫn, hắn đột ngột túm lấy dây leo tung người đu lên, vung đao chém về phía Thiếu Hạo.
Bị bất ngờ không kịp phòng vệ, Thiếu Hạo vội dốc hết linh lực toan đẩy lùi đối phương, nào ngờ vừa lấy cứng chọi cứng, y kinh hãi thấy mình bị chấn động tê rần nửa người, trong khi kẻ kia vẫn vững vàng, chẳng lùi nửa bước.
Tay trái Xi Vưu vung đao chắn ngang ngực, tay phải túm lấy A Hành cười ha hả, “Thiếu Hạo, bao năm nay ngươi chẳng tiến bộ gì cả!”
Nhận ra Xi Vưu, biết y nhất định không hại A Hành, Thiếu Hạo cũng yên tâm phần nào. Tay phải y cầm một thanh thủy kiếm long lanh, cười nhạt, “Tướng quân tiến bộ nhanh quá, chắc không lo bị ta đánh rớt xuống nước nữa đâu.”
Xi Vưu chẳng hề dao động trước lời mai mỉa của Thiếu Hạo, nhơn nhơn cười đáp, “Thế nên lần này ta phải đem A Hành đi.” Nói rồi hắn kéo A Hành toan bỏ chạy, nào ngờ tay trái Thiếu Hạo vẫn nắm chặt tay A Hành, chưa từng lơi lỏng.
Thiếu Hạo vung thủy kiếm đâm thẳng vào Xi Vưu, Xi Vưu chẳng dám khinh địch, vội quay quắt lại trả đòn, cả hai đang nắm tay A Hành, đều sợ làm nàng bị thương, bởi thế đôi bên cùng thu liễm linh lực, chiêu thức chỉ chạm tới là ngừng, bỗng dưng ba người tạo thành một vòng tròn nho nhỏ, bên trong lấp loáng ánh đao kiếm.
A Hành bị kéo nghiêng bên phải rồi ngả bên trái, lại bất ngờ chạm mặt Xi Vưu, khó tránh tâm tình kích động, không khống chế được linh lực, cả người nóng rãy lên, đến nỗi hai đại cao thủ như Thiếu Hạo và Xi Vưu cũng chẳng chịu nổi, theo phản xạ đều rụt phắt tay về, buông nàng ra.
Thiếu Hạo và Xi Vưu trợn mắt nhìn hoa cỏ héo quắt dưới chân A Hành, lại nhìn sang đám dây leo trên vách đá đang úa dần trước sức nóng của nàng, lòng đầy kinh ngạc: A Hành vốn tu luyện mộc linh, sao có thể hủy diệt linh khí của thảo mộc được?
Thấy vẻ bàng hoàng trong mắt hai người, A Hành không khỏi ngượng ngùng, liền lùi lại, lạnh lùng nói: “Các người thấy rồi đấy, ta không còn là A Hành khi trước nữa rồi.”
Mặc Thiếu Hạo trầm tư tìm căn nguyên mọi chuyện trước mắt, Xi Vưu chỉ một mực quan tâm tới A Hành, thây kệ tất cả, thấy nàng đang đứng bên vách núi, hắn liền bật cười đắc ý, nhào tới.
Thiếu Hạo lập tức vung quyền, một con rồng trắng khổng lồ đâm bổ vào Xi Vưu, toan đánh dạt hắn ra, nhưng Xi Vưu chẳng buồn tránh né, liều mạng ôm chặt lấy A Hành, mặc cho nó lao tới.
Con rồng húc mạnh vào lưng Xi Vưu, đẩy hắn rớt xuống vách núi, cả A Hành cũng rớt xuống theo.
“Á!!!!!!!!!!”
A Hành thét lên, níu chặt lấy Xi Vưu theo phản xạ, gió rít ù ù bên tai nàng, mai tóc nàng xõa tung, vướng cả tầm mắt.
Trong khoảnh khắc đó, hai người cùng rơi thẳng xuống vách đá cao vạn trượng hệt một ánh sao sa, sinh mệnh họ đã gắn liền với nhau, thế giới của nàng chỉ còn lại mình hắn, nàng không thể không dựa vào hắn.
A Hành trừng mắt nhìn Xi Vưu đầy oán hận: “Buông ta ra!”
Sau lưng vừa trúng một chưởng của Thiếu Hạo, trước ngực còn phải ôm A Hành nóng như hòn than, Xi Vưu nghiến răng ken két vì đau đớn nhưng vẫn không thôi cợt nhả: “Ta không buông đấy, cô có giết ta ta cũng không buông!”
Thấy A Hành rớt xuống vách núi, Thiếu Hạo lập tức nhảy lên lưng Huyền điểu đuổi theo.
Mắt thấy Xi Vưu và A Hành sắp rơi xuống đất tan xương nát thịt, đột nhiên Xi Vưu huýt lên lanh lảnh, Tiêu Dao từ đáy sơn cốc bay vù lên, đỡ lấy hai người, lượn quanh một vòng rồi bay vút đi, Xi Vưu phá lên cười đắc ý, nhanh miệng làm mặt quỷ trêu y.
Tiêu Dao vừa vỗ cánh đã bay vụt đi, Huyền điểu không cách nào đuổi kịp, Thiếu Hạo chỉ còn biết ngây người nhìn bầu trời thăm thẳm, gió đêm lành lạnh xua mây núi sương khe tụ tụ tan tan, hơi ấm của A Hành còn vương vấn nơi đầu ngón tay, vậy mà y lại để nàng tuột khỏi mình lần nữa.
Tâm tư Thiếu Hạo rối như tơ vò, y thừa sức phái thủ hạ đi khắp nơi tìm kiếm A Hành, nhưng y dám làm thế ư? Giữa muôn mối bi thương ngổn ngang trong lòng, y lại thấy có phần ngưỡng mộ Xi Vưu. Dường như tất cả nam nhân trên đời này đều khao khát được ngông cuồng phóng túng, thả sức làm theo ý mình, bất chấp ánh mắt người đời như hắn đây?
Tiêu Dao bay nhanh hơn hai trăm năm trước nhiều, chưa tới một tuần trà, bọn họ đã tiến vào địa giới Thần Nông, Tiêu Dao cũng dần dần chậm lại, sà xuống, cuối cùng dừng ở Cửu Lê.
“Buông ta ra!” A Hành vùng vẫy kịch liệt, chỉ mong thoát khỏi Xi Vưu.
Hắn liền nhanh nhẹn rút ra một sợi gân rồng, cột chết tay trái mình lại với tay phải nàng, kiên quyết nói: “Khi nào cô nhớ lại mọi chuyện về ta ta mới cởi dây.”
A Hành giận dữ quát lên: “Nếu cả đời không nhớ ra thì sao?”
“Thì hai ta cứ như vậy cả đời.”
Nói rồi hắn lôi xềnh xệch nàng đi.
Giữa chốn rừng sâu núi thẳm xa cách hồng trần này, dường như hai trăm năm đằng đẵng chẳng là gì cả, mọi thứ vẫn y hệt khi xưa.
Căn nhà bên bụi trúc phượng vĩ vẫn chẳng hề thay đổi, mấy chú chim nhỏ ríu ran nhảy nhót ngoài lan can.
Tế Thiên đài bằng đá trắng vẫn được đám vu sư ngày ngày bảo hộ, thanh khiết như mới, chẳng vướng bụi trần, những chiếc chuông gió bằng xương thú treo quanh đó, cái trắng toát, cái ngả vàng, mỗi khi có gió lại tinh tang khe khẽ.
Xung quanh đài tế trồng rặt những đào, lá xanh mơn mởn. Hai trăm năm trước, nơi này chưa nhiều đào như bây giờ, xem ra những gốc đào ở đây đa phần mới được trồng trong khoảng hai trăm năm nay.
Xi Vưu đẩy cửa nhà sàn, kéo nàng lên lan can, “Còn nhớ chỗ này không?”
A Hành đáp lạnh băng: “Không nhớ!”
Hắn lại chỉ những gốc đào trên núi hỏi: “Nhớ nơi đó không?”
“Không nhớ!”
Xi Vưu ôm lấy nàng nhảy xuống nhà sàn, cùng thả bộ giữa rừng đào, “Nhớ ra được chút gì chưa? Chúng ta từng hẹn ước với nhau, dù ở chân trời góc biển nào, hằng năm mỗi khi hoa đào nở rộ sẽ gặp nhau dưới cội đào, không gặp không về.”
Nhìn hoa đào nở rợp trời, A Hành thoáng trầm ngâm nghĩ ngợi, thấy vậy, ánh mắt Xi Vưu lại sáng lên hy vọng.
Đột nhiên, A Hành cười hững hờ, “Ta sực nhớ ra lần đầu gặp Thiếu Hạo cũng là dưới cội hoa đào, hôm đó là tết thả đèn của Cao Tân, y đưa ta đi ngắm song đèn, chúng ta cùng cưỡi trên lưng Huyền điểu, từ trên không nhìn xuống, cả Cao Tân giăng kín muôn ngàn ánh sao, đẹp vô cùng!”
Xi Vưu cau mặt, siết chặt lấy tay nàng, khiến A Hành phát bực, “Ngươi đừng phí thời gian nữa, đã bảo quên là quên rồi mà.”
Hắn lại kéo nàng tới một gốc đào cổ thụ, “Còn nhớ chỗ này không?”
A Hành chán ngán đưa mắt nhìn, “Chỉ lớn hơn những gốc đào khác thôi mà, có gì lạ đâu.”
Xi Vưu cầm tay nàng sờ lên những hàng chữ trên thân cây, “Thế còn những chữ này?”
A Hành lạnh nhạt liếc qua, cười khẩy, “Viết bao nhiêu chữ Xi Vưu đó làm gì? Là A Hành khi trước viết phải không? Cô ta rỗi việc quá nhỉ?”
“Chúng ta hẹn gặp nhau dưới cội hoa đào, không gặp không về, nhưng ta đã thất hẹn. Lần thứ nhất, vì Viêm Đế qua đời đúng hôm đó, Vân Tang ra lệnh phong tỏa Thần Nông sơn nên ta không tới được; lần thứ hai, ta giận cô kết hôn cùng Thiếu Hạo, cho rằng cô đã thay lòng, sau khi nhận được tấm áo cô gửi, tuy hiểu rõ lòng cô, nhưng lại giận cô lăng nhăng ong bướm. Thực ra về sau ta cũng có tới, thấy tấm áo rơi xuống đất, ta lại nhặt đem về.” Xi Vưu ấn mạnh tay A Hành lên những dòng chữ vạch bằng trâm ngọc, “Cô mắng đúng lắm, ‘Đã không giữ lời, sao còn hứa hẹn?’, ý nghĩa của lời hẹn ước chính là, dẫu biết không thể thực hiện, không thực hiện được, cũng phải liều mạng mà thực hiện.”
Xi Vưu lại cầm lấy những ngón tay lạnh buốt, cứng đờ của A Hành đặt lên ngực mình, “Đời này kiếp này, nhất định sẽ không có lần thứ ba đâu!”
A Hành vùng ra khỏi tay hắn, lạnh lùng, “Nếu cần lời thề của đàn ông, ta cũng tự biết đi tìm Thiếu Hạo chồng mình, không đến phiên ngươi nhúng vào.”
Xi Vưu sa sầm mặt đứng lặng giây lát rồi dắt A Hành đi tiếp, vừa đi vừa ngắm cảnh vật xung quanh, đi mãi đến tế đài, hắn mới kéo nàng ngồi xuống, “Hai trăm năm không gặp, cô không muốn biết những năm qua ta đã làm gì ư?”
A Hành thấy nực cười, “Đến ngươi ta còn chẳng nhớ, hơi đâu quan tâm mấy chuyện đó làm gì?”
Xi Vưu rầu rĩ nhìn nàng, nhưng A Hành chỉ cúi đầu giật mạnh sợi gân rồng, toan cởi ra.
Rừng đào bát ngát trải dài trước mắt bọn họ, mỗi khi gió thổi qua, muôn ngàn đọt lá non lại xao xác lên như những làn sóng biếc, hòa cùng tiếng ngân nga của bao chiếc chuông gió quanh tế đài.
Tinh tang, tinh tang…
Âm thanh trong trẻo ngân dài, càng làm tổn lên vẻ tĩnh mịch của núi rừng.
Trầm mặc hồi lâu, Xi Vưu đột nhiên cất tiếng, giọng trầm buồn, “Vu vương cô từng quen đã mất từ lâu, Mê Đóa và Kim Đan cũng đi rồi, lúc về già, Mê Đóa luôn muốn gặp lại cô, còn nói chẳng mong điều gì, chỉ muốn được nấu một bữa cơm cho cô. Cô ta hết lần này sang lần khác vặn vẹo hỏi cô đang ở đâu, ta chỉ biết im lặng. Mê Đóa còn nhớ cô thích Ca tửu, năm nào cũng dùng vò đá ủ một vò ngon nhất chôn dưới gốc đào, mấy chục cây đào quanh đây, dưới gốc đều chon một vò rượu của Mê Đóa ủ cho cô. Đến lúc già khọm, mắt lòa cả rồi, cô ta vẫn gắng gượng ủ nốt cho cô một vò rượu.”
Chẳng hiểu sao bàn tay đang cố tháo gân rồng của A Hành chợt khựng lại, nàng trân trân nhìn rừng đào phía trước, cắn môi im lặng.
“Mấy chục năm đầu, cứ mỗi tháng Tư, khi đến Cửu Lê, ta đều quây quần uống rượu với hai người họ, Kim Đan theo ta đi trồng đào, còn Mê Đóa chôn rượu xuống gốc cây, ta thích nghe bọn họ kể chuyện về cô, như thế dường như cô vẫn còn ở bên bọn ta vậy. Về sau họ lần lượt qua đời cả, chỉ còn trơ lại mình ta, trong vô vàn đêm trằn trọc mất ngủ, ta mới thật sự thấu hiểu cảm giác của sư phụ năm xưa, thời gian đằng đẵng chính là hình phạt tàn khốc nhất, đến nỗi rất nhiều lần ta phải phá lên cười, thấy mình thật đáng kiếp!”
Xi Vưu cúi gằm mặt xuống nên A Hành không trông rõ vẻ mặt hắn, chỉ thấy tóc mai hắn đã bạc trắng, trái hẳn với tuổi tác và thần lực. Nàng khẽ thở dài, dịu dàng an ủi, “Dù sao ta cũng quên cả rồi, ngươi đừng để trong lòng nữa, cứ coi như ta chưa từng sống lại, quên ta đi!” Vừa khuyên giải, nàng vừa lặng lẽ tháo sợi gân rồng ra.
Xi Vưu trầm giọng hỏi: “Phải làm thế nào cô mới tha thứ cho ta?”
A Hành thình lình bật dậy chạy thẳng, “Để ta bắt đầu lại cuộc sống từ đầu, ta sẽ tha thứ cho ngươi.”
Xi Vưu phản ứng cực nhanh, lập tức đuổi theo, sau cùng cũng bắt được nàng trong rừng đào, mặc cho A Hành vừa đánh đập vừa mắng mỏ: “Ta đã quên hết rồi, ta muốn làm lại từ đầu, ta phải làm lại từ đầu!”
Xi Vưu rầu rĩ đứng lặng nhìn A Hành rồi đột nhiên xốc nàng lên vai, nhảy lên lưng Tiêu Dao, “Được, ta sẽ để cô bắt đầu lại!”
Mặc A Hành liên tục giãy giụa đấm đá đòi thả ra, Xi Vưu vẫn trơ như phỗng, cưỡi Tiêu Dao lao đi vun vút.
Chỉ lát sau, Tiêu Dao đã đổ xuống một bãi hoang, Xi Vưu đặt ngay A Hành xuống, hệt như gieo một cây mạ. Chỉ đợi có thế, nàng liền quay người chạy vụt đi.
Xi Vưu tựa vào Tiêu Dao, ung dung cười, “Cô chạy đi, cô cứ chạy ta lại đi bắt lại, thử xem cô chạy nhanh hay ta bắt nhanh nào.”
A Hành dừng phắt lại, vừa bất lực vừa giận dữ ngoảnh đầu quát: “Rốt cuộc ngươi muốn gì đây?”
“Chẳng phải cô muốn bắt đầu lại ư? Chúng ta cùng bắt đầu lại!”
A Hành lia lịa chắp tay hành lễ với Xi Vưu, gần như van vỉ: “Xi Vưu, Xi Vưu Đại tướng quân, ngài đường đường là Đại tướng một nước, cớ sao ta đã quên rồi mà ngài vẫn bám dai như đỉa thế? Thật không bằng cả phường vô lại!”
Xi Vưu vẫn tựa vào Tiêu Dao, khoanh tay nhe nhởn cười, “Ta bám dai như đỉa đấy thì sao? Ta vô lại đấy, làm sao nào?”
A Hành tức đến xịt khói lỗ tai, chửi toáng lên, “Đồ khốn nạn, quân cầm thú, tên khốn chẳng bằng cầm thú, lòng lang dạ sói…”
Xi Vưu cười tít mắt, vừa nghe vừa bình luận, “Câu ‘không bằng cầm thú’ chửi hay lắm, cầm thú bì sao được với ta, thấy ta, chúng vắt giò lên cổ chạy còn không kịp nữa là! Lòng lang dạ sói, chà chà…” Xi Vưu tặc lưỡi, lắc đầu, “Không hay, không hay! Nhẹ nhàng quá! Cô mau nghĩ ra con gì ác độc hơn làm ví dụ đi…”
A Hành tức run cả người, nói lý không được, chửi bới không xong, cơn giận bốc lên đầu, nàng liền xắn tay áo lao vào đánh nhau!
Mây cuộn lửa phừng phừng lao vào Xi Vưu, hắn ù té chạy, nàng tức tốc đuổi theo, đôi bên cứ thế chạy lòng vòng rồi lạc vào một tòa thành. Dường như hôm nay trong thành là ngày tết, người qua kẻ lại nô nức trên đường, xôn xao cười nói.
Thấy một thiếu nữ mảnh mai hộc tốc đuổi theo một gã trai cao lớn, vài ba kẻ thương hương tiếc ngọc chợt nổi máu anh hùng, rào rào ném gạch đá rau quả về phía Xi Vưu nhằm cản hắn lại.
Xi Vưu luồn lách trốn giữa đám đông, mỗi lần sắp bị A Hành đánh trúng, hắn lại lẩn đi như trạch, khiến A Hành càng thêm tức giận, bất chấp mọi thứ để bắt hắn.
Xi Vưu vừa chạy vừa hét: “Vợ yêu, ta biết lần này ta sai rồi, là ta làm cô đau lòng, lần sau ta không dám thế nữa đâu, ta nhất định sẽ tin tưởng cô, tôn trọng cô, yêu thương cô, bảo vệ cô… Ta không tin những gì trông thấy, cũng không tin những gì nghe được, ta chỉ tin những gì ta cảm nhận được thôi! Vợ yêu, tha thứ cho ta một lần đi, chỉ một lần này thôi mà…”
Tưởng họ là đôi vợ chồng son đang giận dỗi, mọi người xung quanh cười rộ lên, ra sức khuyên ngăn.
Thấy vậy A Hành đỏ bừng mặt, chẳng hiểu vì giận hay vì thẹn, hai mắt mọng lên chực khóc, nàng tức tối giậm chân gào lên với Xi Vưu: “Ta là vợ Thiếu Hạo, không phải vợ ngươi!”
Xi Vưu dừng bước quay phắt lại nhìn nàng, vừa buồn vừa giận, đanh giọng: “Y đừng hòng!”
Nhìn dáng vẻ căm tức của hắn, cơn giận trong lòng nàng cũng tiêu tan, liền cười nói: “Miễn ta bằng lòng là được! Ngươi đừng chõ vào!”
Xi Vưu càng cau có, A Hành càng thích chí, nàng chẳng thèm đánh nhau với hắn nữa, quay đầu chạy thẳng.
Xi Vưu lặng lẽ nhìn theo bóng nàng, cố nén cơn giận trong lòng, ngưng tụ linh lực.
Phía Nam đột ngột vang lên mấy tiếng ầm ì như sấm dậy, tựa hồ có thứ gì đó sắp bùng nổ, sắc đỏ bốc lên ngút trời, chân trời phía đó thoắt chốc chìm trong biển lửa, ánh lửa bao phủ toàn thành.
Mọi người trong thành đều nín thinh, trợn tròn mắt nhìn về phía Nam, bầu không khí bỗng chốc lặng phắc, hệt một tòa thành chết. Hồi lâu, một ông lão chợt giơ hai tay lên trời gào khóc: “Trời ơi, sơn thần trên Bác Phụ sơn lại nổi giận rồi!”
Nam phụ lão ấu thảy đều quỳ rạp xuống, dập đầu lạy Bác Phụ sơn, khóc lóc xin sơn thần bớt giận, đột nhiên, một kẻ buột miệng: “Chúng ta đi cầu khẩn Tây Lăng nương nương.” Mọi người nghe nói liền rào lên phụ họa, họ xúm lại thành một đoàn, cứ đi một bước lại quỳ một bước, tiến về phía đài tế ở ngoài thành.
A Hành hoảng hốt nhìn quanh, thì ra đâu chính là Bác Phụ quốc, hèn chi nàng cứ thấy quen quen.
Ngọn lửa đỏ rực cuối trời che phủ cả ngàn sao, làm lu mờ cả ánh đèn, khắp đường lớn ngõ nhỏ đều chìm trong ánh lửa mịt mù, Xi Vưu khoác tấm áo đỏ rực, đứng sừng sững ngay giữa đường, bất động, đầu đội trời chân đạp đất, như chẳng coi vạn vật thế gian vào đâu cả, càng không quan tâm bất cứ thứ gì.
A Hành kinh hãi nhìn hắn: “Ngươi điên rồi à!”
Xi Vưu cười đáp: “Hai trăm bảy mươi năm trước, từng có một cô gái tên gọi Tây Lăng Hành đã hủy lò luyện công của Chúc Dung, cứu cả Bác Phụ quốc, đến nay khắp nơi trên Bác Phụ quốc đều có tế đàn thờ phụng Tây Lăng Hành, hôm nay chính là tết Dập Lửa cầu chúc Tây Lăng nương nương. Hai trăm bảy mươi năm sau, đến lượt Xi Vưu này châm lửa đốt Bác Phụ sơn, nếu cô muốn đi thì cứ đi đi, mặc cho lửa cháy, để ta xem giờ đây kẻ nào trong thiên hạ dám dập lò lửa của Xi Vưu?” Hai trăm năm nay tại Thần Nông quốc, dưới bàn tay sắt đá, thủ đoạn tàn bạo của hắn, cái tên Xi Vưu đã được đánh đồng với tử vong, chẳng ai dám chống lại.
A Hành trân trân nhìn ngọn lửa đỏ rực cuối trời.
Tiếng khóc trẻ nhỏ, tiếng mọi người rì rầm dập đầu cầu khẩn cứ vang vọng bên tai.
Lát sau, nàng chạy vụt về phía đám lửa.
Xi Vưu lặng lẽ theo sau nàng, chỉ cần hắn chưa muốn buông tay, bất kể mệnh trời ra sao, hắn cũng dốc sức khắc phục. A Hành muốn bắt đầu lại thì cứ bắt đầu lại đi! Nhưng không phải bắt đầu lại với Thiếu Hạo, mà bắt đầu lại từ nơi hai người họ quen nhau!
Lửa cháy ngút trời, dưới Bác Phụ sơn đầy rẫy những luồng khí nóng rực và dung nham bỏng rãy.
A Hành thận trọng dò từng bước, đột nhiên sau lưng vang lên một tiếng rên rỉ khiến bước chân nàng chợt khựng lại. Nàng chẳng ngoảnh đầu nhưng cũng chẳng dám đi tiếp nữa, bèn dè dặt lùi mấy bước. Thình lình “đoàng” một tiếng, luồng khí nóng từ dưới đất bừng lên, nổ tung tất cả đất đá xung quanh.
Sau lưng vang lên tiếng cười của Xi Vưu, “Vợ yêu, sao cô lại dừng?”
A Hành nghiến răng ken két vì giận, chỉ muốn bỏ đi ngay lập tức, mãi mãi không gặp lại gã Xi Vưu này nữa, nhưng hắn vốn là kẻ nói được làm được, nếu hôm nay nàng đi, lửa trên Bác Phụ sơn này ắt sẽ chẳng bao giờ tắt.
A Hành tiếp tục đi, còn Xi Vưu đằng sau tiếp tục cười đùa cợt nhả, liến thoắng gọi nàng “vợ yêu” này, “vợ yêu” nọ. Đầy một bụng tức tối không biết trút vào đâu, nàng đành nghiến răng làm thinh.
Đi đến một vũng lầy, A Hành lội thẳng xuống, sau lưng nghe tiếng ho khù khụ của Xi Vưu.
Thấy hắn ho, nàng khoái chí cười nhạt, càng dần bước nhanh hơn, chẳng buồn ngó ngàng tới hắn.
Muôn vàn bọt khí vàng ệch đem theo hơi độc trong lòng đất ùng ục nổi lên, Xi Vưu càng lúc càng ho rũ rượi nhưng A Hành cứ tảng lờ, đắc ý nghênh ngang đi tiếp.
“Ài, ta quên khuấy đi mất, vợ yêu đã đọc Thần Nông Bản Thảo Kinh, đâu có coi chất độc này ra gì? Xem ra cô nhớ kỹ mấy thứ ông già kia dạy nhỉ!” Tiếng cười vang lên từ phía sau.
A Hành giận dữ siết chặt nắm tay như muốn bóp chết chính mình, tránh vỏ dưa gặp vỏ dừa, nàng đành gân cổ vặc lại: “Ta vốn có chuyện nhớ chuyện quên, lạ lắm à?”
Thân thể hiện giờ của A Hành được hoài thai tạo Ngu uyên, sinh ra ở Thang cốc nên chẳng hề sợ lửa, nàng đi thoăn thoắt, chẳng bao lâu đã tới dưới chân Bác Phụ sơn, chỉ mất phân nửa thời gian so với trước đây.
Thấy nàng bắt đầu trèo lên núi, Xi Vưu lếch thếch chạy theo, vừa chạy vừa rên rầm, “Vợ yêu, cô đi từ từ thôi, ta đau quá, không trèo nổi đâu.”
A Hành tảng lờ hắn, nhưng trong bụng rủa thầm, “Vờ vịt! Ngươi cứ vờ vịt tới chết luôn đi!”
Mấy quả cầu lửa bay xuống, A Hành chẳng buồn né tránh, chỉ phẩy tay nhẹ nhàng gạt chúng ra. Đột nhiên sau lưng nàng vang lên tiếng hét thảm thiết, A Hành nhịn không nổi, cười nhạt giễu, “Đại tướng quân, ngài vờ vĩnh suốt cả chặng đường không mệt sao?”
“Vợ yêu, cứu ta với…”
A Hành ngán ngẩm lắc đầu, tiếp tục đi.
Đi mãi một hồi lâu, sau lưng nàng vẫn im ắng như tờ.
Dọc đường Xi Vưu không liến thoắng chọc ghẹo A Hành thì cũng rên rẩm kêu đau, khiến nàng vừa bực vừa tức, nhưng nãy giờ chẳng thấy hắn lên tiếng, nàng lại cảm thấy có gì thiêu thiếu.
“Xi Vưu, ngươi chán vờ vịt rồi à?”
Không nghe tiếng đáp, A Hành bỗng thấp thỏm, chẳng hiểu tên Xi Vưu này lại bày quỷ kế gì! Dù sao, nàng cũng nhủ lòng sẽ không mắc lỡm hắn.
Nhẫn nhịn hồi lâu, sau cùng A Hành đành mượn cớ vén vạt váy để khom người xuống, lén liếc ra sau, nhưng Xi Vưu đã biến mất!
Nàng vội quay ngoắt lại nhìn quanh, chỉ thấy rợp trời lửa đỏ, nào đâu kẻ vận hồng bào ngông nghênh đáng ghét kia.
A Hành vội vã vòng lại, trông thấy Xi Vưu ngất lịm bên đường, cả người đầy bùn đất, may có tảng đá gồ lên chặn lại, bằng không ắt đã lăn xuống vực.
Nàng cau mày bực bội, “Này, ngươi đừng làm bộ nữa được không?”
Bốn bề im ắng.
A Hành do dự lại gần kiểm tra thân thể hắn, mới phát hiện ra Xi Vưu quả thật bị trọng thương chứ chẳng phải giả vờ.
Trong Diệt Ma trận, hắn từng bị thương rất nặng, vẫn chưa khỏi hẳn, vì tranh đoạt A Hành mà hứng chịu một chưởng của Thiếu Hạo, chưa kịp điều tức đã phải cưỡi Tiêu Dao bay khắp nơi, còn bất chấp thương thế, gắng ngưng tụ linh lực thiêu cháy Bác Phụ sơn. Dọc đường hắn vẫn cố gượng duy trì, gắng chịu đau, mãi đến khi sức tàn lực kiệt, không sao chịu nổi nữa mới ngất lịm đi.
Cả người Xi Vưu nóng như hòn than, mặt đỏ bừng, nhưng vẫn mơ màng hé mắt ra nhìn rồi cười toe toét: “Vợ yêu, lại phiền cô cõng ta rồi!”
A Hành trừng mắt lườm hắn, tức đến nỗi thở hồng hộc, mãi một lúc lâu cũng chẳng biết làm sao, đành xốc hắn lên lưng cõng đi, “Ta bảo cho mà biết, ngươi còn dám nói hươu nói vượn, ta sẽ quăng luôn vào lửa cho chết đấy!”
“Cô đành lòng sao? Chỉ sợ ta đau thân thể còn cô đau lòng thôi.” Đã bị thương đến đi không nổi nhưng cái miệng trơn như mỡ của Xi Vưu vẫn chưa chừa, liến thoắng lấn át A Hành.
A Hành chẳng nói chẳng rằng đi thẳng tới bên vách đá, làm bộ ném xuống, khiến Xi Vưu phát hoảng, cuống quýt xin tha, “Được rồi, được rồi, cô nói được làm được, nói được làm được mà!”
A Hành cười nhạt, cõng hắn đi tiếp.
Xi Vưu mê mệt vì sốt, gục đầu lên vai A Hành, chốc chốc lại cười khùng khục.
“Ngươi cười cái gì?”
“Cười cô ngốc chứ gì! Năm xưa, nhằm thăm dò cô, ta cố ý biến hóa để mình nặng trịch như núi, vậy mà cô chẳng hề nhận ra, vẫn lầm lũi cõng ta đến nỗi mồ hôi đầy đầu, còn sợ ta bị lửa thiêu.”
A Hành nghiến răng nghiến lợi vì tức, nhưng ngoài miệng chỉ hờ hững đáp, “Ngươi ích kỷ đa nghi như thế, hèn chi ta chẳng nhớ gì về ngươi, xem như ngươi ác giả ác báo!”
Thấy Xi Vưu nín lặng không đáp, A Hành lại lo lắng gọi: “Ngươi đừng có ngủ, kẻo nhiệt độc trên núi xâm nhập vào tâm mạch đó.”
Xi Vưu gục mặt vào cổ A Hành thì thào bên tai nàng: “A Hành, là ta ác giả ác báo!”
A Hành làm thinh, gắng trèo lên tới đỉnh núi rồi đặt Xi Vưu xuống, “Ngươi cố chịu đựng một lát, để ta đi dập lửa.”
Xi Vưu níu nàng lại: “Hay là ta đi cùng!”
Nàng chán nản mắng: “Điên à! Đốt lửa cũng là ngươi, dập lửa cũng là ngươi, ngươi không cần mạng thì thôi, nhưng đừng xem thường mạng sống của người khác chứ!” Dứt lời nàng giằng tay hắn ra, “Ngồi yên đấy chờ đi!”
A Hành rút cây trâm ngọc chạm hình Huyền điểu trên tóc xuống, loại thủy ngọc này do thủy linh vạn năm dưới Quy khư ở Cao Tân ngưng tụ mà thành, có thể chống lửa, biến hình, trị thương, đúng là trân bảo hiếm có. Đây là sính lễ năm xưa Cao Tân quốc đưa tới nhưng nàng chưa từng mang, mãi tới lần này, Luy Tổ mới lục ra cài lên tóc nàng, những mong thân thể nàng mau khỏe lại, nào ngờ…
A Hành khẽ thở dài, quăng thủy ngọc trâm ra, lập tức cây trâm biến thành một con Huyền điểu xanh biếc như nước, cất tiếng kêu thánh thót. Được linh lực của nàng thúc động, Huyền điểu liền vỗ cánh bay về phía ngọn lửa, bay đến đâu lửa tắt đến đó, không hổ là thủy linh của vạn thủy. Huyền điểu bay lòng vòng quanh Bác Phụ sơn, mãi tới khi dập xong lửa mới ung dung đỗ xuống đỉnh núi, biến thành một tảng đá hình Huyền điểu, phong kín mắt lửa lại.
Ngọn lửa tắt ngúm trả lại một bầu trời đêm thăm thẳm, A Hành ngẩng đầu ngắm nhìn muôn ngàn vì sao lấp lánh giăng khắp nền trời, hệt như vô vàn viên bảo thạch.
Nàng ngoảnh lại nhìn Xi Vưu, mái tóc dài mượt không có trâm cài xõa tung, tuôn chảy, dưới ánh sao, càng toát lên vẻ quyến rũ mê người.
Xi Vưu uể oải tựa lưng vào tảng đá ngắm A Hành, mặt tươi hơn hớn.
A Hành đỡ hắn dậy hỏi, “Ngươi định đi đâu dưỡng thương đây?”
“Cửu Lê.” Hắn khẽ vuốt tóc nàng rồi tiện tay vấn lại, dùng Trụ Nhan hoa cài lên.
A Hành biến hẳn sắc mặt, rút phắt Trụ Nhan hoa xuống ném trả Xi Vưu, “Ta đưa ngươi đi một lần cuối cùng! Nếu ngươi còn bám lẵng nhẵng như đỉa đói thì đừng trách hai tộc Cao Tân Hiên Viên không khách khí!” Ánh mắt nàng lạnh buốt, thấp thoáng sát khí vương giả hiếm hoi.
Xi Vưu ủ rũ, đành nín lặng dựa vào A Hành, người nóng như lửa đốt, hơi thở rối loạn.
Dường như hắn và Tiêu Dao tâm ý tương thông, mới đó đã thấy Tiêu Dao lù lù xuất hiên, xẹt xuống như sao băng. A Hành nửa ôm nửa đỡ Xi Vưu ngồi lên lưng nó, “Tiêu Dao, ngươi bay chậm thôi. Xi Vưu đang bị thương, linh lực của ta không khống chế được tốc độ quá nhanh đâu.”
Tiêu Dao khẽ gục gặc đầu rồi dang cánh từ từ bay về phía Cửu Lê.
Gió đêm lành lạnh, sao sáng đầy trời, Tiêu Dao bay chầm chậm, A Hành cũng chẳng buồn để ý đến Xi Vưu nữa, chỉ chăm chú ngắm nhìn cảnh sắc xung quanh.
Sau khi rời khỏi Bác Phụ quốc, bầu trời sao sáng dần thưa thớt hẳn khiến A Hành tiếc rẻ mãi, may mà giữa biển mây vẫn còn một vầng trăng tròn vành vạch, mây đuổi trăng, trăng vờn mây, cũng là cảnh đẹp hiếm thấy.
Xi Vưu khẽ nói: “Lần đầu tiên ta tới Triêu Vân phong tìm cô rồi A Tệ đưa cả hai bỏ trốn cũng vào một đêm trăng sáng thế này, dạo đó tuy ta bị Đại ca cô đánh trọng thương, nhưng trong lòng rất hạnh phúc.”
A Hành nhắm mắt lại không ngắm trăng nữa, dùng hành động trực tiếp trả lời hắn.
Nhìn một A Hành lạnh lùng trước mặt, Xi Vưu chợt hoang mang, trời nghiêng có thể chống, đất lệch có thể đắp, nhưng cõi lòng tan nát rồi có vá víu lại được chăng? Biết dùng cái gì để vá víu đây?
Thấy Tiêu Dao đột nhiên đỗ xuống, A Hành liền mở bừng mắt nhìn quanh, “Đây không phải Cửu Lê, mày đưa chúng ta đến đâu thế?”
Tiêu Dao phớt lờ nàng, cứ thế dang cánh bay thẳng, bỏ lại Xi Vưu và A Hành giữa vùng hoang sơn.
A Hành tức tối giậm chân bình bịch, Xi Vưu ức hiếp nàng đã đành, ngay đến con chim của hắn cũng bắt nạt nàng nữa!
“Xi Vưu, Xi Vưu, tỉnh dậy đi, chúng ta lạc đường rồi.” A Hành lắc lắc Xi Vưu.
Xi Vưu sốt mê man, khó chịu cau rúm mày lại.
A Hành bắt mạch cho hắn, thấy khó mà chịu nổi đến khi tới Cửu Lê, phải sắc ít thuốc trị thương ngay đã. Nàng nhìn quanh nhìn quất, thấy hai bên đường núi non trùng điệp, cây cối xanh rì, lại thêm một khe suối nhỏ uốn mình, chảy xuyên qua hẻm núi.
A Hành liền cõng hắn men theo khe suối mà đi, vừa đi vừa tìm hái thảo dược.
Tùy theo hẻm núi khi rộng khi hẹp, khe suối cũng có khúc chảy xiết, có quãng chảy chậm, A Hành cõng theo Xi Vưu, hành động vô cùng khó khăn, lại thêm đá suối trơn như bôi mỡ, hai người cứ chệnh choạng mà đi, ướt sũng cả quần lẫn giày, may mà hái được không ít thảo dược.
Đi mãi đến hồ nước, khe suối cũng đổ vào trong hồ này, bên hồ lô nhô mấy tảng đá, A Hành bèn chọn một phiến đá bằng phẳng, đặt Xi Vưu lên.
Nàng nghiền nát thảo dược, múc nước hồ chiêu cho Xi Vưu uống rồi cởi bỏ y phục của hắn, dùng mười mấy ngọn lá thông lớn có nhỏ có, ngưng tụ linh lực châm vào huyệt đạo hắn nhằm khơi thông linh khí, làm dịu cơn đau. Chẳng có linh đan diệu dược gì, A Hành đành đốt ngải cứu hơ vào đỉnh đầu và gan bàn chân hắn, dốc hết linh lực bức nhiệt khí trong cơ thể hắn ra. Nhờ đó, Xi Vưu dần dần hạ sốt.
A Hành dù sao cũng mới ốm dậy, tất bật nãy giờ khiến nàng mệt lử, rã rời cả tay chân, bèn bó gối ngồi nghỉ bên cạnh.
Xung quanh hồ lởm chởm toàn đá là đá, lại thêm cây cối rậm rạp, ánh trăng len qua tán lá chiếu lên mặt đá thành những đốm tròn nho nhỏ, trăng rọi bóng cây, cây soi xuống suối, suối vỗ vào đá, đá nâng niu bóng trăng, trong tĩnh có động, trong động có tĩnh, đẹp không bút nào tả xiết.
A Hành khoan khoái hít sâu mấy hơi, thấy vô cùng dễ chịu. Giày và quần nàng đã ướt sũng lúc lội qua suối, lại dính đầy bùn đất, đi rất khó chịu. Thấy Xi Vưu đã ngủ say, hơi thở trầm trầm, hẳn chưa thể tỉnh ngay được, nàng liền rón rén cởi bỏ y phục, ngâm mình xuống hồ, gột sạch quần và giày vắt lên tảng đá cho khô rồi ngoảnh lại trông chừng Xi Vưu, thấy hắn vẫn mê mệt, nàng yên tâm ngụp xuống hồ bơi lặn.
Nàng vui vẻ thi với đàn cá dưới nước, bơi từ bên này hồ sang bên kia hồ, rồi lại từ bên kia bơi về xem ai nhanh hơn, chợt thấy bao phiền não trong lòng đều tan đi theo làn nước.
Núi non bốn bể xanh biếc một màu như vẽ, đỉnh vút tận mây, khiến cả khung trời bất giác trở nên chật hẹp, vầng trăng tròn vành vạnh đang treo trên mảnh trời nhỏ hẹp đó, A Hành nằm ngửa trên mặt nước, giơ tay ra toan chạm vào mặt trăng, tuy biết rõ không thể nào chạm được nhưng vẫm thích giơ tay ra. Có lẽ nàng thích động tác vớt lấy mặt trăng bởi nó khiến lòng vô cùng khoan khoái, cũng có lẽ nàng chỉ thích ngắm làn nước trong veo chảy dài qua kẽ ngón tay mình, ánh trăng bàng bạc rọi xuống, trông như muôn ngàn viên ngọc long lanh, rơi tí tách xuống mặt hồ phẳng lặng tựa gương.
Đột nhiên, mấy cánh hoa đào đỏ thắm từ đâu bay lại, đậu xuống má A Hành. Nàng nhón lấy cánh hoa vẻ ngạc nhiên, bấy giờ đã là giữa hạ, lấy đâu ra hoa đào? Ngấng đầu trông lên, bấy giờ đã là giữa đỉnh núi, sườn núi xung quanh đều hồng rực sắc đào, sắc thắm ấy còn tiếp tục lan xuống dưới, chỉ lát sau, ngàn vạn gốc đào đã theo nhau nở rộ khắp cả đất trời đang chìm trong đêm tối cũng sáng bừng lên.
Ánh trăng trong như nước dịu dàng soi xuống, cánh đào rụng lả tả như mưa, khi mau lúc thưa, không ướt áo cũng chẳng lạnh người, chỉ thoang thoảng hương thơm ngan ngát.
Nhìn hoa bay rợp cả đất trời, A Hành như lạc vào cõi mộng, mơ màng ngoảnh lại, bắt gặp Xi Vưu đang ngồi trên tảng đá tươi cười ngắm hoa đào nở rực núi đồi, sắc mặt hắn tái nhợt, toàn thân run rẩy, hiển nhiên đã tốn rất nhiều linh lực mới có thể nghịch thiên tạo nên khung cảnh này.
“Ta trị thương cho ngươi không phải để ngươi vận linh lực làm hoa nở trái mùa.”
Xi Vưu ngẩng đầu ngắm vầng trăng vằng vặc, lẩm bẩm một mình: “Năm trăm năm trước, linh lực của ta còn rất thấp, Chúc Dung kéo theo một đám cao thủ Thần tộc tới đuổi giết ta, ta trọng thương, lại phải chạy quanh tìm nơi lẩn trốn, nhưng không sao trốn thoát. Khi chạy tới nơi này, ta nghĩ mình chẳng cầm cự được bao lâu nữa, nhưng ta thà chết cũng không muốn chết trong tay Chúc Dung. Trong lúc tuyệt vọng toan tung mình nhảy xuống vách núi, đột nhiên ta trông thấy một thiếu nữ áo xanh, tay vén váy, tay xách giày đi vào sơn động. Bấy giờ đương là lúc hoa đào nở rộ, giống như hôm nay vậy, rực rỡ đầy trời, đẹp như giấc mộng.”
Xi Vưu chìa tay ra hứng lấy những cánh hoa đào, mỉm cười nhìn nàng, “Cô thiếu nữ đó cũng lội xuống nước nô đùa hệt như bây giờ, chẳng khác nào tinh núi hồn hoa. Ta nấp trên đỉnh núi nhìn nàng, cảm nhận được sức sống căng tràn của ngày xuân, còn ta giống như loài dã thú động tình giữa mùa xuân, trong khoảnh khắc ấy, thân thể mới thật sự cựa mình tỉnh giấc, linh trí cũng theo đó mà thức tỉnh, lần đầu tiên nhận ra mình là ai.”
Nói rồi, hắn tuột khỏi tảng đá bước xuống hồ, tiến về phía A Hành. Nàng chợt thấy miệng khô lưỡi ráo, vội lùi lại, may sao trên mặt nước rụng đầy cánh hoa, che đậy giùm thân thể nàng.
Xi Vưu kể tiếp: “Ta chẳng rõ mình có cha mẹ hay không, càng chẳng biết mình từ đâu tới. Từ khi hiểu chuyện, ta đã sống cùng dã thú trong khe núi, nhưng lớn lên, hình dáng ta lại khác hẳn loài hổ báo. Thuở nhỏ, ta cũng thắc mắc vì sao mình không giống bọn chúng, tại sao chúng có vô số đồng loại mà ta chỉ trơ trọi một mình, ta muốn tìm được một kẻ làm đồng loại. Ta lẻn đến gần sơn trại, lén nhìn đám trẻ nô đùa, học tiếng của bọn chúng, bắt chước bọn chúng đi bằng hai chân, thậm chí còn trộm quần áo của chúng mặc lên mình cho giống với chúng, những muốn được chơi đùa cùng chúng, nhưng đám trẻ ném đá vào ta, phụ nữ lấy lửa đốt ta, đàn ông bắn tên vào ta, ta đành chạy tháo thân vào núi.”
Xi Vưu chỉ vào trái tim mình, “Lúc đó linh trí ta chưa thức tỉnh, còn chưa hiểu tại sao nơi này lại khó chịu đến thế, ta nổi giận giết sạch gia súc của họ, phá sập nhà họ, khiến bọn họ trông thấy ta là vắt giò lên cổ chạy, không dám bắn ta đánh ta nữa, nhưng chỗ này của ta vẫn chẳng dễ chịu chút nào, trái lại càng đau đớn hơn. Ta nấp trong bóng tối nhìn trộm họ, thấy mỗi khi uống rượu họ đều cười rộ lên vui vẻ, bèn đánh cắp rượu của họ, học theo bọn họ uống rượu, ngỡ rằng trong vò rượu có giấu bí mật để tươi cười vui vẻ, nhưng ta luyện mãi đến ngàn chén không say vẫn chẳng phát hiện ra bí mật gì cả, rốt cuộc phải làm sao mới có thể vui vẻ tươi cười đây?”
Xi Vưu thẫn thờ ngẩng mặt nhìn ánh trăng vằng vặc giữa trời, dáng vẻ bất lực chưa từng thấy ở hắn khiến A Hành kinh ngạc. Xem ra, dù ngày nay đã tung hoành bốn bể, đánh đâu thắng đó, nhưng hình bóng Tiểu Xi Vưu cô độc bơ vơ vẫn luôn canh cánh trong lòng hắn.
“Viêm Đế nói muốn mang ta tới Thần Nông sơn, tuy bề ngoài ta tỏ vẻ rất miễn cưỡng, khiến ông ta phải mời ta, cầu ta, nịnh nọt ta, nhưng kỳ thực trong lòng ta rất vui. Xưa nay chưa một ai mời ta tới nhà mình chơi cả, Viêm Đế là người đầu tiên. Ta lên Thần Nông sơn theo Viêm Đế học làm người, nơi đó có rất nhiều kẻ giống ta, ta có thể cùng bọn họ ngồi bên đống lửa uống rượu, nhưng ta còn cô độc hơn thuở sống trong rừng. Dạo ở trong rừng, ít ra ta có thể tự do tự tại nhảy nhót tung tăng, cao hứng thì hú lên, giận dữ thì gào rú, nhưng trên Thần Nông sơn, ta không thể sống hoang dã như thế được. Những kẻ tưởng chừng là đồng loại của ta luôn nhìn ta bằng ánh mắt sắc lạnh như dao, chúng e sợ ta, căm ghét ta, cười nhạo ta là cầm thú, chỉ có ta ngốc nghếch đáp lời hết lần này sang lần khác, còn ngỡ rằng có thể chơi đùa với chúng, làm đủ mọi động tác như chúng yêu cầu, nào là đi bốn chân như sói, nhảy nhót trên cành giống khỉ, chúng cười ta, ta cũng ngẩn ngơ cười với chúng. Tới khi bị Du Võng bắt gặp, mắng cho chúng một mẻ, ta mới hiểu ra cầm thú là để sỉ nhục, chúng bắt ta biểu diễn những động tác kia để làm nhục ta. Ta căm ghét ánh mắt bọn chúng, ghét tiếng cười của chúng, ta không muốn làm người nữa! Nghĩ là làm, ta liền phá sập học đường, trốn khỏi Thần Nông sơn. Du Võng nửa đêm đuổi theo ta, khuyên ta quay lại nhưng ta đánh y chửi y, đuổi y về, ấy vậy mà y vẫn đi cùng ta, còn nói ‘Chỉ cần ngươi tìm được nơi mình thực sự muốn đến, ta sẽ đi ngay. Ngươi muốn đi đâu?’ Ta ngẩn người ra, không biết phải trả lời y thế nào nữa. Dã thú trong núi lớp lớp chết đi, rồi lớp khác sinh ra, những con dã thú quen biết ta khi xưa đã chẳng còn, ngọn núi này hay ngọn núi khác cũng thế cả, chẳng có ý nghĩa gì với ta, bốn phương tám hướng đều là đường đi, nhưng ta biết phải đi đâu đây? Đông Tây Nam Bắc với ta cũng như nhau, chẳng có gì khác biệt. Ta đứng ngây ra giữa giao lộ, từ nửa đêm đến sáng sớm, từ sáng sớm đến hoàng hôn, thiên hạ rộng lớn, nhưng ta lại chẳng biết phải đi về đâu. Du Võng vẫn một mực đứng đó cùng ta, y hỏi, ‘Sao ngươi lại bằng lòng theo phụ vương về Thần Nông sơn? Sao lại muốn làm người?’, ta sực nhớ tới lúc mình hú lên trên đỉnh núi, nàng thiếu nữ dưới khe suối đó đã ngẩng đầu nhìn ta, nhoẻn miệng cười với ta.”
Xi Vưu cúi đầu nhìn A Hành, “Nhớ lại hình ảnh nàng khi ấy, ta bỗng thấy làm người cũng chẳng đến nỗi vô vị, dù chỉ để có được nụ cười ấy trong một khoảnh khắc thôi. Nhận ra lòng ta có khúc mắc, Du Võng ôn tồn nói, ‘Làm người không tồi tệ đến thế, phải không? Chúng ta về thôi.’ Cuối cùng ta theo Du Võng trở về Thần Nông sơn.”
A Hành nhìn Xi Vưu, há hốc miệng vì kinh ngạc. Hắn ôn hòa cười, “Bốn trăm bảy mươi năm trước, chính tại khe núi này, ta đã gặp cô lần đầu. Nhất định cô không nhớ được chuyện này.”
A Hành cắn môi không đáp. Đêm hôm đó, thấy một con dã thú ngẩng đầu tru lên dưới ánh trăng, nàng đã ngước nhìn rồi tươi cười vẫy tay với nó, bởi trong khoảnh khắc đó, cả đất trời không chỉ thuộc về nàng, mà còn thuộc về nó.
Xi Vưu và A Hành cùng đứng dưới hồ, mặt đối mặt, cánh đào rơi lả tả như một tấm màn the hồng nhạt, phủ mờ diện mạo cả hai.
Xi Vưu ngước mắt ngắm hoa bay tơi tả khắp trời, chậm rãi kể tiếp: “Nhờ Viêm Đế dạy bảo, qua hai trăm năm cần cù học tập, ta đã trở thành một kẻ rất ra dáng con người, ta biết phẩm trà bình rượu, gảy đàn thổi sáo, cũng hiểu cả những lễ nghi phiền phức chán ngắt, giỏi tán hươu tán vượn. Hai trăm bảy mươi năm trước, Chúc Dung luyện công bằng địa hỏa của Bác Phụ sơn, khiến cả Bác Phụ quốc khói lửa ngút trời, tiêu điều hoang vắng, tên ngốc Du Võng lòng dạ thiện lương nghe được tin đó bèn nài nỉ ta tới Bác Phụ quốc điều tra thực hư. Đương lúc ta tra rõ mọi sự, chuẩn bị quay về, đột nhiên ngoảnh lại, ta liền trông thấy thiếu nữ áo xanh kia đang từ phía ráng chiều khoan thai tiến đến. Niềm vui bất ngờ khiến ta đờ cả người, nhưng ta không dám tiếp cận nàng, thậm chí còn hoảng hốt đến nỗi định co chân bỏ chạy.”
A Hành mấp máy môi như chẳng thốt nổi tiếng nào, kẻ luôn lao về phía trước như Xi Vưu mà cũng có lúc khiếp sợ ư?
Xi Vưu kể lại: “Hơn sáu trăm năm trước, có một thằng nhỏ theo cha vào núi đi săn, cha nó bị hổ vồ, nó cũng sắp bị hổ ăn thịt. Trông thấy thằng bé đó, ta rất vui mừng, bèn cứu mạng bọn họ, giữ thằng nhỏ lại chơi cùng ta. Ta cùng nó cưỡi hổ ngao du khắp rừng, còn sai vượn hái những quả ngon nhất trên vách núi cho nó ăn, bắt chim cho nó nghe tiếng hót, dắt nó đi xem tất cả hang động của ta, để nó ngủ trên chiếc ổ êm ái nhất của ta. Ta rất thích chơi với nó, cứ ngỡ rằng nó cũng thích chơi với ta, nào ngờ lòng nó vẫn luôn hướng về làng cũ, chỉ giả bộ vui vẻ chơi đùa cùng ta thôi. Khi đó ta chỉ biết mừng rỡ thì rú rít, giận dữ thì kêu gào, tưởng rằng thỏ không thích chơi với sói, hễ thấy sói là chạy, nào hiểu được lòng người đa đoan xảo trá. Một thời gian sau, khi nó đã tường tận tất cả hang ổ của ta, cha nó liền dẫn đám thợ săn tới giết ta.” Xi Vưu chợt ngừng lời, rồi hờ hững bổ sung, “Là nó dẫn đường.”
Thấy ánh mắt A Hành long lanh lệ, Xi Vưu cười nhạt, “Ta rơi vào cảnh thập tử nhất sinh, nhưng cuối cùng vẫn sống sót. Ta giết nó, giết cha nó, giết cả đám thợ săn! Để diệt trừ ta, dân chúng mấy thôn đã hè nhau phóng hỏa đốt rừng, khiến ta vắt chân lên cổ mà chạy. Bọn chúng phát hiện ta bị trúng tên nên cứ đuổi riết, ta phải trốn chui trốn nhủi từ núi này sang núi khác, sau cùng chạy đến Cửu Lê. Ta nấp dưới đáy hồ, nghe thấy bọn chúng yêu cầu Cửu Lê tộc hợp sức cùng giết ta, nào ngờ bị vu sư Cửu Lê từ chối. Ông ta nói, ‘Lúc đói săn thú lấy thịt ăn, khi rét săn thú lấy da mặc, không đói không rét thì giết muông thú làm gì?’”
Nghe Xi Vưu tâm sự, A Hành vô cùng ngạc nhiên, nàng cứ ngỡ Xi Vưu sinh ra lớn lên ở Cửu Lê, nào ngờ hắn lại không phải người gốc Cửu Lê, chuyện này e rằng Viêm Đế cũng chẳng biết. Người ta vẫn nói thỏ khôn có tới ba hang, chẳng rõ Xi Vưu có bao nhiêu cái.
Hắn cười nhạt kể tiếp: “Hơn sáu trăm năm nay, con người không sợ hãi ta thì muốn lấy mạng ta, ngay cả Viêm Đế đối tốt với ta nhất cũng hạ độc ta vì an nguy của tộc dân, nhưng ta vẫn một lòng kính trọng, xem ông như cha mình, bởi ông chưa từng lừa dối ta. Có lần ông dạy ta viết hai chữ đại nghĩa, ta hỏi thế nào là đại nghĩa, ông giải thích cả nửa ngày ta vẫn ù ù cạc cạc, sau cùng ông lấy một ví dụ, nếu buộc ông phải lựa chọn giữa ta và tộc dân của mình thì dù áy náy vô cùng, ông cũng phải kiên quyết xuống tay giết ta, đó chính là đại nghĩa. Có lần ông đã thản nhiên nói rằng, năm đó ông muốn nhận ta làm đồ đệ vì thấy ta có thiên bẩm, ngày sau có thể giúp ông bảo vệ Thần Nông quốc. Cả gã Du Võng mà ta coi như huynh trưởng kia nữa, thực ra ta rất không đồng tình với cách làm việc mềm dẻo nhu nhược, thiếu quyết đoán của y, nhưng vì y là kẻ thành thực nên ta vẫn luôn coi y là huynh đệ, trung thành với y, có điều, nếu một ngày y phản bội lại lời thề, quay ra nghi ngờ ta, ta sẽ là người đầu tiên giết chết y!”
A Hành trân trân nhìn Xi Vưu, hắn cũng chăm chú nhìn nàng, “Ta không để bụng việc những kẻ khác săn đuổi ta, nhưng ta không thể tha thứ cho thằng bé dẫn thợ săn tới bắt ta! Ta có thể bỏ qua cho những kẻ khác gạt ta, nhưng nhất định không tha thứ cho Viêm Đế hay Du Võng nếu họ lừa dối ta! Hai trăm bảy mươi năm trước, ta trơ mắt nhìn cô quay lưng bỏ đi mà không dám tiếp cận, vì ta sợ đến một ngày nào đó, ta sẽ giết cả cô!”
A Hành chợt ớn lạnh cả người, chẳng biết là lạnh do nước hồ hay run rẩy trước câu nói của Xi Vưu.
Xi Vưu cười giễu: “Ta sống sót được đến giờ chính bởi ta là dã thú, ta có thừa xảo trá, độc ác và tàn nhẫn.”
Nhưng con “dã thú” này để trả ơn vị vu sư Cửu Lê đã có lời bênh vực y, liền nhận mình là người Cửu Lê, bảo vệ Cửu Lê suốt mấy trăm năm, không tiếc đánh đổi cả sinh mạng chống chọi với Thần tộc, biến những người dân hèn hạ từng bị rẻ rúng trở thành một bộ tộc sản sinh ra các anh hùng; biết rõ Viêm Đế lợi dụng mình để bảo vệ Thần Nông mà vẫn hào sảng hứa phò trợ Du Võng.
Chân trời đằng Đông đã sáng lên tự lúc nào, ánh nắng mai lành lạnh chênh chếch rọi qua tán lá, chiếu lên mình hai người thành những mảng sáng tối giao thoa, khi lạnh khi ấm.
Xi Vưu đăm đăm nhìn A Hành, “Ta sinh ra trong núi hoang, lớn lên giữa bầy dã thú, gia thế, học vấn và phong thái đều không bì được với Thiếu Hạo, cũng chẳng thể giống như y, cho cô địa vị cao quý nhất, để cô trở thành vương hậu một nước, khiến cả thiên hạ phải kính trọng cô. Đi theo ta, nhất định cô sẽ bị người đời xỉ vả, nhưng… Nếu cô vẫn không muốn nhớ lại mọi chuyện về ta, ta sẽ trao cho cô thứ duy nhất mà ta có.” Xi Vưu đấm mạnh tay vào ngực mình, sang sảng nói, “Chính là trái tim ta!”
A Hành bĩu môi toan cười nhạt, nhưng nhìn gã Xi Vưu có đôi phần xa lạ trước mặt, nàng không sao nhếch mép nổi. Hắn đã trút bỏ tất cả lớp ngụy trang bề ngoài, tựa như rắn độc bẻ đi răng nanh, hổ sói thu lại móng vuốt, nhím xù cởi bộ lông gai lởm chởm, bộc lộ phần hồn yếu đuối nhất, mong manh nhất trước mặt nàng, chẳng còn đâu một Xi Vưu ngông nghênh tùy tiện, ngạo mạn thờ ơ, lạnh lùng giễu cợt tất thảy, giờ đây đứng trước nàng chỉ là một nam tử bình phàm từng gánh chịu tổn thương, đã hiểu được thế nào là đau đớn, thế nào là xót xa, càng hãi sợ phải nhận lấy đau thương lần nữa.
Thấy A Hành ngập ngừng không nói, Xi Vưu cũng làm thinh, đăm đăm nhìn nàng, ánh mắt thăm thẳm muôn ngàn lời mà chẳng thốt nổi một câu. Hồi lâu hắn quay lưng lội vào bờ, mặc lại quần áo, “A Hành, bất kể cô quên thật hay vờ, ta nói cho cô biết, cô là người phụ nữ của ta, ta cũng là người đàn ông của cô, trước đây là thế, bây giờ là thế, sau này cũng là như thế. Nếu cô không muốn thì ngay bây giờ, nhân lúc ta đang bị trọng thương, giết phắt ta đi, bằng không đợi ta trị khỏi vết thương, nhất định sẽ bất chấp thủ đoạn bám riết lấy cô đấy!”
Xi Vưu đứng quay lưng về phía A Hành, bất động.
A Hành đứng lặng người, lòng quặn lên đau thắt, mãi một hồi lâu, nàng bèn lội vào bờ, bình thản mặc lại quần áo rồi lạnh lùng cất tiếng, “Được, vậy để ta giết ngươi!”
Nàng tiến về phía Xi Vưu, đặt tay lên lưng hắn, chỉ cần dồn linh lực ra, Xi Vưu sẽ lập tức đoạn khí mà chết.
Hắn nhắm nghiền mắt lại.
A Hành nghiến răng tống linh lực ra. Xi Vưu đã sức tàn lực kiệt, liêu xiêu ngã ngửa ra sau, đột nhiên, nàng ôm chặt lấy hắn, “Tại sao thà chết cũng không chịu buông tay?”
Sắc mặt Xi Vưu tái nhợt, hắn bình thản nhìn nàng, không gợn chút sợ sệt hay sầu lo trước cái chết, cũng chẳng còn vẻ xảo trá hung tàn, đôi mắt hắn thăm thẳm tựa hồ trong veo thấu đáy, chỉ còn in bóng riêng nàng.
A Hành giận dữ trừng mắt nhìn Xi Vưu, nước mắt nhòe mi: “Chàng thừa biết nếu chàng bị thương ta sẽ rất xót xa, vậy mà còn cố tình ép buộc ta. Thật lòng ta chỉ muốn giết quách tên khốn chuyên nghề hành hạ người ta như chàng…”
Xi Vưu thoạt nghe thấy nửa câu đầu đã nhoẻn miệng cười, lập tức lấy lại sinh khí, vòng tay siết chặt A Hành vào lòng. A Hành vội đẩy hắn ra, như không muốn để hắn ôm, nhưng động tác chẳng lấy gì làm quyết liệt, nàng giằng giằng co co với hắn một hồi, lòng nửa mừng nửa giận, nửa oán nửa ghét…
Xi Vưu ghì chặt nàng vào lòng, toàn thân run rẩy, chẳng rõ bởi mừng vui hay sợ hãi, hắn luôn miệng thì thầm: “A Hành, A Hành, A Hành, A Hành của ta…”
Những vùng vẫy của A Hành dần biến thành ôm ấp, hai tay nàng siết chặt Xi Vưu, rúc vào lòng hắn âm thầm khóc, khóc mãi khóc mãi, từ khóc thầm đổi sang thút thít, từ thút thít trở thành nức nở, sau cùng khóc đến kinh thiên động địa, như muốn trút hết bao đau đớn oan ức suốt mấy trăm năm.
Hau người ôm chặt lấy nhau, cả hai đều run lên. Xi Vưu dịu giọng dỗ dành, “Ta biết sai rồi, ta là đồ khốn, là đồ khốn không biết tốt xấu gì…”
A Hành nức nở khóc, đột nhiên nghẹn ngào lên tiếng: “Chúng mới là đồ khốn!”
“Ai cơ?”
A Hành vừa khóc đến đứt ruột đứt gan vừa giận dữ nói: “Mấy tên khốn dám hà hiếp chàng trên Thần Nông sơn chứ ai nữa!”
Xi Vưu thoáng ngẩn người, ai dám hà hiếp mình nhỉ? Hắn sực nhớ lại chuyện cũ, chỉ thấy lòng dạt dào vui sướng, tình ý triền miên, bao đau khổ tủi hờn đều biến mất theo câu nói này của nàng. Xi Vưu thở dài một tiếng, vòng tay siết chặt nàng vào lòng, như muốn hòa tan nàng vào cơ thể mình, đời này kiếp này không bao giờ chia lìa nữa.
Mặc cho Xi Vưu ra sức dỗ dành, A Hành vẫn khóc nức lên, càng khóc càng thảm thiết, mãi không chịu nín. Sợ nàng khóc nhiều sinh mệt, hắn bèn chín phần thật một phần giả xuýt xoa “ai da”. Quả nhiên A Hành quên khuấy thương tâm, vội cuống quýt kiểm tra vết thương của hắn, vừa chữa trị vừa trách móc: “Lần sau chàng còn dám bỏ mặc chuyện sống chết của bản thân thế này ta sẽ không phí sức mà trị cho chàng nữa đâu.”
Xi Vưu không đáp, chỉ lặng lẽ nhìn A Hành, nhìn nàng lo lắng cho hắn, xót xa cho hắn, cười vì hắn, khóc vì hắn, một làn hơi ấm trong sâu thẳm đáy lòng từ từ lan ra, khiến hắn quên hết mọi đau đớn trên mình.
A Hành định đi tìm hái thêm vài loại thảo dược, nhưng Xi Vưu níu nàng lại không cho đi.
“Ta đi rồi sẽ về mà.”
Xi Vưu vẫn chăm chăm nhìn A Hành lắc đầu quầy quậy, hệt như một đứa nhỏ bướng bỉnh.
A Hành đành bó tay, “Vậy vết thương của chàng làm sao đây? Chàng không muốn khỏe lại à?”
“Vết thương của ta ở trong lòng chứ không phải ở trên người, nàng chính là thuốc của ta rồi, chỉ cần nàng ở bên ta, vết thương của ta tự khắc sẽ khỏi thôi.”
A Hành vừa tức vừa buồn cười, “Nói vớ nói vẩn!”
“Thật mà, nàng quên rằng ta có thiên bẩm khác với mọi người à? Chỉ cần giữ tâm an tĩnh, hòa mình vào cùng trời đất, trời đất vạn vật đều có thể truyền cho ta linh khí, giúp ta trị thương.”
Xi Vưu dán mắt vào nàng, “Ta không nỡ ngủ, ta cứ muốn ngắm nàng thế này mãi mãi cơ, nhưng ta càng không nỡ để nàng lo lắng cho thương thế của ta. Thôi ta ngủ một lát nhé, nàng đừng đi đâu đấy.”
A Hành vừa xua tay ngăn ánh mắt chòng chọc của Xi Vưu, vừa đỏ bừng mặt, phì một tiếng mắng: “Muốn ngủ thì ngủ đi, làm gì có kẻ nào ngủ một giấc mà lắm lời thế?” Mắng thì mắng vậy, nhưng lòng nàng lại rộn lên vui sướng lẫn ngọt ngào.
Xi Vưu cười toe toét nhắm mắt lại, lập tức chìm vào giấc ngủ.
A Hành ngồi lặng ngắm hắn ngủ, nghe lòng bình thản lạ lùng, mí mắt cũng dần dần trĩu xuống. Đã hai ngày nay bị Xi Vưu hành tội, nàng chưa hề chợp mắt, bây giờ cũng mơ mơ màng màng thiếp đi.
Lúc mở mắt ra đã là chính Ngọ, vầng dương chói lóa đang treo trên đỉnh núi. Hai người chụm đầu vào nhau mà ngủ, đôi bên đều cảm nhận được hơi thở của người kia, đều biết đối phương đã tỉnh, nhưng không một ai lên tiếng, sợ phá vỡ cảm giác ấm áp lúc này.
Sơn cốc tĩnh mịch yên ắng, cây cối ngời lên xanh biếc dưới anh dương, càng tôn lên vẻ diễm lệ của hoa đào, lòng người vừa lắng lại, liền nghe thấy tiếng hoa rơi xao xác, tiếng nước róc rách luồn qua kẽ đá cùng tiếng chim cuốc văng vẳng trong núi.
A Hành hỏi khẽ: “Đêm đó chàng ở đâu?”
Câu hỏi của nàng không đầu không cuối, nhưng Xi Vưu vừa nghe đã hiểu, bèn cười cười chỉ lên đỉnh núi bên trái.
“Chàng nhìn thấy hết cả ư?”
“Ừ, nhìn rõ mồn một.”
A Hành vùi mặt vào vai Xi Vưu, đấm ngực hắn thùm thụp khiến Xi Vưu bật cười khanh khách vang cả sơn cốc. Đột nhiên hắn cảm thấy A Hành gục trên vai mình, chẳng nói chẳng rằng, vội thấp thỏm hỏi: “Nàng sao thế?”
A Hành nhỏm người ngồi dậy, vẻ mặt nghiêm trang như có điều muốn nói, nhưng tựa hồ lại có phần sợ sệt, không dám mở miệng. Xi Vưu cũng thu lại vẻ cười cợt đùa bỡn, chỉ ngồi yên lặng, dịu dàng nhìn nàng khích lệ.
“Ta không còn là A Hành khi xưa nữa, thật đó, không phải gạt chàng đâu, ta thực sự không còn là A Hành ngày trước nữa, ta có lẽ… là ma!”
Xi Vưu cười, chẳng hề để tâm: “Nguồn sức mạnh trong người nàng rất lạ, nhưng thế thì đã sao?”
A Hành khẽ đáp: “Còn rất đáng sợ nữa đó.”
Nàng bèn bước tới bên một cây đại thụ, đặt tay lên cây rồi thận trọng trút linh lực ra từng chút từng chút một, lập tức đại thụ ngàn năm bắt đầu khô héo, lá rụng rào rào, chỉ lát sau, cả thân cây đều cháy đen thui, A Hành nhấc tay ra.
Một cơn gió thổi qua, cả gốc đại thụ tan đi theo gió thành những mạt vụn đen sẫm, chẳng lưu lại chút dấu tích gì trên mặt đất, như thể chưa từng tồn tại, chỉ còn vảy tro tàn dưới chân A Hành, nhắc nhở rằng hết thảy đều là sự thật.
Sắc mặt A Hành tái xanh tái xám, nàng nhìn xuống tay mình, thấy run rẩy sợ hãi chính mình, ngoảnh đầu nhìn Xi Vưu, nàng cũng đọc thấy trong mắt hắn vẻ kinh hãi.
A Hành lên tiếng: “Đây mới chỉ là chút sức mạnh của ta thôi. Phụ vương rất sợ sức mạnh của ta, bèn cùng mẫu thân hạ cấm chế, giúp ta phong bế chúng lại. Đại ca còn dặn lại ta không được tiết lộ với bất kỳ ai, huynh ấy sợ người khác sẽ diệt trừ ta như diệt ma vậy.”
Xi Vưu tiến lại cầm lấy tay nàng, lòng bàn tay nàng đã tróc hết da, cánh tay cũng sưng phù lên như bị lửa đốt, nổi mụt nước lấm tấm. Hắn liền ngâm tay nàng xuống nước, giúp nàng trị thương, đoạn dịu giọng: “Lửa có thể sưởi ấm cho người, cũng có thể thiêu cháy người, nước có thể tưới mát cho cây, cũng có thể làm cây úng chết, mặt trời có thể giúp vạn vật sinh trưởng, cũng có thể khiến vạn vật tử vong, sức mạnh không có gì đáng sợ, chỉ sức mạnh quá mức mới đáng sợ mà thôi. Nàng đừng căm ghét bản thân, chẳng qua nàng chỉ lỡ có được nguồn sức mạnh không thuộc về mình, có điều nàng phải cẩn thận, sức mạnh này giống như hồng thủy mãnh thú vậy, thả ra thì dễ, thu về thì khó, nàng nhất định đừng sử dụng chúng quá mức. Sức mạnh này không phải do nàng bỏ công tu luyện mà thành nên thân thể nàng không khống chế hoàn toàn được, nàng đả thương người khác đồng thời bản thân cũng hứng chịu tổn thương, như khi nãy vậy, nàng chỉ định làm rụng lá cây, nhưng lại không kiềm chế nổi, sau cùng thiêu cháy cả cây, mà chính mình lại bị bỏng.”
Từ khi tỉnh lại, mọi người lúc nào cũng dặn dò nàng không được để lộ cho bất kỳ ai, tuy hiểu rằng họ quan tâm đến mình, nhưng sự quan tâm đó lại ngầm ám chỉ năng lực không lành của nàng, khiến nàng cũng nảy sinh ác cảm với chính mình. Có điều giờ đây, những lời an ủi của Xi Vưu đã xua tan ác cảm nàng dành cho bản thân, nàng cắn môi hỏi: “Nếu thật sự ta là yêu ma được hoài thai dưới Ngu uyên như phụ vương nói thì sao?”
Xi Vưu cười, “Nếu nàng là ma, ta sẽ hóa ma cùng nàng, vậy há chẳng hay sao? Chúng ta có thể thoát khỏi bao nhiêu chuyện vớ vẩn, cũng thoát khỏi những kẻ lắm lời, chỉ còn ta và nàng thôi.”
A Hành vừa buồn cười vừa tức, nửa mừng nửa giận, “Thôi thôi, chàng đừng khua môi múa mép nói ngon nói ngọt nữa.”
Nhìn dáng vẻ nàng, Xi Vưu chợt thấy lòng rạo rực, liền cúi xuống dịu dàng hôn lên môi nàng.
Dưới ánh mặt trời ấm áp, ở nơi lần đầu tiên trông thấy nàng, cuối cùng hắn cũng thực hiện được điều mấy trăm năm nay luôn khao khát.
Sau phút ái ân, A Hành rúc nào lòng Xi Vưu, nhắm mắt lắng nghe tiếng tim hắn đập thình thịch bên tai. Bốn bề lặng phắc, chỉ có tiếng tim đập vang vang đầy mạnh mẽ đem lại cho nàng cảm giác êm đềm khó tả.
Xi Vưu vuốt ve tấm lưng nàng, nheo mắt nhìn vầng dương đã ngả về Tây, lại một ngày nữa sắp trôi qua.
A Hành nói nhỏ: “Ta phải về thôi, lần này Đại ca và mọi người nhất định đang tìm ta khắp nơi, nếu còn nấn ná e rằng sẽ rước vạ đấy.”
Xi Vưu cười, chẳng buồn đếm xỉa, “Ý nàng là Đại ca nàng sẽ tới làm phiền ta? Hay là cả Thiếu Hạo nữa?”
“Nói cho cùng, ta vẫn là vương tử phi của Cao Tân, dù Thiếu Hạo không để bụng thì vương tộc Cao Tân cũng không để yên cho kẻ khác cướp vương tử phi của họ đi đâu, chuyện này liên quan đến thể diện quốc gia mà.”
Xi Vưu nghiêm trang nói, “A Hành, đi theo ta đi! Sáng mai ta sẽ bố cáo thiên hạ chuyện hai ta ở bên nhau, mặc kệ Hoàng Đế, Tuấn Đế hay Thanh Dương, Thiếu Hạo, dù sao nàng cũng là người của ta, nếu họ không đồng ý thì phải qua được cửa ta đã!”
Trước ánh mắt nóng bỏng nhiệt thành của Xi Vưu, A Hành chỉ muốn bất chấp tất cả nhận lời hắn, nhưng từ nhỏ nàng đã được dạy dỗ phải nghĩ kỹ rồi làm, tính chắc hẵng động, hơn nữa nàng còn cha mẹ anh em, không thể tùy ý hành động mặc kệ hậu quả như Xi Vưu được… Muôn mối tơ vò giằng xé trong lòng, khóe mắt nàng dần đỏ lên.
Từ sau khi tỉnh lại, mọi người chỉ kể cho nàng những chuyện vui, ngay đến Đại ca cũng chẳng đôn đốc nàng nữa, nhưng qua những lời xì xào to nhỏ, nàng cũng biết được hai trăm năm nay phụ vương rất lạnh nhạt với Đại ca, trong khi đó Cửu ca Di Bành lại được ngài dốc sức dạy dỗ, cơ hồ đã có thể ngang vai ngang vế với Thanh Dương, Tam phi Đồng Ngư thị thì ngày càng bức hiếp mẹ nàng, Triêu Vân phong bề ngoài có vẻ thanh bình, thật ra bốn bề đều có nguy cơ tiềm ẩn.
Bao năm nay Xi Vưu cưỡng ép thúc đẩy việc cải cách thể chế ở Thần Nông, tuyển dụng nhân tài không câu nệ, những người thề sống chết đi theo hắn ngày càng nhiều, nhưng những kẻ hận hắn thấu xương còn nhiều hơn, một khi bị kẻ địch nắm lấy nhược điểm, dù Du Võng muốn che chở cũng không che chở nổi cho hắn, bởi nước có phép nước.
Thấy A Hành cúi đầu, nước mắt lã chã, Xi Vưu thở dài, “Thôi thôi! Ta thua nàng rồi, nàng nói phải làm sao đây?”
A Hành đáp: “Dạo tân hôn, ta đã giao ước với Thiếu Hạo, đến một ngày y sẽ cho ta cơ hội được tự do lựa chọn. Dù sao ta cũng đã gả đi rồi, chỉ cần phía Cao Tân không truy cứu chuyện của ta, phụ vương sẽ chẳng ý kiến gì đâu.”
Xi Vưu vặn lại, “Vì sợ Cao Tân nên nàng chấp nhận rời xa ta, quay về bên Thiếu Hạo?”
“Không phải. Không chỉ là Cao Tân, mà còn bởi mối tương quan ràng buộc, cùng chung vinh nhục giữa Thiếu Hạo và Triêu Vân phong nữa. Nếu y bị đánh đổ, e rằng mẹ ta và Đại ca… tới chừng đó Tứ ca cũng… Mẹ và Tứ ca đối xử với ta ra sao, chàng thấy cả rồi đấy, ta không muốn vì mình mà làm tổn hại đến mẹ và Tứ ca, chàng cho ta chút thời gian đi, được không?”
Hiểu nguyên do vì sao A Hành chưa chịu rời Thiếu Hạo, Xi Vưu thấy lòng nhẹ nhõm hẳn, liền tươi cười kéo A Hành tới trước mặt, hôn lên những giọt lệ đọng khóe mi nàng, cợt nhả “Dù xảy ra chuyện gì ta cũng mãi mãi ở sau nàng. Nàng đừng sợ, nếu kẻ nào dám hà hiếp nàng, chỉ cần gọi một tiếng ‘Xi Vưu’, ta sẽ xông đến cắn chết hắn ngay!”
A Hành bật cười, “Rốt cuộc chàng là Đại tướng quân Thần Nông quốc, hay là sói hoang?”
Xi Vưu nháy mắt cười, huênh hoang, “Cứ xem như sói đi, nhưng không phải sói thường, mà là con sói hết dạ trung thành với A Hành, dũng cảm kiên cường, thông minh cơ trí, thần công cái thế, anh tuấn vô địch, trên trời dưới đất độc nhất vô nhị.”
A Hành nghe nói bật cười khanh khách, bao ưu sầu đều tan biến cả. Xi Vưu âu yếm nhìn nàng, đối với đàn ông, dù kẻ bình phàm hay người vĩ đại đều hạnh phúc vô vàn khi thấy bản thân có thể đem lại nụ cười cho người mình yêu thương nhất, hạnh phúc ấy nồng nàn tới nỗi trở thành niềm kiêu hãnh của anh ta. Công danh lợi lộc có đáng gì đâu chứ? Có thể đem lại nụ cười thật sự cho một người mới là việc khó nhất trên đời!
A Hành vòng tay ôm chặt lấy Xi Vưu. Trời dần ngả về đêm, nhưng vầng mặt trời trong lòng nàng lại đang tỏa nắng chói chang, ấm áp.
Quyển2 –Chương4: Đường trắc trở, tự mình tìm lối[1]
Thiên Hạo đứng bên ngoài điện, đôi mắt nhìn theo đoàn người khuất bóng cuối chân trời.
Y ngoảnh đầu, bắt gặp A Hành đang đứng lặng dưới gốc đào, hoa hồng mặt ngọc chiếu rọi lẫn nhau, nhưng ánh mắt nàng lạnh buốt như băng giá.
[1] Trích trong bài Cửu ca – Sơn quỹ của Khuất Nguyên. (ND)
Xi Vưu đưa A Hành về đến tận Triêu Vân phong. Nàng lưu luyến nhìn theo bóng hắn mãi tới khi khuất dạng mới ngoảnh lại, liền trông thấy Đại ca và Tứ ca đang đứng ngay sau lưng mình.
Xương Ý hỏi thẳng: “Muội nhớ ra Xi Vưu rồi ư?”
A Hành đỏ mặt lúng túng, nói không nên lời.
Đến lượt Thanh Dương hỏi: “Tìm muội khắp nơi không thấy, Thiếu Hạo sợ xảy ra chuyện gì bất trắc nên đã quay về Cao Tân rồi, muội vẫn định về Cao Tân đấy chứ?”
A Hành vội đáp: “Phải về chứ, mai muội về luôn.”
Thanh Dương thở phào nhẹ nhõm, định nói thêm gì đó nhưng lại thôi, Xương Ý liền chen vào hỏi: “Vậy muội và Xi Vưu…”
A Hành cúi đầu: “Tứ ca, muội tự biết chuyện của mình mà.”
Xương Ý nghe nói gật đầu, ôn tồn bảo: “Muội đến dập đầu từ biệt mẹ đi.”
Sau khi từ biệt Luy Tổ, A Hành đem theo Liệt Dương rời khỏi Triêu Vân phong. Nàng vẫn chưa vội về Ngũ Thần sơn ngay, mà đi thẳng đến Ngu uyên trước.
Hơn hai trăm năm trước, tuy chẳng cây cối chim thú nào sinh sôi được ở Ngu uyên, nhưng ngoại vi Ngu uyên vẫn có sông ngòi hồ ao, cây cối rậm rì, vậy mà từ khi một con yêu quái vừa giống hổ vừa giống cáo tới đây tu hành, cả miền này đã biến thành vùng đất chết, không nhú nổi cọng cỏ.
Chẳng rõ ai trồng, chỉ biết ngoại vi Ngu uyên có một rừng đào, quanh năm xanh tươi mơn mởn, không bao giờ héo khô, còn xua tan nắng hạn cho cả vùng. Mỗi khi đến mùa hoa đào nở, con yêu quái đó đều hú lên thê thiết suốt đêm, khiến trăm họ Thụ Sa quốc phải dựng tế đàn trong rừng đào tôn nó làm Tệ Quân, cầu xin nó đừng gieo hạn hán cho Thụ Sa quốc.
Tệ Quốc ở Ngu uyên ngày ngày tu luyện, sớm đã nhập Ma đạo từ lâu. Nhưng vì đủ thứ nguyên nhân, những người biết chuyện đều không hẹn mà cùng giấu giếm việc ở gần Ngu uyên có một con yêu quái đã thành ma.
Một con chim trắng khổng lồ lướt qua bầu trời đêm, xông qua màn khói đen vần vũ phía trên Ngu uyên, lượn quanh mấy vòng rồi đậu xuống vách đá tối thui.
A Hành từ trên lưng bạch điểu chậm rãi bước xuống, cười nói: “Cảm ơn Liệt Dương.”
Chỉ trong nháy mắt, bạch điểu đã biến thành một cậu nhỏ áo trắng chừng mười một mười hai tuổi, dung mạo đẹp như ngọc, hai mắt xanh biếc, mái tóc dài chấm eo, trắng toát.
Vạn vật đều coi Ngu uyên là nỗi kinh hoàng nhưng A Hành và Liệt Dương lại chẳng hề sợ hãi, chỉ mải lắng nghe từng tràng tiếng hú thê thiết từ xa vẳng lại.
Khói đen mờ mịt tràn lan khắp Ngu uyên, mênh mông chẳng thấy bến bờ, không một sinh vật nào sống nổi trong làn khói độc ấy, nhưng Tệ Quân vẫn sống ở đó suốt bao năm nay.
A Hành rơm rớm nước mắt, quay sang bảo đứa nhỏ: “Liệt Dương, gọi nó về đi.”
Liệt Dương liền rít lên một tiếng the thé chói tai, ngược hẳn với vẻ ngoài thanh tú xinh xẻo.
Tệ Quân đang bay lòng vòng giữa màn khói đen mịt mù, nghe thấy Liệt Dương gọi liền bối rối ngưng bặt tiếng kêu. Lần theo tiếng rít của Liệt Dương, nó bay thẳng về phía Đông, một hồi lâu mới thấy hai bóng người giữa làn khói đen đặc, tỏa ra khí thức vừa quen vừa lạ.
Tệ Quân chần chừ giảm bớt tốc độ, khụt khịt mũi đánh hơi như để xác định thật giả, thình lình nó hú lên mừng rỡ, toan nhào tới, nhưng rồi lại phân vân. Sống giữa Ngu uyên bao năm nay, nó chẳng còn là chú hồ ly đẹp đẽ đáng yêu thuở xưa nữa, giờ đây cả người nó đều hôi rình tanh tưởi, nanh chìa ra lởm chởm, gương mặt trở nên méo mó đáng sợ vô cùng.
Thấy A Tệ định lẩn đi, Liệt Dương liền nhào tới, biến nguyên hình rồi đậu xuống vai nó, vừa quang quác mắng mỏ vừa dang cánh đập lia lịa vào đầu nó.
A Tệ bị đánh đến choáng váng đầu óc, quên khuấy ý định lẩn tránh, bèn ngoan ngoãn bay đến trước mặt A Hành. Chợt nó ngượng ngùng co rúm người lại, như sợ máu mủ tanh hôi trên người mình dây sang A Hành, gương mặt hung ác đầy vẻ bồn chồn hồi hộp.
A Hành liền ngồi thụp xuống, ôm chầm lấy nó.
“Bất kể mày là tiểu yêu tinh A Tệ hay là ma thú Tệ Quân, dù biến thành thứ gì, mày vẫn là tiểu hồ ly biết bay của ta.”
Bao đau khổ và cô quạnh suốt hai trăm năm đợi chờ đằng đẵng đều tan biến theo một lời này.
A Tệ dụi đầu vào lòng A Hành, nước mắt lã chã.
“Sao mày lại đợi ở Ngu uyên? Ai cũng bảo Hồ tộc thông minh, thế mà mày chẳng thừa hưởng được tí gì cả? Ngốc ạ!” A Hành vuốt ve những vết thương chi chít trên mình A Tệ, khóc nức lên.
Tuy A Tệ đã nhập ma, dáng vẻ hung ác nhưng tâm tư vẫn rất đơn thuần, thấy A Hành đau lòng, nó liền nghiêng đầu nhìn nàng, híp mắt lại thành hai vành trăng nhỏ cong cong, ve vẩy cái đuôi xù, định chọc nàng cười.
A Hành vẫn rầu rầu, A Tệ cau mày nghĩ ngợi giây lát rồi ngẩng đầu gầm lên với Liệt Dương, bày ra ma tướng cực kỳ đáng sợ.
Liệt Dương bị bất ngờ, sợ đến nhảy dựng cả lên, mặt mày tái mét.
A Tệ lấy làm đắc ý, tựa vào người A Hành vênh mặt cười hăng hắc, ha ha ha, Liệt Dương cũng biết sợ nó rồi!
Bị A Tệ hù dọa, Liệt Dương nổi giận rít lên một tiếng rồi xông tới, khạc ra cả chuỗi cầu lửa tấn công A Tệ, A Tệ lập tức co giò bỏ chạy, Liệt Dương đuổi sát sau lưng, cả hai lại chí chóe nhau, hệt như mấy trăm năm trước.
Thấy cảnh tượng ấy, A Hành nín khóc phá ra cười, đợi chúng nó giỡn chán chê, nàng bèn gọi: “Lại đây, mình về Cao Tân đi.”
Liệt Dương trợn mắt, nó vốn chẳng có thiện cảm với Thiếu Hạo, cũng chán ghét Cao Tân. Chỉ riêng A Tệ mừng rỡ chạy lại với A Hành, miễn là được sống cùng với A Hành và Liệt Dương thì ở đâu cũng thế cả.
Cuối tháng Bảy, chính đương độ nắng chiếu sen hồng thấm vị riêng[1]. Cao Tân nhiều hồ nhiều sen, dân chúng rất chuộng hoa sen, đi đến đâu cũng thấy bát ngát lá xanh, hương thơm ngan ngát. Đã hai trăm năm không tiếp xúc với thế nhân, A Hành bèn dắt theo A Tệ và Liệt Dương thong thả tản bộ giữa đêm thanh, vừa thưởng thức phong cảnh nhân gian vừa tìm hiểu tình hình Cao Tân hiện tại.
[1] Câu thơ trích trong bài Sáng sớm rời chùa Tịnh Từ tiễn Lâm Tử Phương của Dương Vạn Lý (1127 – 1206). (ND)
Nàng về gần đến Ngũ Thần sơn, Thiếu Hạo nhận được tin báo liền tự mình ra đón, y cũng chẳng nhắc tới chuyện Xi Vưu, chỉ hỏi thăm nàng đi đường có được bình an.
A Hành ôm A Tệ hỏi thẳng: “Chàng có thể tìm cách giúp bọn thiếp vào Thang cốc được không? Thiếp muốn trị những vết loét vì ma khí xâm thực trên người nó, mấy hôm nay đã tìm hái được vài loại thảo dược trong núi rồi, chỉ cần thêm nước của Thang cốc nữa thôi.” Thang cốc là thánh địa của Cao Tân, không dễ vào được, hơn nữa hiện giờ A Tệ lại bị coi là ma vật.
Thiếu Hạo mau mắn đáp: “Không vấn đề gì, vừa khéo bây giờ ta đang phụ mệnh phụ vương canh giữ Thang cốc.”
A Hành kinh ngạc vô cùng, Thang cốc là nơi hoang vắng ở cùng trời cuối đất, canh giữ Thang cốc có khác nào lưu đày? Nhưng thấy Thiếu Hạo không định giải thích, nàng cũng chẳng vặn hỏi nguyên do.
Giữa đêm khuya thanh vắng, A Hành dẫn A Tệ tới thẳng Thang cốc.
Thang cốc là chốn mặt trời lên, nguồn nước ở đây có thể nói là tinh khiết nhất trong thiên hạ. A Tệ vừa bị nhúng xuống nước đã run lẩy bẩy vì đau, A Hành và Liệt Dương phải mỗi người một bên ôm chặt lấy nó, A Hành vừa dịu dàng hát cho nó nghe như như dỗ trẻ nít vừa nhỏ nhẹ: “A Tệ ngoan nào, gắng chịu một chút, một chút nữa thôi là được mà.”
Mãi đến hết một tuần trà, nàng mới cho phép A Tệ lên bờ. A Tệ đau đến lả cả ra, Liệt Dương nhìn nhỏ người nhưng rất khỏe, liền vác A Tệ lên “hòn đảo” do chín gốc phù tang chụm lại.
Thấy A Tệ run cầm cập vì đau, Thiếu Hạo bèn đặt tay lên trán nó, cơn đau trên mình A Tệ được năng lượng thủy linh nhu hòa xoa dịu, nó ngủ thiếp đi.
Liệt Dương thấy A Tệ đã ổn bèn biến lại nguyên hình, rúc vào giữa đám lá gà gật ngủ.
A Hành xách một xô tướng ăm ắp thuốc vừa sắc lại, bắt đầu bôi thuốc cho A Tệ.
Thiếu Hạo ngồi dưới bóng trăng, lặng lẽ gảy đàn. Tiếng đàn dịu dàng như ru, dẫn dắt linh lực trong mình A Tệ hấp thụ dược tính.
Bôi xong thuốc, A Hành rửa sạch tay rồi ngồi xuống bên Thiếu Hạo. Thiếu Hạo mỉm cười, tiếp tục gảy đàn.
Hoa phù tang đỏ rực như từng ngọn đèn lồng lung linh đầy cành, Thiếu Hạo vận bạch y ngồi dưới gốc cây, toát lên khí chất tao nhã vô song, đến nỗi ánh trăng lạnh lẽo rọi xuống người y cũng trở nên ấm áp. Vậy mà con người tài hoa xuất chúng, ý chí cao vời đó lại bị biếm đi tận cùng trời cuối đất canh giữ Thang cốc.
A Hành khẽ hỏi: “Thiếp nhớ hai trăm năm trước quan hệ giữa chàng và phụ vương đã có phần dịu lại, sao giờ thành ra thế này? Chàng làm gì mà phụ vương căm ghét chàng đến thế?”
Thiếu Hạo dừng tay gảy đàn: “Sau khi nàng rớt xuống Ngu uyên, Hậu Thổ đánh Chúc Dung trọng thương, Chúc Dung phải trốn vào cổ trận của Thần Nông. Dẹp được chướng ngại vật lớn nhất, Xi Vưu bắt đầu thả sức làm theo ý mình. Chắc nàng cũng nghe nói, hai trăm năm nay đã có mấy mươi gia tộc bị hắn diệt môn chứ? Dưới chính sách tàn khốc của hắn, chế độ cũ ở Thần Nông đã bị đánh đổ hoàn toàn. Thần Nông hiện giờ vô cùng thịnh vượng, ai ai cũng phát huy được sở trường. Nhìn Thần Nông biến đổi từng ngày, ta nhất thời nôn nóng, định dựa vào quân đội trong tay, cưỡng chế thúc đẩy Cao Tân cải cách. Nào ngờ bọn Yến Long lại gièm pha đơm đặt, khiến phụ vương đùng đùng nổi giận, cho rằng ta có lòng soán vị, cấm ta can dự vào việc triều chính, còn sai đi trấn giữ Thang cốc.”
“Chẳng phải Yến Long đã mất một cánh tay rồi sao?”
“Hắn mất một cánh tay, công lực suy giảm dần, nếu là người khác, hẳn cũng chẳng coi trọng kẻ tàn phế quá nửa như vậy nữa, nhưng phụ vương ta xưa nay nặng tình, lại càng thương Yến Long hơn cả khi xưa. Mấy năm gần đây, phụ vương thường nói với chúng thần, ‘Trong tất cả các con, Yến Long giống ta hồi trẻ nhất’, bọn họ hết thảy đều hiểu ý phụ vương.” Thiếu Hạo thở dài, mặt buồn hiu hắt, “Tính tình phụ vương dịu dàng đa cảm, thích xem mỹ nhân ca vũ, ham đọc thơ văn tài tử, quả thật ta không giống với phụ vương, khiến ngài rất thất vọng. Thêm nữa, hẳn phụ vương cũng biết Hiên Viên Bạt trong Thừa Hoa điện là giả nên chẳng coi ta ra gì.”
“Chàng cam lòng trấn giữ Thang cốc hoang vu này mãi mãi, đợi Yến Long đăng cơ ư?”
Thiếu Hạo khẽ cười, “Đương nhiên không rồi, ngày Yến Long đăng cơ chẳng những là ngày chết của ta, mà còn là ngày chết của cả Cao Tân tộc. Ta chết chỉ là việc nhỏ, nhưng quyết không thể để Cao Tân diệt tộc được!”
“Vậy chàng tính…”
Nụ cười của Thiếu Hạo thoáng vẻ lạnh lùng, “Ta định nhờ nàng giúp một việc.”
“Giúp việc gì cơ?”
“Cao Tân tộc đã có lịch sử mấy vạn năm, trải qua Bàn Cổ đại đế đến giờ, chuyện tranh đấu trong cung đình tiếp diễn liên miên nên thần khí nghiệm độc bao giờ cũng sẵn, chẳng chất độc nào lọt lưới được. Có lẽ chỉ có Thần Nông Thị nếm mọi loại cây cỏ, lấy thân thử độc mới có cách mà thôi. Bởi vậy ta muốn nhờ nàng phối chế giùm ta một loại thuốc có thể lọt qua mọi thần khí thẩm tra, không cần lấy mạng đối phương, chỉ cần khiến hắn dần dần mệt mỏi ốm yếu, phải nằm liệt giường là được.”
Hiểu ý Thiếu Hạo muốn ép Tuấn Đế thoái vị, A Hành làm thinh không nói.
Thiếu Hạo nói tiếp: “Ngũ Thần quân của phụ vương suốt ngàn năm nhàn hạ quen thân, chỉ còn cái vỏ bề ngoài, kỳ thực bên trong đã mục ruỗng từ lâu, chẳng có gì đáng ngại. Tuy Yến Long nắm hai bộ Thường Hy và Bạch Hổ, nhưng Thanh Long bộ huyết mạch của ta mới là bộ tộc thiện chiến nhất trong bốn bộ, nhờ Nặc Nại giúp sức, Hy Hòa bộ cũng hoàn toàn quy thuận ta rồi. Nếu muốn phát động binh biến không phải là không được, có điều ta chẳng muốn động vũ lực, bởi một khi binh biến xảy ra, đôi bên sẽ phải trở mặt sống mái với nhau cho tới khi một trong hai phe chết sạch mới thôi, như vậy dù ta có chấp nhận, những tướng quân theo ta mưu phản há yên lòng được ư? A Hành, ta không muốn làm hại phụ vương, đây chính là phương pháp vẹn cả đôi đàng đấy!”
Thiếu Hạo khẽ gảy mấy dây đàn, ánh mắt thăm thẳm bi thương: “Hơn hai ngàn năm nay, lúc nào phụ vương cũng nơm nớp đề phòng ta soán vị. Thật ra ta chưa hề nghĩ tới chuyện đó, chỉ một lòng một dạ muốn phò tá phụ vương, muốn làm một đứa con ngoan ngoãn, nào ngờ cuối cùng lại đến ngày này, tất cả trở thành sự thật! Có lẽ các sử quan đời sau sẽ ghi chép rằng ta là kẻ lòng lang dạ sói, nuôi chí làm phản, ủ mưu bao năm mới hành sự. Nếu sau này ta có con trai cũng chẳng biết phải giải thích thế nào với nó, có lẽ nó cũng vĩnh viễn không thể thông cảm cho ta. A Hành, thật lòng ta không muốn đi đến bước này, nhưng ta đã bị ép vào đường cùng rồi! Bọn Yên Long đẩy ta đến Thang cốc rồi vẫn chưa chịu buông tha, mấy năm nay chúng ngày đêm nghĩ cách làm tan rã Thanh Long bộ, nếu ta còn khoanh tay ngồi nhìn, những người một lòng một dạ đi theo ta sẽ bị Yến Long hại chết hết, sau cùng cả ta cũng không tránh khỏi cái chết!”
Nếu Thanh Long bộ tan rã thì dù Nặc Nại muốn giúp Thiếu Hạo, Hy Hòa bộ chắc chắn sẽ không ủng hộ một tên vương tử cầm chắc thất bại, để tự bảo vệ mình, bọn họ ắt sẽ quy thuận Yến Long. A Hành ngẫm nghĩ hồi lâu rồi dịu giọng: “Thiếp hiểu tình cảm của chàng mà, thôi, để thiếp giúp chàng!”
Dù cả thiên hạ không dung thứ, chỉ cần một người hiểu cho mình thôi cũng đủ. Nghe được câu nói này, nỗi đau thương trong lòng Thiếu Hạo cũng vơi đi nhiều, y bất giác nắm chặt tay nàng, “A Hành, đa tạ nàng! Ta thật lòng nghĩ…”
A Hành khẽ rút tay ra: “Chàng cần gì phải khách khí? Lẽ nào chàng quên giao ước giữa chúng ta lúc mới kết hôn rồi ư? Chúng ta là đồng minh, hôm nay thiếp giúp chàng, ngày sau chàng cũng phải giữ lời hứa của mình đấy.”
Thiếu Hạo vô cùng thông minh, vừa nghe liền phát hiện A Hành đã nhớ ra mọi chuyện, cũng hiểu ngay ý nàng, lòng cảm thấy vô cùng khó tả, nhưng y vẫn gắng giữ vẻ thản nhiên, thu tay vào trong áo, hờ hững hỏi: “Nàng nhớ ra tất cả rồi sao?”
“Ừm.” A Hành đỏ bừng mặt, áy náy do dự hồi lâu, như thể nghĩ ngợi gì đó, “Thiếp…” Thấy A Hành lúng túng, Thiếu Hạo liền mỉm cười, ôn tồn cắt lời nàng: “Ta sẽ giữ lời. Trời sáng đến nơi rồi, nàng ở đây lâu không tiện đâu, mau về nghĩ đi, để ta đi xem A Tệ thế nào.”
A Hành đi được một quãng, chợt quay lại nhìn, dưới ánh trăng, Thiếu Hạo ngồi xuống xếp bằng giữa rợp bóng hoa phù tang đỏ rực, đối mặt với bao la sóng biếc, bạch y phất phơ trong gió, tiếng đàn mạnh mẽ như đẽo vàng cắt ngọc, đầy hùng tâm tráng chí của kẻ sắp bước lên ngôi trị vì thiên hạ, nhưng cũng dằng dặc cô đơn lạc lõng.
Theo lời Thiếu Hạo, vương thất Cao Tân trải qua mấy vạn năm đấu đá lẫn nhau trong cung đình đã tích lũy được không ít kinh nghiệm, quy trình kiểm soát dược tính vô cùng chặt chẽ hoàn chỉnh, muốn chế ra một loại độc dược có thể lọt qua cửa thẩm tra lại chỉ vừa đủ khiến cho người ta ốm liệt thật chẳng dễ chút nào. A Hành lôi Thần Nông Bản Thảo Kinh ra đọc từ đầu đến cuối, từ cuối lên đầu, cuối cùng chỉ chế ra được một loại thuốc tương đối phù hợp với yêu cầu của Thiếu Hạo.
Nàng giao thuốc cho y, căn dặn: “Thuốc này chỉ có thể tạm coi là phù hợp với yêu cầu của chàng thôi, thành phần chủ yếu lấy từ máu A Tệ, nó sẽ hủy hoại linh lực của người trong Thần tộc từng chút một, giống như Ngu uyên vậy, khiến người ta dần dần bải hoải toàn thân, hành động bất tiện.”
Thiếu Hạo hỏi: “Có thuốc giải không?”
“Nó không phải là thuốc độc nên cũng không có giải dược. Chỉ cần ngừng hạ độc, dần dần thân thể sẽ tự hồi phục, người khỏe khoắn trở lại. Ta chế ra hai lọ, theo ý chàng.”
Thiếu Hạo cẩn thận cất thuốc đi: “Cảm ơn nàng.”
“Chúng ta là đồng minh, chỉ cần chàng nhớ giữ lời thề của mình là được.”
“Ta nhất định sẽ nhớ!”
Dưới sự sắp xếp của Thiếu Hạo, “bệnh tình” của A Hành bắt đầu thuyên giảm, mỗi lần thầy thuốc trong cung tới thăm mạch đều có lời chúc mừng hai người, theo đó, tin Đại vương tử phi đang khá dần lên cũng lan truyền khắp trong ngoài cung.
Tuy Thiếu Hạo thất thế nhưng A Hành vẫn là vương cơ duy nhất của Hiên Viên tộc, từ sau khi nàng khỏe lại, thiếp mời dự đủ các tiệc bắt đầu tới tấp theo nhau bay đến.
Nghĩ tới việc “Hiên Viên Bạt” trước đây đã nằm liệt giường hai trăm năm, A Hành cũng không dám ra vẻ khỏe như vâm ngay, hầu hết tiệc tùng nàng đều lấy cớ thân thể còn yếu để từ chối, nhưng có những buổi tiệc không thể không đi, bởi nàng nhất định phải chứng minh mình là Hiên Viên Bạt thật sự.
Thấy Tuấn Hậu tuyên triệu mình vào cung gặp mặt, A Hành hiểu ngay mình sắp bị kiểm chứng thân phận.
Nàng bèn trang điểm lộng lẫy, lên xe đi bái kiến Tuấn Hậu.
Xe đến cửa điện thì dừng lại, tên tùy tùng bên cạnh cười giải thích: “Vương tử phi vừa khỏi bệnh, vốn dĩ nên cho xe thẳng tiến thẳng vào trong điện để vương tử phi đỡ mệt, nhưng đây là quy củ, bề tôi đến cửa điện phải xuống xe đi bộ, hiện giờ Tuấn Đế chỉ ban cho mình Nhị điện hạ được ngồi xe vào tấn kiến thôi.”
Đám người hầu hạ trong cung luôn là những kẻ giỏi xét mặt đón ý, mềm nắn rắn buông nhất trên đời, A Hành lẽ nào không hiểu ý bọn chúng. Xem ra Tuấn Đế rất căm ghét Thiếu Hạo, đến nỗi ghét lây sang cả con dâu. Nàng bèn cười nhạt bước xuống xe: “Bao năm nay ta không đến thỉnh an mẫu hậu được, quả thật chưa tròn đạo hiếu, xuống xe đi bộ vào là phải lẽ thôi.”
Cả tòa cung điện rộng mênh mông, choán gần hết ngọn núi, A Hành lại muốn chóng xong nên rảo bước đi thật mau. Đến vườn Y Thanh, vẫn chưa thấy Tuấn Hậu ở đó, chỉ nghe đám thị nữ bẩm: “Tuấn Hậu đang rửa mặt chải đầu, xin vương tử phi đợi một lát.”
Cao Tân nằm về phía Đông Nam, khí hậu ôn hòa, mùa đông ấm áp chẳng kém tiết xuân ở những nước phương Bắc, còn mùa hạ lại nóng nực oi nồng. Tuy nhiên Ngũ Thần sơn nằm giữa biển, gió biển thổi vào xua tan phần nào cái nóng nên không tới nỗi nóng nực lắm, thêm vào đó, cung điện ở đây cũng được thiết kế theo phong cách kiến trúc Cao Tân để tránh nóng.
Phỏng theo lối thiết kế đó, khắp nơi trong vườn Y Thanh đều xum xuê cây cối, nhan nhản ao hồ, hoặc thác nước, hoặc khe suối, quanh co uốn lượn, lăn tăn dập dềnh, nhỏ thì không tới một thước, lớn thì đủ để chèo thuyền.
A Hành đợi đến phát chán, trong thấy trong vườn không có ai, bèn men theo dòng suối lững thững đi vào.
Càng đi sâu vào trong, phong cảnh càng thêm đẹp, hai bên là suối chảy róc rách, thế núi uốn lượn, trúc xanh tùng biếc, cây cối um tùm, dăm ba cánh hạc tiên lội dưới suối kiếm ăn, dáng dấp tiêu sái, nhìn thấy A Hành cũng chẳng hề hoảng hốt.
Sâu trong bờ nước là một rừng trúc xanh biêng biếc, trùng trùng điệp điệp, thấp thoáng bóng nam tử bạch y nửa nằm nửa ngồi tựa lưng vào tảng đá say sưa ngủ, cuốn sách lụa phủ trên mặt. Dưới con suối cách đó không xa, hai cặp uyên ương đang bơi qua bơi lại giỡn nước, quấn quýt sánh đôi, nhởn nhơ thoải mái.
A Hành toan trở gót quay lui nhưng chẳng kịp, nam tử kia đã tỉnh giấc nhỏm người dậy, cuốn sách trên mặt rơi xuống để lộ dung mạo thanh nhã, khí độ xuất trần, dưới bóng trúc mờ mờ, quang âm dào dạt, chẳng khác nào ẩn giả trong núi.
Nhận ra Thiếu Hạo, A Hành tươi cười tiến lại.
Nam tử kia lơ mơ hé mắt nhìn, vẻ mặt bực bội ra mặt vì mất giấc mộng đẹp. Nhìn nghiêng người này giống Thiếu Hạo như đúc, nhưng A Hành lập tức nhận ra ông ta không phải Thiếu Hạo! Thiếu Hạo chưa bao giờ giận ra mặt, nhất định cũng chẳng bao giờ bực bội vì những chuyện nhỏ thế này.
Nghe tiếng bước chân, nam tử kia liền quay lại, tuy dung mạo người đó rất giống Thiếu Hạo nhưng khí chất đôi bên khác hẳn nhau, nam tử này chỉ có vẻ dịu dàng tình tứ như nước, thiếu nét cứng rắn trầm ổn tựa như núi của Thiếu Hạo.
A Hành vội quỳ xuống thỉnh an, “Phụ vương.”
Tuấn Đế nhìn nàng, trầm ngâm một thoáng mới nhận ra, “Sao con lại đến đây?”
A Hành không biết Tuấn Hậu triệu mình vào cung có việc gì nên chẳng dám nói bừa: “Nhi thần tiến cung bái kiến mẫu hậu nhưng người đang bận việc, thấy phong cảnh bên suối đẹp quá, nhi thần bèn tản bộ ngắm cảnh, nào ngờ lại kinh động phụ vương, xin phụ vương xá tội.”
Tuấn Đế hỏi: “Cảnh đẹp ư? Đẹp thế nào? Nếu con trả lời được thì miễn tội, bằng không ta cũng trị luôn Thiếu Hạo tội bất kính, cùng với con.”
A Hành cười đáp: “Tâu phụ vương, vườn này tên Y Thanh, chỉ riêng cái tên đã lột tả hết vẻ đẹp của cảnh sắc nơi đây rồi. Quả là ‘gió nhẹ mưa phùn nào rát mặt, ấm mềm vạt áo lúc oi nồng.’”
Tuấn Đế điềm đạm nói: “Tên vườn này do ta đặt, con đã thích nơi này, ta sẽ dẫn con đi dạo một vòng. Bốn chữ ‘gió nhẹ mưa phùn’ thoạt nghe rất đơn giản nhưng người thật sự hiểu được chẳng có mấy ai, con người ta có khi nào chịu bình thản tĩnh tâm mà thưởng thức cảnh sắc đâu.”
A Hành theo Tuấn Đế cùng tản bộ ngắm cảnh, vừa đi Tuấn Đế vừa chỉ cảnh trí, giảng giải cho nàng nghe hết lai lịch từng hòn đá khóm hoa nơi đây. Từ nhỏ, nàng lớn lên cùng vị Tứ ca thông hiểu thơ từ ca múa, chim cá lá hoa, nên mấy thú chơi đó nàng cũng chẳng kém ai, về sau lại học được Thần Nông Bản Thảo Kinh, cực kỳ tinh thông các loại hoa thơm cỏ lạ, đôi bên càng thảo luận, nàng càng hợp chuyện với Tuấn Đế, khiến ông mừng như bắt được tri âm.
Đột nhiên Tuấn Đế bất ngờ hỏi: “Sao con bệnh suốt hai trăm năm thế?”
Vấn đề này Thiếu Hạo đã dặn nàng kỹ cách trả lời, nhưng giờ đây, đối diện với con người ôn tồn hòa nhã, chẳng hề giống một vị đế vương, A Hành lại không sao nói nên câu được. Im lặng càng lâu, nàng càng lúng túng chẳng biết phải trả lời như thế nào cho phải, lý do mà Thiếu Hạo sắp sẵn cũng không thể áp dụng được nữa, A Hành cứ bồn chồn bứt rứt nghĩ cách đến nỗi lòng bàn tay ướt đẫm mồ hôi.
Thấy nàng không trả lời, Tuấn Đế chẳng những không bắt lỗi mà ngược lại còn tỏ ra vui mừng, mỉm cười nói: “Cũng nực cười thật, vương thất Cao Tân xưa nay xem trọng lễ nghi, ưa thích những thứ đẹp đẽ thanh tao, ta lại là nhân tài kiệt xuất trong số đó, từ nhỏ đã lấy làm tự phụ về dung mạo tài hoa của mình, bất luận một khóm hoa hay một người con gái đều yêu cầu phải thật hoàn mỹ, thậm chí còn xem mặt đặt tên quần thần, ưu ái những kẻ bề ngoài xuất chúng, lời nói lịch thiệp. Trong tất cả các con trai, ngoại hình Thiếu Hạo giống ta nhất, vừa ra đời lại mất mẹ nên ta luôn yêu thương nó, giữ nó bên mình, gần như cầm tay chỉ dạy cho nó mọi thứ, tiếc rằng càng lớn nó càng trở nên xa lạ. Con với nó…” Tuấn Đế lắc đầu, “không hợp nhau chút nào.”
A Hành vừa kinh ngạc vừa sợ hãi đến cứng đờ cả người, mồ hôi lạnh toát ra đầm đìa.
Tuấn Đế khẽ thở dài, vẻ mặt chất chứa sầu muộn, “Nhưng trong vương thất có được mấy cặp vợ chồng hòa hợp với nhau đâu? Hầu hết đều là người lừa ta, ta gạt người, lấy hạnh phúc giả tạo che mắt người đời vậy thôi.”
Bấy giờ A Hành mới dám thở phào nhẹ nhõm, khôi phục tri giác.
Tuấn Đế ngồi xuống phiến đá bên bờ suối, “Gần đây chẳng hiểu sao ta hay bị mệt đột ngột, người ngợm bải hoải, chẳng có sức lực gì cả.” Đoạn ông chỉ phiến đá đối diện, “Con cũng ngồi xuống đi!”
Hai ả thị nữ từ đâu hớt hải chạy đến, vẻ mặt hoảng hốt quỳ xuống thỉnh tội với Tuấn Đế: “Tuấn Hậu đang đợi vương tử phi, nô tỳ đi tìm mấy vòng mà chẳng thấy, không ngờ vương tử phi lại đi cùng bệ hạ.”
A Hành vội hành lễ với Tuấn Đế xin cáo lui, Tuấn Đế gật gật đầu, tỏ ý cho phép.
Đi một quãng xa, A Hành mới dám len lén ngoảnh lại, thấy Tuấn Đế vẫn ngồi lặng bên dòng suối, ngơ ngẩn đối diện với bóng mình dưới nước.
Tuấn Hậu vừa trong thấy A Hành đã vồn vã thân mật, một mực giữ nàng lại đến tối để dự tiệc.
Tiệc tối có đông đủ tất cả vương tử phi và vương cơ, ai nấy đều mượn lối đùa cợt nô giỡn giữa đám phụ nữ khuê phòng để thăm dò xem Hiên Viên Bạt là thật hay giả.
Hiên Viên Bạt vốn là vàng thật, đương nhiên không sợ lửa, hễ binh đến tướng ngăn, nước lên đất chặn.
Yến tiệc còn huyên náo đến nửa đêm, tới giờ đóng cửa cung mới giải tán.
Hiên Viên Bạt vừa ra khỏi cửa điện, thị vệ đã tươi cười đánh xe đến.
Nàng thoáng ngạc nhiên bèn vén rèm lên nhìn, thấy Thiếu Hạo ngồi bên trong bèn nhảy lên xe, “Sao chàng lại đến đây?”
Y đáp: “Nàng đi suốt cả ngày, ta không yên tâm.”
“Mẫu hậu thăm dò cả ngày nay, hẳn đã tin thiếp chính là Hiên Viên Bạt rồi. À phải, hôm nay thiếp gặp phụ vương.”
“Phụ vương khỏe không?”
“Phụ vương dắt thiếp đi ngắm hoa lan ngài trồng, thiếp nức nở khen ngài mát tay trồng lan, thoạt đầu ngài còn tưởng thiếp nịnh hót, về sau nghe thiếp phân tích rành rọt nguyên do, ngài có vẻ vui lắm. Thiếp cùng phụ vương đi tản bộ một quãng, ngài bắt đầu thấm mệt, thiếp…” A Hành ngập ngừng, vẻ mặt buồn bã, “Thiếp thấy rất áy náy, phụ vương không phải người xấu, thậm chí ngài ấy còn tốt hơn rất nhiều, rất nhiều người…”
Thiếu Hạo thuyết phục nàng: “Phụ vương là công tử phong lưu nhàn tản, chỉ thích thưởng thức thư họa ca múa, bình phẩm chim cá lá hoa, cuộc sống của ngài sau này vẫn sẽ được giữ nguyên như bây giờ mà.”
Sẽ giữ nguyên được thật ư? Mong là thế! A Hành làm thinh không nói nữa, Thiếu Hạo cũng nín lặng ngồi yên.
Xe về đến cổng Thừa Hoa điện, A Hành tưởng Thiếu Hạo sẽ âm thầm trở về Thang cốc, nào ngờ y đột nhiên nói: “Tối nay nàng có khách quý tới thăm, ta không tiện vào cùng. Nàng cứ đi vào bình thường, đến hoa phòng đợi ta. Ta sẽ lặng lẽ lẻn vào phủ rồi tới hoa phòng gặp nàng.” Nhớ khi xưa, vì A Hành thích trồng hoa tỉa lá nên Thiếu Hạo đã xây dựng hoa phòng này cho riêng nàng, kẻ không biết chỉ cho là hành vi xa hoa vung tiền lấy lòng vợ đẹp, kỳ thực bên trong được Nặc Nại thiết kế đủ mọi loại cơ quan, có thể nói, đây chính là mật thất để Thiếu Hạo bàn bạc những việc quan trọng, tránh tai mắt người đời.
A Hành cười khổ não, Thiếu Hạo quả thật đã bị Yến Long và Tuấn Đế ép tới đường cùng, đến nỗi phủ đệ của chính mình mà cũng chẳng được đàng hoàng bước vào, phải lén lén lút lút như kẻ trộm. Nàng rầu rĩ hỏi: “Ở Cao Tân, thiếp có thể có khách quý gì đây?”
Thiếu Hạo cười bí ẩn, “Đợi đến lúc nàng sẽ biết.”
A Hành trở về phòng thay y phục tắm rửa rồi thong thả ăn chút đồ lót dạ, xong xuôi mới xách lẵng hoa và kéo, lấy cớ muốn cắt vài đóa hoa tươi đặt bên giường cho dễ ngủ, lững thững đi tới hoa phòng.
Một cô gái lạ mặt, dung mạo thanh tú, dịu dàng diễm lệ đang đứng trong bóng tối hoa phòng, thấy nàng bước vào liền tiến lại hành lễ: “Nô tỳ tên gọi Khấp Nữ, là thị nữ của Nặc Nại tướng quân. Nặc Nại tướng quân đang đợi Vương tử phi.”
Té ra là y! A Hành gật đầu. Khấp Nữ liền xăng xái đi trước dẫn đường, trông có vẻ thông thuộc các cơ quan ở đây hơn cả vị chủ nhân này, xem ra Nặc Nại rất tin tưởng ả. Thấy A Hành âm thầm quan sát mình, Khấp Nữ ngoảnh lại cười: “Nghe tên nô tỳ vương tử phi thấy lạ phải không? Cha nô tỳ một lòng muốn có con trai, nhưng trong nhà lại sinh tất cả chín chị em gái, đến nô tỳ là đứa thứ mười, cha suýt nữa định vứt nô tỳ đi, ngay đến cái tên cũng không buồn đặt. Nô tỳ chẳng được ăn no, ngày đêm cứ khóc lóc nhèo nhẹo, mọi người đều gọi nô tỳ là Khấp Nữ. Hai trăm năm trước, không chịu nổi ngược đãi, nô tì bèn bỏ trốn khỏi nhà, may sao lúc bệnh nặng sắp chết thì gặp được Nặc Nại tướng quân, mới có chỗ nương nhờ. Bởi nô tỳ là nữ tử, không gây chú ý nên lâu nay nô tỳ thường xuyên yểm trợ cho tướng quân tới đây gặp Đại điện hạ.”
A Hành khen ngợi: “Nặc Nại tướng quân là nhân tài xuất chúng, nay thị nữ của y cũng là vạn người chọn một.”
Khấp Nữ dịu dàng cười, mở cửa cho A Hành: “Tướng quân đang đợi bên trong, mời vương tử phi vào, nô tỳ sẽ đứng ngoài.”
Hai người ngồi trong phòng nghe tiếng động đều đứng cả dậy, một kẻ chính là Nặc Nại dung mạo tuấn tú, phong thái phiêu dật, người kia chính là một nữ tử dung mạo bình thường, trông thấy A Hành, nàng liền gỡ mặt nạ bằng nhân diện tằm xuống.
“Vân Tang tỷ tỷ!” Nhận ra Vân Tang, A Hành reo lên mừng rỡ, nhào tới ôm chặt lấy nàng.
Vân Tang rưng rưng nước mắt, xem ra còn kích động hơn cả A Hành, “Muội không biết bao năm qua ta khổ sở chừng nào đâu.”
“Hiện giờ muội đã bình an vô sự rồi mà.”
Vân Tang nắm chặt lấy tay nàng, chăm chú nhìn A Hành từ đầu đến chân, cười nói: “Đúng là muội rồi, ta phải viết thư ngay cho Hậu Thổ để hắn khỏi áy náy buồn rầu nữa, bao năm nay tên ngốc đó cứ dằn vặt mình không thôi.”
A Hành ngẩn người một thoáng mới hiểu ra: “Tỷ cho muội gửi lời hỏi thăm hắn nhé,” đoạn cười hỏi tiếp: “Sao tỷ tỷ lại đến đây?”
Vân Tang đỏ bừng mặt khẽ thì thào: “Ta đã ở Cao Tân một thời gian rồi.”
A Hành nghe nói liền nhìn sang Nặc Nại, mím môi nén cười. Vân Tang gắng lấy lại bình tĩnh nói tiếp: “Trên Tử Kim đỉnh, tên khốn Xi Vưu bắt ta thề không can dự vào triều chính nữa, bằng không sẽ chết chẳng toàn thây! Ta ở lại Thần Nông cũng chẳng có việc gì làm, tới Cao Tân thăm thú thì có vấn đề gì chứ?”
A Hành xua tay, “Không có gì, không có gì.”
Nặc Nại bước lên hành lễ với nàng, “Hôm nay tôi đưa Vân Tang tới đây một là để nàng tận mắt thấy vương tử phi, từ rày yên lòng khỏi lo lắng, hai là muốn cầu xin vương tử phi một việc.”
Vân Tang liền nói: “Ta đi xem sao mãi Thiếu Hạo chưa tới.” Nói rồi nàng vội vã đeo mặt nạ lên, rời khỏi mật thất.
Nặc Nại mời nàng ngồi xuống, thong thả nói: “Vương tử phi chớ thấy Vân Tang chửi rủa Xi Vưu mà lầm, thật ra trong lòng nàng biết rõ, Xi Vưu là muốn tốt cho nàng. Chúc Dung bất ngờ bế quan, Xi Vưu không còn trở ngại gì, lập tức thực hiện cải cách. Nhờ phương pháp cứng rắn của hắn, mấy chục năm trước Thần Nông đã ổn định cục thế. Có điều Vân Tang giờ đây chỉ còn lại Viêm Đế là ruột rà máu mủ, vương tử phi biết tính nàng rồi đó, nàng làm đại tỷ đã quen, chuyện gì cũng không yên tâm, chuyện gì cũng lo lắng, chỉ mãi nghĩ cho người khác mà quên cả bản thân mình, dù tôi có khuyên thế nào nàng cùng không đành lòng bỏ rơi Viêm Đế, lại thêm Cộng Công và Hậu Thổ cứ tới tìm Vân Tang nhờ giúp đỡ. Hết cách, ta đành tới nhờ Xi Vưu, nói rõ tình cảm của ta dành cho Vân Tang, hy vọng Vân Tang có thể yên lòng mà sống. Xi Vưu thật không hổ là đại trượng phu! Hắn chẳng nể nang tiếng vong ân phụ nghĩa, buộc Vân Tang phải thề độc không được tham gia triều chính. Nhìn bề ngoài làm vậy có vẻ tàn nhẫn vô tình, nhưng thực ra đó là vì muốn tốt cho Vân Tang, vừa buộc nàng dứt ra, vừa khiến bọn Hậu Thổ thấy Vân Tang không còn giá trị lợi dụng, để chúng khỏi kéo nàng vào vòng tranh đấu quyền lực nữa.”
Nặc Nại thở phào cười: “Bây giờ tôi liền ép Vân Tang tới Cao Tân.”
A Hành hỏi lại: “Ép ư? Ta thấy Vân Tang tỷ tỷ rất vui, e rằng đã vui quên đường về rồi!”
Nặc Nại tràn trề hạnh phúc, hành lễ với nàng, “Vân Tang đã đồng ý gả cho tôi, phiền vương tử phi tác thành.”
“Ta dĩ nhiên bằng lòng, nhưng việc này chẳng phải tướng quân nên đi nhờ Thiếu Hạo hơn ư?”
Thiếu Hạo cùng Vân Tang một trước một sau tiến vào, nghe nàng nói, y bật cười đáp: “Chuyện này nàng giúp được nhiều hơn ta đấy.”
Nặc Nại đỡ lời: “Hiện giờ điện hạ đang phải trấn giữ Thang cốc, cả năm cũng khó mà giáp mặt Tuấn Đế một lần. Nếu điện hạ có ý bái kiến Tuấn Đế xin ban hôn, lại thêm thân phận đặc biệt của Vân Tang, e rằng sẽ khiến Tuấn Đế sinh lòng nghi kỵ. Nhưng vương tử phi lại khác, lúc nào vương tử phi cũng có thể vào cung. Tuấn Đế thích thơ từ ca phú, ham nuôi trồng các loại kỳ hoa dị thảo, mà luận về thơ từ ca phú trong thiên hạ không ai hơn được Xương Ý, hiểu biết về kỳ hoa dị thảo, trên đời cũng chẳng ai bì được Viêm Đế đời trước. Vương tử phi là kẻ duy nhất trong thiên hạ kế thừa được sở trường cả của hai người, hơn hai trăm năm trước, Tuấn Đế đã có thiện cảm với vương tử phi, thậm chí vì thế mà tử tế hơn với điện hạ. Chỉ cần vương tử phi lựa lúc thích hợp, nói giùm tôi và Vân Tang mấy lời trước mặt Tuấn Đế, với bản tính đa tình của ngài, hẳn sẽ lập tức phê chuẩn.”
“Hóa ra là thế.” A Hành nghĩ ngợi một lát rồi cười: “Dạo trước, trên đường từ Hiên Viên về Cao Tân, ta tìm được mấy giỏ lan hiếm có, cũng vừa mới vun xới cho ra dáng, ngày kia ta sẽ vào cung dâng phụ vương.”
Nặc Nại mừng rỡ, cảm ơn luôn miệng, “Đa tạ, đa tạ vương tử phi.”
Thiếu Hạo cười bảo: “Đều là người nhà cả, cần gì giữ lễ như thế? Đợi hai người thành hôn, cả hai kính A Hành mấy chung rượu là được mà.”
Vân Tang cúi đầu ngồi im trong góc phòng, mặt đỏ bừng vì thẹn. A Hành cười nắc nẻ, chợt liếc qua cánh cửa khép hờ, trông thấy Khấp Nữ đứng giữa bóng tối bên ngoài đang chòng chọc nhìn Vân Tang, ánh mắt vừa ghen tỵ vừa buồn bã, vô cùng phức tạp. Phát hiện ra A Hành đang nhìn mình, ả liền gượng cười hành lễ rồi khép cửa lại.
Như Nặc Nại dự liệu, A Hành vốn tinh thông thơ từ ca phú, trồng cỏ chăm hoa, rất tương đắc với Tuấn Đế. Thêm vào đó nàng lại cố ý lấy lòng nên chưa đầy một tháng, đã được Tuấn Đế cưng chiều yêu quý hơn cả con gái.
Một hôm, A Hành mượn cớ tán thưởng bức họa uyên ương hồ điệp rồi khéo léo liên hệ sang mối tình của Nặc Nại và Vân Tang, vì thân phận khác biệt mà phải chịu bao đau khổ, cầu xin Tuấn Đế thành toàn cho hai người. Nghe nói chàng có tình, thiếp có ý, Tuấn Đế chẳng những không coi là ngỗ nghịch mà còn tươi cười cho phép bọn họ thành hôn.
A hành vui mừng, vội quỳ xuống lạy tạ. Tuấn Đế chỉ cười bảo: “Trời cao luôn muốn tác thành cho uyên ương chắp cánh, hồ điệp cùng bay, tuy ta không dám bì với trời nhưng cũng rất mong người có tình trong thiên hạ đều được thành đôi lứa. Nếu ai ai cũng hạnh phúc, hẳn thế gian sẽ bớt được ít nhiều phân tranh.”
Đột nhiên A Hành thấy bứt rứt khôn tả, chẳng rõ mình giúp Thiếu Hạo hạ độc con người ôn hòa đa tình này liệu có đúng chăng? Nhưng nếu không giúp, Thiếu Hạo nay đã bị dồn vào chân tường, hẳn sẽ phát động binh biến, e rằng giang sơn lại một phen máu chảy thành sông, thây phơi đầy nội. Nàng đành tự nhủ rằng Thiếu Hạo ắt sẽ không hại chết Tuấn Đế, nhằm nén nỗi day dứt trong lòng xuống.
Sau khi về phủ, A Hành lập tức viết thư báo tin mừng với Nặc Nại và Vân Tang. Theo “kế hoạch tuyệt mật” của Thiếu Hạo, Nặc Nại đã bị phái đến biên cương, trấn thủ Hy Hòa bộ, một là để kiềm chế Bạch Hổ bộ, hai là phòng khi trong nước có biến, các nước láng giềng thừa nước đục thả câu, dẫn quân xâm phạm. Bởi thế Nặc Nại và Vân Tang đều không ở kinh đô.
Cuối thư, A Hành phân vân giây lát rồi viết thêm một đoạn. Khấp Nữ sớm chiều hầu hạ bên Nặc Nại suốt hai trăm năm, e rằng đã sớm nảy sinh tình cảm với y, tuy chẳng ngại ả gây bất lợi gì cho Vân Tang, nhưng nảy sinh tình thế hiện giờ đối với cả hai người đều không ổn, hy vọng Nặc Nại lưu ý xử lý chuyện này cho thỏa đáng.
Thư phúc đáp của Nặc Nại khiến A Hành rất yên tâm. Vì Vân Tang, cũng là để báo đáp lòng trung thành của Khấp Nữ hai trăm năm nay, y sẽ sắp xếp ổn thỏa cho Khấp Nữ trước khi thành hôn. Y định nhận Khấp Nữ làm muội muội, chọn cho ả một người chồng ưu tú. Nếu tạm thời ả chưa muốn lấy chồng, y sẽ đưa Khấp Nữ về bầu bạn với mẹ mình, chờ ả tìm được người vừa ý.
Hôn sự của Nặc Nại và Vân Tang đã chính thức công bố. Tuy Vân Tang hạ giá lấy Nặc Nại hết sức sức đột ngột, nhưng được sự đồng ý của hai vị đế vương Tuấn Đế và Viêm Đế, mọi chuyện đều trở nên danh chính ngôn thuận.
Nặc Nại tự mình tới Thần Nông sơn định ngày thành hôn với Viêm Đế. Theo kế hoạch, vào mùa xuân sang năm, khi muôn hoa đua sắc, y sẽ tới rước dâu.
Cuối năm, Tuấn Đế trở nên bệnh nặng, không gánh vác nỗi việc triều chính, bèn ủy thác mọi việc cho Yến Long xử lý thay, thấy vậy cả triều đình đều cho rằng đã tìm được nơi gửi gắm lòng trung. Nhưng trong tiệc tiên năm cũ mừng năm mới, Tuấn Đế lại than nhớ con, truyền triệu Thiếu Hạo bị biếm đi trấn thủ Thang cốc trở về.
Thiếu Hạo vừa về đến Ngũ Thần sơn, Tuấn Đế liền cho tuyên triệu ngay lập tức, ân cần dặn dò đủ điều, hai cha con trò chuyện suốt cả buổi chiều.
Thấy vậy, các triều thần lại càng hồ đồ, không sao đoán nổi ý Tuấn Đế. Thật ra, mọi chuyện đều bắt nguồn từ lòng nghi kỵ của đế vương mà thôi. Tuấn Đế rất yêu thương Yến Long, định sau khi qua đời sẽ truyền ngôi cho hắn. Có điều giờ đây ông mới mang bệnh chứ chưa qua đời, tạm thời phải giao việc triều chính lại cho Yến Long, nhưng lại lo Yến Long thừa cơ tước đoạt quyền lực của mình, bèn cho triệu kẻ đối đầu với Yến Long là Thiếu Hạo về kinh, để y kiềm chế Yến Long.
Tiếc rằng hai đứa con của Tuấn Đế đều đã trưởng thành, đâu còn là đứa con nhỏ bi bô học nói, đương nhiên không chịu làm quân cờ cho cha sắp xếp.
Dưới sự hỗ trợ của Tuấn Hậu, Yến Long bèn nhân cơ hội này dốc toàn lực khuếch trương thế lực bản thân, ra sức thay đổi quan lại trong triều.
Thiếu Hạo rời xa Ngũ Thần sơn đã quá lâu nên chẳng có mấy quan hệ với quan viên trong triều, không biết phải làm sao, đành án binh bất động.
Hơn ba tháng sau, khi ngọn gió xuân hây hẩy dạo khắp Giang Nam, chính là mùa đẹp nhất trong năm của Cao Tân, nơi nơi mịt mù mưa bụi, hoa thơm đua sắc, oanh hót én bay.
Tuấn Đế được tiến cống một chậu mỹ nhân đào, hết sức vui mừng thích thú, hệt như trẻ nhỏ được quà, chỉ lăm le muốn đem khoe với bạn, lập tức sai người tới truyền A Hành vào cung, khoe với nàng cây đào trong đình viện.
A Hành nghi hoặc hỏi: “Đây là loại hoa đào cánh kép nhưng sắc hoa lại màu phấn hồng, có phải bích đào không ạ?”
Tuấn Đế cười thành tiếng, tựa mình vào chiếc gối nền trắng hoa xanh, rủ rỉ giảng: “Con vừa thấy hoa cánh khép hiếm gặp, lại có màu phấn hồng đã đoán ngay là bích đào, không phải đâu. Tuy hoa đào cánh kép rất hiếm nhưng còn chia ra làm mười loại, có loại màu hồng, màu trắng, màu phấn hồng, hồng trắng đan xen, nên trắng đốm đỗ, bông lớn bông bé khác nhau, dựa theo màu sắc và hình dáng mà đặt tên, có uyên ương đào, thọ tinh đào, nhật nguyệt đào, thụy tiên đào, mỹ nhân đào…”
Tuấn Đế đang hào hứng giảng giải, thấy Thiếu Hạo lững thững lại gần, ngạc nhiên cười hỏi: “Sao chẳng nghe tùy tùng thông báo là con tới? Đến rồi thì lại đây cùng ngắm gốc đào quý này với ta.”
Thiếu Hạo quỳ xuống dập đầu, dâng lên Tuấn Đế một bản tấu chương liệt kê mọi hành vi của Yến Long trong thời gian gần đây, nghiêm trọng nhất là hắn dám thay đổi cả thị vệ canh giữ cung đình, điều mà các đế vương xưa nay vẫn kiêng kỵ nhất.
Sắc mặt Tuấn Đế càng lúc càng khó coi, ông giận dữ thét gọi nô tài, toan sai bọn chúng lập tức tuyên triệu Yến Long, nhưng gọi mãi chẳng thấy tên nào chạy vào.
Cảm thấy không ổn, Tuấn Đế trừng mắt nhìn Thiếu Hạo, “Thị vệ đâu cả rồi? Ngươi định làm gì đây?”
Thiếu Hạo liền tâu: “Nhi thần đã theo lời căn dặn của phụ vương, nghĩ giùm Người một đạo ý chỉ. Yến Long câu kết với Tuấn Hậu, ý đồ làm loạn, cộng tất cả tội chứng lên tới một trăm mười mấy tội, chứng cứ như núi. Phụ vương đã quyết định giam cầm Yến Long, phế bỏ Tuấn Hậu.”
Tuấn Đế tái mặt, ánh mặt sắc lạnh như dao: “Quyết định của ta ư?”
“Vâng, là quyết định của phụ vương!” Thiếu Hạo bình tĩnh đáp, vẻ kiên định. Ánh mắt sắc như dao của Tuấn Đế gặp phải khí thế cứng rắn trầm ổn của y, lập tức tiêu tan.
Tuấn Đế uất ức gầm lên, nhưng dù thét lớn đến đâu cũng chẳng tên thị vệ nào tiến vào. Ông sực hiểu Thiếu Hạo đã khống chế cả cung điện rồi.
Tuấn Đế trợn trừng mắt nhìn Thiếu Hạo, y cũng lặng lẽ nhìn ông.
Bầu không khí trong phòng yên ắng tới nỗi có thể nghe thấy tiếng thở dốc của ba con người với bao giằng xé nội tâm.
Một hồi lâu, ánh mắt Tuấn Đế từ từ chuyển sang A Hành, nàng vội cúi đầu, không dám nhìn thẳng vào mắt ông. Tuấn Đế khẽ hỏi: “Con có biết không?”
A Hành không sao trả lời được, Thiếu Hạo đành phải đáp thay: “Nàng không biết.”
Tuấn Đế gật đầu cười: “Vậy thì tốt, coi như không phụ gốc đào này.”
Thiếu Hạo trải một vuông lụa trắng tinh ra trước mặt Tuấn Đế: “Xin phụ vương hạ chỉ.”
Tuấn Đế vung bút một lượt, tuyên bố phế bỏ Tuấn Hậu, giam cầm Yến Long, đoạn cầm cả bút lẫn lụa ném vào mặt Thiếu Hạo: “Đem đi ngay!”
Ngọn bút chưa khô vẩy đầy mực lấm lem lên mặt lên người Thiếu Hạo, y lặng lẽ lau sạch mực trên mặt mình, âm thầm nhặt mảnh lụa lên, trao cho viên tướng đứng hầu ngoài rèm.
Một đội thị vệ bước vào, đều là những gương mặt lạ hoắc.
Thiếu Hạo bẩm: “Mời phụ vương dời đến Kỳ viên để tiện tĩnh dưỡng.”
Tuấn Đế giận đến run bắn người lên: “Ngươi nôn nóng đến thế ư?”
Thiếu Hạo mặt lạnh tanh, khom lưng đáp: “Nhi thần kính mời phụ vương dời giá.”
Bi ai và phẫn nộ đồng loạt cuộn lên trong lòng Tuấn Đế. Biết cục thế đã không sao cứu vãn nỗi, ông hít sâu mấy hơi, bất lực ra lệnh: “Đi thôi!”
Đám thị vệ lập tức tiến lại vực Tuấn Đế ngồi lên ngai. Tuấn Đế nhắm nghiền mắt, chẳng nói chẳng rằng.
Dưới sự “hộ tống” của hơn trăm tên thị vệ, cả đám người rầm rộ bay về phía Tiệm Châu phong, ngọn núi nằm về cực Đông của Ngũ Thần sơn. Từ đây muốn liên lạc với đất liền phải vượt qua bốn đỉnh núi khác trong Ngũ Thần sơn, nên các đời đế vương đều thu xếp cho huynh đệ hoặc thái hậu bất hòa với mình tới đây ở, cũng là một hình thức giam cầm biến tướng.
Thiếu Hạo đứng bên ngoài điện, dõi mắt nhìn theo đoàn người khuất bóng cuối chân trời.
Y ngoảnh đầu, bắt gặp A Hành đang đứng lặng dưới gốc đào, hoa hồng mặt ngọc chiếu rọi lẫn nhau, nhưng ánh mắt nàng lại lạnh buốt như băng giá.
A Hành hỏi: “Gốc đào này là chàng sai người dâng lên phụ vương phải không? Chàng thừa biết phụ vương có được trân phẩm, nhất định sẽ cùng thiếp thưởng thức mà.” Nàng biết sớm muộn gì Thiếu Hạo cũng sẽ ra tay, nhưng chẳng ngờ lại là hôm nay, càng không nghĩ y lại lợi dụng mình để phân tán sự chú ý của Tuấn Đế.
Thiếu Hạo lặng người ngắm gốc đào nở hoa rực rỡ.
Tiếng phụ nữ khóc than văng vẳng vọng lại, xem ra các vị tướng sĩ đang di dời hậu cung của phụ vương.
Tuấn Đế vốn ưa đàn sáo sênh ca nên các nữ tử trong hậu cung đều hát hay đàn giỏi, bất cứ khi nào đi ngang đều nghe văng vẳng tiếng trúc tơ hòa cùng giọng ca cao vút. Khắp điện nhan nhản kỳ hoa dị thảo được vun trồng kỹ lưỡng, mỗi khi có gió, hương hoa thơm ngát cả điện, dẫu lặng gió, trong điện vẫn phảng phất một mùi hương thầm lặng. Ai ai bước vào tòa cung điện nguy nga lộng lẫy này đều hoa mắt mê mẩn, đến nỗi vương tử Thần Nông quốc năm đó đến Thừa Ân cung một lần mà không sao quên nổi, bèn giật dây Viêm Đế đời thứ bảy tấn công Cao Tân quốc.
Suốt từ sáng sớm, các cung nhân cũ, kẻ bị giết người bị giam, mười phần đã giảm bớt đến bảy tám. Còn một nhóm cận thần cung phi cuối cùng, hoặc bị xử tử, hoặc bị giam lỏng. Cả cung điện vắng hoe không một bóng người, trừ đám binh sĩ xách dao xách kiếm.
Cung điện mênh mông đột nhiên trở nên quạnh quẽ yên ắng, khác hẳn khi trước.
An Tấn và An Dung bước vào, hai huynh đệ họ xuất thân từ Thanh Long bộ, cùng tộc với mẹ đẻ Thiếu Hạo, có quan hệ bà con với y, đồng thời cũng là tâm phúc của y.
An Tấn tướng quân bước đi như rồng như hổ, toát lên vẻ mạnh mẽ ngang tàn của quân nhân, sang sảng tâu: “Điện hạ, tất cả phi tần trong hậu cung, hễ chưa sinh con cái đều bị trục xuất khỏi Thừa Ân cung, đưa đến Tích Hương cư dưới Ngũ Thần sơn.”
An Dung tướng mạo tuấn tú, vóc dáng cao to thong thả lên tiếng: “Các cung nhân được giữ lại đều là người đáng tin cậy, thần đã tuyển lựa kỹ càng rồi. Trước khi điện hạ vào ở Thừa Ân cung, có cần tuyển thêm một đợt mới không?”
Thiếu Hạo liền đáp: “Khỏi đi, chỉ có ta và vương tử phi thôi mà, các cung nhân còn lại, cộng thêm người của Thừa Hoa điện là đủ rồi.”
An Tấn xoa tay nói: “Đúng thế! Trước đây một người phụ nữ cần đến mười mấy kẻ hầu hạ, hiện giờ đã đuổi hết đám nữ nhân đó ra khỏi cung, đương nhiên chẳng cần nhiều nô tỳ như thế nữa. Thời gian tuyển nô tì, chi bằng nghĩ kế đánh giặc còn hơn.”
An Dung kéo tay ca ca rồi nhỏ nhẹ góp ý với Thiếu Hạo: “Quả thật hiện giờ chỉ có điện hạ và vương tử phi, nhưng sau khi đăng cơ, điện hạ sẽ phải lập thêm phi tần, cần có tỳ nữ hầu hạ các vị vương phi chứ.”
An Tấn trừng mắt, “Tuyển phi tần cái gì? Ta cảnh cáo tên tiểu tử đệ, chớ xúi bậy điện hạ mải mê nữ sắc, học mấy trò nhảm nhí!”
An Dung dở khóc dở cười, “Tuấn Đế các đời trước đều chọn nữ tử trong tứ bộ phong làm phi tần, Đại ca huynh tưởng rằng bọn họ xinh đẹp hơn người thật ư? Sau khi điện hạ đăng cơ, phải tiêu diệt kẻ địch, còn phải luận công ban thưởng cho quần thần nữa, Thanh Long bộ của chúng ta không nói làm gì, nhưng lòng trung của của Hy Hòa bộ đối với điện hạ, chẳng lẽ không cần báo đáp sao? Cách báo đáp tốt nhất là gì? Chẳng phải là tuyển nữ tử của Hy Hòa bộ vào cung, để hoàng tử tương lai mang huyết mạch Hy Hòa bộ sao? Thường Hy bộ e khó mà lôi kéo được, Bạch Hổ bộ lại kết bè với bọn Yến Long, Trung Dung, nếu điện hạ chọn phi tử trong Bạch Hổ bộ, chỉ sợ một nữ tử vào cung liền kéo theo vô số âm mưu.”
An Tấn nghe đến váng cả óc, bèn xua tay, hành lễ cáo từ Thiên Hạo, “Hai người cứ từ từ bàn bạc đi, hễ có đánh nhau nhớ đừng quên ta đấy.”
Thấy An Tấn đã lui ra, An Dung lại cười hỏi: “Điện hạ có cần thần để mắt chọn lọc nữ tử trong tứ bộ không? Tuy thân phận huyết thống là quan trọng nhất, nhưng dung mạo tính tình nhất định không làm ngài khó chịu đâu.”
Thiếu Hạo thẫn thờ nhìn theo hướng A Hành khuất bóng, chẳng nói chẳng rằng, hồi lâu mới buột miệng: “Khỏi cần.”
An Dung tái mặt, “Điện hạ, tuy chúng ta thành công tạm thời nhưng không thể xem thường thế lực bọn Yến Long và Trung Dung được. Nếu muốn củng cố đế vị, nhất định phải…”
“Ta đã bảo không cần cơ mà!”
An Dung rùng mình, sực nhận ra kẻ trước mặt đây không còn là Thiếu Hạo nữa, mà đã trở thành đế vương của Cao Tân, vội quỳ sụp xuống: “Thần hiểu.”
Thiếu Hạo cúi người giơ tay nâng hắn dậy, “Biểu đệ, ta biết ngươi một lòng muốn tốt cho ta, nhưng… chuyện này để sau hãy nói đi, ta không tin Thiếu Hạo ta phải dựa vào nữ nhân mới thu phục được giang sơn này!”
Nghe cách xưng hô của y, An Dung mới yên lòng, liền hành lễ cáo từ, “Bên Kỳ viên điện hạ còn dặn dò gì không?”
Thiếu Hạo trầm ngâm hồi lâu rồi trỏ gốc đào: “Sai người đào gốc cây này lên cẩn thận, đưa đến Kỳ viên.”
An Dung vâng dạ, hắn chần chừ toan nói gì đó, nhưng rồi lại nén xuống.
Đêm đó, Thanh Dương cưỡi Trùng Minh điểu, nhân lúc khuya khoắt bay thẳng đến Thang cốc hoang vu nằm ở cực Đông của đại hoang.
Dưới gốc phù tang la liệt những vò rượu rỗng, Thiếu Hạo đã say bí tỉ.
Thanh Dương lặng lẽ ngồi xuống dựa lưng vào gốc cây, đập vỡ niêm phong một vò rượu, ngửa cổ uống ừng ực.
Thiếu Hạo cười hỏi: “Sao ngươi không chúc mừng ta? Hôm nay ai gặp ta cũng chúc mừng ta hết đó!”
Thanh Dương lạnh nhạt hỏi: “Chúc mừng cái gì? Chúc mừng ngươi hại cha giết em ư?”
Thiếu hạo phá lên cười ngặt nghẽo, hồi lâu mới vừa cười vừa lè nhè nói: “Ta khống chế được tình thế mà, không đến nỗi làm nghiêng trời lệch đất, cạn tàu ráo máng đâu.”
Thanh Dương làm thinh không đáp. Có những con đường một khi đã đặt chân lên thì chẳng thể quay đầu lại nữa, chỉ có thể đi mãi đi mãi về phía bóng đêm thăm thẳm, dù bản thân có muốn cũng khó mà khống chế.
Thấy Thiếu hạo ném cho mình một lọ thuốc, Thanh Dương liền hỏi: “Gì thế?”
Thiếu Hạo say khướt, trông càng tuấn tú phong lưu hơn hẳn khi tỉnh táo, y cười đáp: “Thứ này sẽ khiến phụ vương ngươi lâm bệnh, không thể xử lý chính sự.”
Thấy Thanh Dương biến hẳn sắc mặt, Thiếu hạo cười cười bồi thêm: “Không ai tra ra được đâu!”
Thanh Dương thất thanh hỏi: “Lẽ nào phụ vương ngươi thật sự không sinh bệnh? Ta tưởng ngươi chỉ nắm lấy cơ hội trời ban thôi chứ?”
Thiếu Hạo phá lên cười, “Thanh Dương tiểu đệ, ta tưởng lòng dạ ngươi đã sắt đá rồi, nào ngờ vẫn khờ khạo thế kia à! Lấy đâu ra cơ hội trời ban? Chỉ có cơ hội do mình tạo ra mà thôi! Hơn hai ngàn năm, ta đợi hơn hai ngàn năm để được cái gì? Tính tình Hoàng Đế ra sao ngươi cũng biết rồi, ngươi muốn đợi cái gì hả? Ngươi tưởng ngươi có thể đợi được cái gì? Đồng Ngư thị trong Chỉ Nguyệt điện sẽ bỏ qua cho ngươi, bỏ qua cho mẹ ngươi sao?”
Thanh Dương nắm chặt lấy lọ thuốc, gân xanh nổi đầy tay.
Thiếu Hạo nói tiếp: “Có mỗi lọ thuốc này thôi đấy, phải dùng thật đúng chỗ.”
“Ở đâu ngươi có thuốc này? Ngươi không sợ bị bại lộ ư?”
“Suỵt!” Thiếu Hạo đặt ngón trỏ lên môi ra hiệu, cười ngất ngư, “Không cho ngươi biết đâu! Ta nói với kẻ chế thuốc là một lọ để cho phụ vương, một lọ cho Yến Long, nàng ta cứ ngỡ lọ thuốc này dành cho Yến Long, chẳng biết gì cả.”
Thấy Thanh Dương nhận lấy lọ thuốc, Thiếu Hạo liền tươi cười giơ vò rượu lên, “Nào! Chúc mừng hai ta sánh vai tác chiến, vật lộn với sinh tử!”
Thanh Dương cũng nâng vò rượu cụng đánh cốp với Thiếu Hạo, hai vò rượu lập tức vỡ nát, vẩy đầy người cả hai.
“Rượu ngon!” Thiếu Hạo phá lên cười, cả người lảo đảo rồi ngả ngửa ra giữa những vò rượu ngổn ngang.
Thanh Dương đứng dậy gọi Trùng Minh điểu lại, chuẩn bị quay về.
Thiếu Hạo lẩm bẩm trong cơn say: “Đợi ngươi đăng cơ trở thành Hoàng Đế, chúng ta sẽ cùng nhau tranh đoạt thiên hạ. Thanh Dương, nếu ta chết trong tay ngươi, ngươi cứ táng ta trong vò rượu. Còn nếu ngươi chết trong tay ta, ta sẽ…” Y mơ màng nghĩ ngợi, “Ta sẽ đem đầu lâu ngươi làm thành vương tọa, hàng ngày lên triều đều ngồi, ngày ngày ngồi, tháng tháng ngồi, ngồi đến khi ta chết mới thôi.”
Thanh Dương vốn lạnh lùng cũng phải bật cười hỏi: “Sao lại thế? Ngươi hận ta tranh đoạt thiên hạ với ngươi ư?”
Thiếu Hạo cười hì hì, xua tay, “Đâu có, ta báo thù cho ngươi đó chứ! Khiến kẻ ngồi trên vương tọa đó ngày ngày đều phải nhớ đến ngươi, suốt ngày đều bồn chồn lo lắng còn gì!”
Thanh Dương đang cười ha ha chợt ngẩn ra rồi tắt hẳn nụ cười, lòng trào lên bao nỗi muộn phiền hiu quạnh, không sao nén xuống được. Y huýt một tiếng lanh lảnh, lập tức Trùng Minh điểu vỗ cánh bay vút lên trời, biến mất giữa biển mây.
Tuấn Đế hạ chỉ bố cáo thiên hạ, nói mình lâm bệnh nặng, không thể tiếp tục trị vì nên nhường ngôi cho Đại vương tử Thiếu Hạo tài đức kiêm toàn, nhân hiếu cung khiêm đủ cả.
Thiếu Hạo khước từ mấy bận rồi cũng chính thức đăng cơ, chuyển vào ở trong Thừa Ân cung Ngũ Thần Sơn, trở thành Tuấn Đế đời thứ tám, phong Hiên Viên Bạt làm vương phi. Mọi người đoán già đoán non rằng hai người bọn họ phu thê ân ái, vậy mà Thiếu Hạo lại không phong Hiên Viên Bạt làm Tuấn Hậu, hẳn là vì thân thể nàng quá yếu đuối, mấy trăm năm vẫn chưa sinh con.
Đại tiệc chúc mừng Thiếu hạo đăng cơ được ở tiền điện Thừa Ân cung, có mặt đông đủ bá quan văn võ.
Hiên Viên Bạt ngồi dự một lát rồi cáo mệt xin về nghỉ. Biết nàng đã bệnh liệt giường hai trăm năm, mọi người cũng chẳng lấy thế làm lạ.
Về đến tẩm cung, Hiên Viên bạt mới cảm thấy thư thái tinh thần, bèn cho tất cả thị nữ lui ra. Đang thay y phục, chợt thấy kẻ nào đó vươn tay toan siết chặt lấy eo lưng, nàng lập tức nghiêng mình tránh né, lật tay trả đòn rất nặng.
“Là ta!”
Lực đánh của nàng lập tức tiêu tan, thân thể bị Xi Vưu kéo vào lòng, chưa kịp nói năng gì, một nụ hôn dài mà mãnh liệt đã áp lên môi.
Xi Vưu cười hỏi: “Sao ra tay tàn độc thế?”
A Hành tựa vào lòng hắn, uể oải đáp: “Tuy Yến Long đã bị giam nhưng bọn Trung Dung vẫn nhởn nhơ bên ngoài. Dạo này nghe đồn định hành thích Thiếu Hạo nên tinh thần lúc nào cũng căng như dây đàn.”
Xi Vưu thẳng thắn: “Nếu là Thiếu Hạo, ta sẽ giam quách hai mươi mấy huynh đệ đó lại, kẻ nào giữ lại được thì giữ, kẻ nào không giữ lại được thì giết, việc gì phải tạo thêm phiền toái cho mình như thế?”
A Hành mỉm cười đáp: “Bởi vì người thiên hạ có gọi chàng là ma đầu hay không, chàng cũng chẳng để tâm, nhưng Thiếu hạo thì khác, y muốn làm một đế vương tốt. Dùng bạo lực có thể đoạt được thiên hạ, nhưng để trị vì thiên hạ lại phải dựa vào nhân hiếu lễ nghi, hơn nữa, sát nghiệp quá nặng cũng chẳng hay ho gì. Phải rồi, sao tự dưng chàng tới đây?”
Xi Vưu áp đầu A Hành vào ngực, để nàng nghe được tiếng tim mình đập: “Nàng nghe thấy tiếng của nó không? Nó đang nói nhớ nàng đấy, thế còn nàng? Có nhớ ta không?”
A Hành không đáp, chỉ níu lấy cổ Xi Vưu, ghì đâu hắn xuống hôn lên má.
Xi Vưu hớn hở kéo A Hành lại phía cửa sổ: “Ta đưa nàng đi chỗ này.”
Hai người vừa nhảy ra ngoài cửa sổ, đột nhiên Thiếu Hạo tươi cười bước vào tươi cười gọi: “A Hành, A Hành.”
A Hành vội đẩy Xi Vưu một cái, hắn nhanh như chớp dán sát người vào bức tường bên song. Từ trong nhà nhìn ra, chỉ thấy mình A Hành đứng ngoài cửa sổ.
“Sao chàng lại đến đây? Tiệc tan rồi à?”
Nụ cười trong mắt Thiếu Hạo lan xuống khóe môi, “Chưa, ta lấy cớ đi tiểu lén chuồn ra đó.”
“Có chuyện gì ư?”
“Không có gì, chỉ tiện thể tới xem nàng thôi. Nàng mới chuyển vào ở đây có quen không?”
“Còn thoải mái hơn ở Thừa Hoa điện ấy chứ. Trước đây đi đến đâu cũng bị cả đám cung nữ thị vệ lẳng nhẳng đi theo, giờ thì dễ chịu hơn nhiều rồi, cảm ơn chàng.”
Thiếu Hạo cười nói: “Đám đại thần đó còn sợ chúng ta thiếu người hầu hạ, nào biết chúng ta đã được ‘hầu hạ’ đến phát khiếp lên rồi, người bên cạnh càng ít càng mừng!”
Thấy Xi Vưu sốt ruột giật giật tay áo mình giục giã, nàng liền hỏi: “Chàng còn chuyện gì nữa không?”
“Hết rồi, nàng nghỉ ngơi đi.” Thiếu Hạo quay gót trở lui.
Ra khỏi cửa điện, đi được một quãng, y chợt dừng bước ngẩng đầu nhìn trời, nhưng bầu trời đêm thăm thẳm, nào thấy bóng ai?
Trong tay áo rộng còn giấu vò rượu, vốn là cống phẩm từ một đảo nhỏ phía Nam dành riêng cho bữa tiệc hôm nay, được ủ từ trái dừa, cả thảy chỉ có hai vò, y uống một ngụm, cảm thấy mùi vị rất đặc biệt, khác hẳn những thứ rượu từng uống khi trước, bèn nhân lúc mọi người không để ý, lén trộm lấy một vò định mang tặng cho A Hành.
Y trở gót quay lại, thấy đám thị nữ đang gà gật bên hành lang.
Thiếu Hạo khẽ khàng bước vào tẩm điện, nhưng chỉ còn phòng trống, người đã đi rồi.
Cửa sổ mở toang, gió lùa vào phòng, thổi phần phật cánh màn.
Y lặng lẽ đặt vò rượu dừa lên đầu giường nàng, khép cửa sổ lại rồi bước ra khỏi điện.
Tiêu Dao bay khoảng hai canh giờ thì đỗ lại Thần Nông sơn, Xi Vưu nắm tay A Hành nhảy xuống.
A Hành thảng thốt nhìn về phía đỉnh Tiểu Nguyệt, bao chuyện cũ vẫn như đang sờ sờ trước mắt, tựa hồ nàng mới từ biệt Viêm Đế hôm qua. Thực tế thì hài cốt Viên Đế chắc đã mục dưới mồ.
“Sao lại đưa ta đến đây?”
Xi Vưu trỏ sơn cốc đối diện, A Hành căng mắt nhìn kỹ mới lờ mờ trong thấy một đoàn người.
“Đêm nay Chúc Dung xuất quan, mấy kẻ nàng thấy kia là tùy tùng của hắn. Chắc người của Hậu Thổ và Cộng Công cũng nấp đâu đó, âm thầm bảo vệ hắn.”
“Chàng định làm gì?”
“Không phải là định làm gì, mà là nàng muốn làm gì?”
“Hả?”
Xi Vưu quàng tay ôm lấy nàng từ phía sau, tì cằm lên vai A Hành, “Nàng có muốn lấy mạng Chúc Dung không?”
“Khỏi đi.” A Hành quay lại, nắm lấy tay hắn, “Đừng bức bách đám danh gia vọng tộc đó quá đáng. Tuy hiện giờ chúng sa sút nhưng chúng có nền tảng mấy vạn năm ở Thần Nông, chàng chỉ thấy cành là héo khô trên mặt đất, chứ không biết được cội rễ dưới đất sâu đến chừng nào.”
“Một là không làm, hai là làm đến cùng, diệt cỏ phải diệt tận gốc!”
A Hành toan khuyên nữa, nhưng nghĩ đi nghĩ lại vẫn còn Du Võng ở đó, nàng không cần phải quá lo. Viêm Đế năm xưa hẳn đã lường trước sự hung tàn của Xi Vưu nên mới cố ý dùng tính tình ôn hòa của Du Võng để trung hòa bớt.
Xi Vưu lại kéo A Hành lên lưng Tiêu Dao, bay về phía Cửu Lê, “Nàng đã không muốn giết Chúc Dung thì chúng ta về Cửu Lê, đào một vò Ca tửu của Mê Đóa ủ lên uống.”
Đột nhiên ánh sáng từ đâu bùng lên rực rỡ, từng đoạn hồng quang tỏa khắp đất trời.
A Hành và Xi Vưu chẳng hẹn mà cùng ngoảnh lại, thấy cả dãy Thần Nông sơn chạy dài ngàn dặm phủ kín bởi hồng quang, như thể hai mươi tám ngọn núi đều biến thành lò lửa.
A Hành ngẩn người nhìn, lẩm bẩm: “Có lẽ giờ đây Chúc Dung mới xứng được gọi là Hỏa Thần.”
Cũng như A Hành, Xi Vưu rất kinh ngạc trước thần lực của Chúc Dung. Có điều xưa nay hắn chẳng biết lo nghĩ là gì, cứ phởn phơ cười, kéo gương mặt nàng lại gần: “Này, đêm xuân ngắn ngủi, từ giờ trở đi, trong mắt nàng, trong lòng nàng chỉ được có mình ta thôi đó.”
A Hành đăm đăm nhìn hắn, không khỏi bật cười. Có lẽ ngay từ đầu nàng đã yêu tính tình ngông cuồng ngạo ngược này của hắn, dẫu trời long đất lở cũng chẳng buồn quan tâm.
Hồng quang rợp trời, chấn động cả đại hoang, nhưng trong mắt hắn chỉ có nàng, trong mắt nàng cũng chỉ có hắn.