Nghe tôi trình bày ý kiến xong, Tuyền béo lập tức thốt lên: "Lão Hồ, cậu sắp điên mất rồi, chuyện Thần thoại mà cũng tin."
"Dù sao chúng ta cũng chẳng có manh mối nào, cứ mù quáng tin theo một lần." Tôi bảo với Bốn mắt, "Anh có trí nhớ tốt, kể ra giúp tôi những gì có liên quan đến thế giới ở bên kia cây cầu đi nào."
Bốn mắt đẩy kính mắt: "Chỉ biết đó là một cái thế giới bị vứt bỏ do thần Malik cai quản. Lão ta đã thua cược vào lúc sáng sớm gà gáy, nhân vật chính vượt qua được Cây Cầu Ma để trở về quê nhà."
Hai mắt tôi sáng bừng lên: "Trọng điểm ở ngay chỗ này! Tôi nghĩ, có lẽ chúng ta vẫn chưa chính thức vượt qua Cây Cầu Ma. Cái cầu dây này chẳng qua chỉ là công trình do tổ tiên xây dựng để qua lại giữa hai bên khe núi mà thôi."
Tuyền béo khinh thường bảo: "Lão Hồ, tớ xác định là cậu đã điên mất rồi! Cậu thử tự mình nhìn mà xem, hai bên vách núi chẳng có bất cứ thứ gì, chỉ có một cái vực sâu hoắm. Cây Cầu Ma, cậu thử hóa phép nó ra cho tớ nhìn một cái."
Lâm Phương suy tư, "Có lẽ cây cầu đó ẩn dấu bí mật, chỉ khi nào chạm vào một cơ quan nào đó, hoặc là vào một thời điểm đặc biệt thì nó mới xuất hiện cũng chưa biết chừng."
Tôi hết sức tán thành giả thiết táo bạo này của cô ta, bèn nói với hai người còn lại: "Theo tôi thấy, thời điểm khả dĩ nhất là lúc mặt trời vừa ló dạng, giống như trong truyền thuyết đã kể vậy, Ma quỷ sẽ dựng lên cầu đá để đi về quê nhà."
Bốn mắt và Tuyền béo liếc nhìn nhau, cuối cùng đồng ý làm theo phương pháp mù quáng này. Ngày mai, lúc mặt trời mọc mọi người sẽ quan sát thử xem sao, nếu không có Cây Cầu Ma gì đó thì sẽ đá văng tôi xuống vách núi. Bốn người chúng tôi ăn tạm một ít đồ ăn và nước uống để chống chọi qua quãng thời gian tối trời nhất trước khi mặt trời mọc.
Ngày hôm sau, bốn người chúng tôi đứng bên bờ vực, nhìn mặt trời dần ló dạng trên đỉnh núi. Vách núi bên dưới chìm trong mây mù, chỉ có tiếng gió rít vù vù khi thổi xuyên qua khe núi. Tóc của chúng tôi bị thổi rối tung. Tuyền béo hét lên: "Lão Hồ, lần này có lẽ cậu đã trật lất mất rồi! Nhìn đi, mặt trời sắp lên đến đỉnh đầu rồi mà có cái Cây Cầu Ma chết tiệt nào đâu."
Tôi còn đang rối rắm, ánh mặt trời đã lan tỏa khắp hẻm núi. Mỗi khi ánh mặt trời chiếu tới, mây mù trong hẻm núi lại lập tức tan biến. Bốn mắt trợn trừng hai mắt rồi đột nhiên thét lên: "Nhìn kìa, nhìn kìa, một cái cầu thang đá xoáy trôn ốc!" Chúng tôi đổ dồn ánh mắt nhìn xuống bên dưới theo hướng anh ta đã chỉ, thấy giữa đám mây mù có một cầu thang hiểm trở lát đá xanh chạy thẳng xuống dưới cùng theo đường xoáy trôn ốc, còn bậc thang gần chúng tôi nhất thì lại nằm ngay bên dưới cái cây chết khô mà Tuyền béo đã bám vào để cứu mạng tôi ngày hôm qua.
"Đm, vớ vẩn đến thế là cùng!" Tuyền béo nhặt một cục đá rồi ném xuống dưới, nó rơi trúng bậc thang rồi vỡ vụn, "Không phải tôi đang nằm mơ đấy chứ! Cái thang trời này vẫn luôn ở ngay bên cạnh chúng ta, vậy mà ngày hôm qua tôi lại chẳng hề phát hiện ra nó."
Tôi nói, bây giờ không phải là lúc nói nhảm nhí, chúng tôi phải nhanh chóng xuống dưới, chỉ lát nữa ánh mặt trời sẽ xiên theo một góc độ khác. Đến lúc đó, mây mù sẽ lại bao phủ lại như cũ, chúng ta sẽ phải đợi đến ngày mai.
Mặc dù có bậc thang để đi xuống, nhưng gió núi thổi tạt ngang vẫn làm trái tim tôi đập thình thịch, lỡ như sảy chân ngã xuống dưới thì chắc chắn là chết mất xác. Bốn người chúng tôi dùng dây thừng tự buộc nhau lại thành một hàng, sau đó cẩn thận từng li từng tí đặt chân lên bậc thang xoáy trôn ốc để đi xuống bên dưới. Chân tôi vừa giẫm lên bậc thang đá đã bị hơi lạnh thấm vào làm tê buốt cả gan bàn chân.
"Con mẹ nó, sao lại lạnh thế này! Mấy người có cảm thấy bậc thang này không phải làm bằng đá mà dường như làm bằng băng không vậy?."
Bốn mắt gật đầu: "Áp suất khí quyển dưới vực sâu rất thấp thành ra nhiệt độ rất lạnh. Quần áo chống rét thì chúng ta lại hầu như chẳng mang theo cái nào, sau khi xuống dưới sẽ thật sự biến thành vấn đề nan giải."
Thế nhưng, lúc này chúng tôi đã không còn đường lùi trở lại dù chỉ là một bước. Tôi là người đi cuối cùng trong đội ngũ, khi ánh mặt trời chếch dần, những bậc đá phía sau tôi lại tan biến vào trong mây khói mù mịt trong vực thẳm, quả thật rất xứng với cái tên Cây Cầu Ma. Về sau, tôi chẳng dám quay đầu lại lần nào nữa, chỉ thúc giục Tuyền béo đang dẫn đầu đội ngũ nhanh chân hơn nữa.
"Cậu giục cái gì mà giục, cái cầu chết tiệ này vừa xoáy lại vừa trơn, trượt chân rơi xuống thì ai chịu trách nhiệm!"
"Sao cậu không ngoái lại nhìn mà xem, cầu phía sau tớ đã biến mất rồi. Nếu cậu không nhanh chân lên, chúng ta sẽ bị lạc trong mây mù mất."
Vừa quay lại nhìn, Tuyền béo đã hoảng hốt rú lên không ổn rồi uốn éo thân hình mập ú, chạy xuống bên dưới nhanh như chớp. Có câu nói rất hay, xe lửa muốn chạy nhanh phải nhờ vào đầu kéo. Dưới sự lôi kéo của Tuyền béo trong lúc chạy trối chết, cuối cùng chúng tôi cũng xuống được đến đáy vực mờ ảo trong mây mù. Vừa xuống đến đáy, nhiệt độ đã thấp hẳn xuống, tôi run rẩy khắp toàn thân, xát hai bàn tay vào bắp tay cho đỡ lạnh. Bốn mắt tháo kính mắt đã mờ hơi sương lạnh giá ra, hà hơi thổi vài cái, không ngờ trên mắt kính đã kết thành một tầng băng mỏng dính.
"Dưới này quá lạnh, chúng ta phải đi nhanh lên. Hồ Bát Nhất, anh xác định đền thờ thần mặt trời nằm ở chỗ này? Sao tôi chẳng thấy có dấu vết nào cả?" Cánh tay trái treo trên cổ, Lâm Phương nhìn khắp xung quanh một lượt, lo lắng đi lòng vòng xung quanh.
Dưới đáy vực lạnh đến lạ kỳ, sương mù dày đặc che phủ khắp nơi, tầm nhìn cực kỳ hạn chế, chỉ cần cách mười bước chân là đã không còn nhìn thấy được nhau. Tôi bảo với cô ta: "Nếu như đền thần không ở chỗ này thì cần gì phải vắt óc tìm cách xây dựng lên một Cây Cầu Ma như vậy. Giờ lạ nước lạ cái, chúng ta tốt nhất là đi cùng với nhau để đảm bảo an toàn. Hơn nữa, cô chỉ là lính dự bị ăn theo, đừng có mà kén cá chọn canh."
Tuyền béo lần lượt tháo dây thừng cho từng người. Cậu ta xoa hai tay vào nhau, nói với tôi: "Lúc trước chẳng phải đã nói với tớ rằng, sông Amazon nằm ở miền nhiệt đới, có thể mặc áo cộc tay múa Thái Cực hay sao? Sao giờ lại lạnh thế này. Lão Hồ, chẳng lẽ chúng ta đã đến Nam Cực?"
Tôi không biết giải thích hiện tượng nhiệt độ xuống thấp này như thế nào, bèn đi vài bước, định xem xét hoàn cảnh quanh đây ra sao, không ngờ trán húc đánh cốp vào một vật thể cứng rắn nào đó.
Mới bước đi hai bước, tôi đã bị va đầu vào thứ gì đó, trên trán lập tức sưng vù lên thành một cục. Tôi vừa định chửi đổng một câu thì đã nghe thấy Tuyền béo hét toáng lên "con mẹ nó" ở sau lưng mình trước mất rồi. Tôi nghĩ bụng, cậu có bị va đầu vào đâu đâu, kêu toáng lên làm gì. Không ngờ, ngay sau đó, Lâm Phương và Bốn mắt cũng lần lượt thét lên kinh hãi.
"Quản lý, phía trước, phía trước mặt anh!" Bốn mắt trợn mắt ra nhìn tôi với ánh mắt ngưỡng mộ. Tôi nghĩ bụng, toàn là sương mù dày đặc, anh đứng ngây ra đó ngưỡng mộ cái rắm à! Vừa quay đầu lại, tầm mắt biến thành tối sầm, trong khoảnh khắc tôi cứ ngỡ như mình đang bị ai đó bịt kín hai mắt. Đến khi nhìn kỹ lại, hóa ra là sương mù dày đặc đã rút đi, một cây cột đá cao lớn tuyệt đẹp, điêu khắc hoa văn hình mặt trời đột ngột xuất hiện trước mặt tôi.
Tôi ngẩng đầu, lùi lại mấy bước liền mới có thể nhìn được tổng thể cây cột đá cao tới hơn 30 mét đó. Tôi lại tiếp tục lùi thêm vài bước nữa, một ngôi đền thần cao chọc trời, hùng vĩ như một cung điện trong truyện cổ tích, đứng sừng sững giữa hai ngọn núi. Ngôi đền màu xanh xám, được xây dựng bằng vật liệu thông dụng vào thời kỳ Inca hưng thịnh nhất là đá xanh. Ngôi đền được thiết kế theo hình Kim Tự Tháp, nhưng khác với Kim Tự Tháp Ai Cập là đỉnh của nó lại bằng. Khe hở giữa các tảng đá rất nhỏ, tôi đã thử, nhưng dù cố gắng đến mấy cũng chỉ cắm được vật mỏng cỡ lá cây vào. Cổng chính ngôi đền, cũng là nơi chúng tôi đang đứng, là một tác phẩm điêu khắc đá hình tròn. Tôi mơ hồ có cảm giác đó là biểu tượng của thần mặt trời, vị thần được người Inca người sùng bái nhất. Không thể hiểu nổi người Inca người đã xây dựng lên một công trình hùng vĩ giữa thung lũng từ cả nghìn năm trước như thế này bằng cách nào.
"Đi nào, cuối cùng đã tìm được rồi! Chúng ta còn ngây ra ở đây làm gì, còn không mau vào trong xem sao." Tuyền béo đấm tôi một cái, vô cùng phấn khích trèo lên cầu thang cao chót vót trước mặt ngôi đền thần.
Cửa vào đền thần không phải được bịt kín bằng gạch hoặc được thiết kế tương tự như cổng chính như tôi đã nghĩ. Bốn mắt nói: "Người Inca cho rằng Thần mặt trời là bất tử, cho nên cửa vào đền thờ Thần mặt trời không bao giờ bị khóa lại."
Tôi than thở, nếu như đêm không cần đóng cửa, không nhặt của rơi trên đường như thế, xem ra tố chất tư tưởng của người Inca nhất định là rất tốt, người nào cũng có nhân cách giống như Lôi Phong(1). Lâm Phương mỉm cười, bảo: "Dù có tốt đến mấy thì vẫn cứ là chế độ chiếm hữu nô lệ, dân chúng hoàn toàn không có tiếng nói, nói gì đến chuyện tố với chả chất, quả thực là buồn cười đến vỡ bụng."
(1)Lôi Phong (18/12/1940-15/8/1962) tên thật là Lôi Chính Hưng, giải phóng quân và đảng viên Đảng cộng sản Trung Quốc, sau khi hy sinh đã được Mao Trạch Đông hình tượng hóa thành biểu tượng và điển hình của đảng viên Đảng cộng sản Trung Quốc. Sau này, trong từ ngữ của Trung Quốc, Lôi Phong có nghĩa tương tự như "người tốt việc tốt" của chúng ta.
Tôi không muốn tranh luận với cô ta, bèn sải chân đuổi theo Tuyền béo để đi vào trong ngôi đền thần đã bị lãng quên cả vài thế kỷ. Trước khi đi xuống Cây Cầu Ma, tôi đã bảo mỗi người nhặt một ít cành khô để sau này còn đốt lên chiếu sáng. Trong thung lũng lạnh giá vừa rồi không phải sử dụng đến lần nào, nhưng sau khi đi vào đền thần khoảng tầm năm sáu phút, không khí lại ấm dần lên. Tôi nói, trong bóng tối, cho dù bám sát nhau đi cũng không hẳn đã an toàn, bèn bảo Bốn mắt đem dốc nốt chỗ cồn cuối cùng vào miếng vải rách rồi quấn vào cành khô phía trên, châm lửa soi đường thay cho đuốc.
Khi ánh lửa sáng lên, đường hành lang tối om lập tức sáng sủa lên rất nhiều. Phần bên trong của đền thần cũng được xây bằng đá. Cứ cách một trăm mét lại có một cái giá bằng đồng hình đầu báo gắn trên vách tường, có lẽ là một loại đèn để chiếu sáng của người Inca cổ đại. Tuyền béo phấn khích nhìn cái giá đèn, hỏi tôi có phải thứ này giá trị lắm không. Bốn mắt nói: "Những cái đầu báo này được làm bằng cách rót đồng nóng chảy thẳng vào khuôn đúc sẵn gắn chặt với vách tường, nếu muốn lấy trừ phi anh mang cả cái vách của đền thờ này theo thì mới được."
Ngẫm nghĩ một lúc, Tuyền béo chẳng hé răng gì nữa mà tiếp tục đi sâu vào trong. Càng đi vào sâu bên trong, càng xuất hiện nhiều đường rẽ. Bốn mắt chỉ vào bức tranh trên tường, nói: "Mọi người nhìn thử xem, hình vẽ giống như mê cung này là gì vậy?"
Bởi đang nóng lòng tìm Shirley Dương, tôi chỉ nhìn lướt qua, chẳng quan tâm là mấy, thúc giục mọi người nhanh chóng quay ra ngoài nhanh một chút. Dường như mải ngẫm nghĩ điều gì đó, Bốn mắt tụt xuống vị trí cuối cùng của đội ngũ. Tuyền béo hỏi đi theo đường nào, tôi do dự một lát rồi đáp: "Đền thần không phải là mộ cổ, mà là một công trình mang đậm tính tôn giáo thần thánh, bình thường sẽ không thiết kế cơ quan bảo vệ. Chúng ta không cần phải quá để ý đến đường đi lối lại, thích đi đường nào thì đi, đừng để lạc đường là được."
Lâm Phương bảo: "Anh lề mề mất nhiều mất thời gian như vậy mà chẳng thấy nhắc đến là sẽ đi theo đường nào. Nghe theo tôi, đi đường bên trái." Nói xong, cô ta vượt lên rồi rẽ luôn vào hành lang tối đen ở bên trái. Tôi và Tuyền béo chỉ đành le lưỡi làm mặt quỷ, rồi đi theo cô ta. Tôi vừa nhấc chân, chợt nghe thấy Bốn mắt hét lên ở phía sau: "Không được vào đó, có cơ quan!"
Nhưng tôi đã bước một chân vào đường hành lang đó. Không riêng gì tôi, Lâm Phương và Tuyền béo cũng quay phắt đầu lại. Lúc này, bỗng nghe thấy sâu trong đền thần phát ra tiếng đá dịch chuyển ầm ầm. Tôi nói, Bốn mắt chết tiệt, anh biết sao không nói sớm. Anh ta thanh minh: "Trên bản đồ mê cung có đánh dấu mà, bảo anh xem anh lại chẳng chịu xem." Anh ta còn chưa dứt lời, dưới chân đã tụt hẫng, tôi rơi thẳng vào trong bóng tối khôn cùng.
Tôi chưa bao giờ nghĩ tới, một nơi cúng bái cầu phúc như đền thần này lại thiết kế cơ quan, chỉ sơ ý một chút bản thân đã rơi vào bẫy của người Inca. Sau khi giáng mạnh xuống cái hầm đen kịt, cái đèn phin hình chữ L của tôi chỉ lóe lên một cái rồi gãy làm đôi, hoàn toàn biến thành đồ phế thải. Nhờ ánh sáng lóe lên trước khi tắt hẳn, tôi loáng thoáng trông thấy một đường hầm cách mình tầm hơn mười mét. Sau khi mắt dần thích nghi với bóng tối, tôi phát hiện ra đó là một cái hầm tương đối lớn. Nắp bẫy trên đỉnh đầu đã đóng lại, nếu muốn thoát ra ngoài thì chỉ còn cách lần tìm đường ra trong cái hầm này. Rất may là trong này vẫn thông thoáng. Tôi tự tin chỉ cần dựa vào trí nhớ của mình là có thể tìm được đường thoát khỏi cái hầm tối tăm, khó nhìn thấy rõ mọi vật này.
Dựa vào tia sáng cuối cùng đó, tôi men theo theo tường mà đi. Đang lần mò, tôi chợt cảm thấy một cơn gió lướt qua sau lưng rồi một tiếng kêu đánh bốp đột ngột vang lên. Tôi ngoái lại nhìn. Trong bóng tối, một đôi mắt đỏ rực đang lặng lẽ nhìn chằm chằm vào tôi, chủ nhân của đôi mắt đó là một con vật giống hệt như Báo Châu Mỹ, da đen, mắt xanh, nanh thép, đuôi đồng, nhưng đầu lại to hơn đầu loài báo đó rất nhiều. Một cái cây xanh tốt với hình thù quái dị mọc trên lưng nó, cộng thêm một ít dây leo rất mảnh mọc um tùm ở hai bên sườn, giống như một cái nhọt. Quái vật đó vặn vẹo lưng, dường như đang rất kích động.
Tôi vội quay hẳn người lại, vớ lấy cái xẻng công binh rồi lao vọt đến bên cạnh bệ đá. Nó nhún chân nhảy vọt lên cao để tấn công vào phần đầu tôi. Thấy nó lao tới, tôi vội né sang bên rồi vòng ra sau lưng nó.
Không ngờ con báo đó phản ứng cực nhanh. Chân vừa chạm đất, nó đã cong người lại rồi tiếp tục nhảy vọt tới tấn công. Tôi lập tức chạy tới náu người vào góc tường ở gần đó. Con báo dữ vồ hụt tôi hai lần, rống lên một tiếng như tiếng sét giữa trời quang, làm toàn bộ căn hầm rung lên như động đất. Nó duỗi cái đuôi ra thẳng tắp rồi quất xéo về phía tôi, tôi vội vàng lăn sang bên cạnh. Thấy không làm gì được tôi, con báo cáu kỉnh liên tục lồng lộn. Tôi căn đúng lúc con báo quay đầu sang hướng khác, vung cái xẻng công binh lên, dồn hết sức lực toàn thân, nhắm mắt nhắm mũi bổ thẳng xuống. Nghe đánh chát một cái, tôi mở mắt ra nhìn. Con mẹ nó, hóa ra đã bổ trúng vào bệ đá mà không phải con súc vật kia.
Do vừa rồi quá vội vàng, cú đánh của tôi đã giáng thẳng vào bệ đá khiến cái xẻng công binh gãy ra làm đôi. Tôi chửi Vương Phổ Nguyên ầm lên là lão già khốn nạn, không biết đã cấp cho chúng tôi bao nhiêu là đồ giả mạo kém chất lượng trong chuyến đi này. Có câu, binh khí càng ngắn càng hiểm. Chẳng còn cách nào khác, tôi đành rút cây dao găm dắt bên hông ra. Con báo dữ rống lên một tiếng, hoàn toàn rơi vào trạng thái cuồng dại, nó quay lại rồi tiếp tục nhào tới. Tôi vội dồn hết sức lực toàn thân vào hai chân, nhảy lùi vài bước liền để tránh đòn. Nói ra kể cũng lạ, tôi vừa lùi vào trong góc tường, con báo đã đứng lại, chỉ khua khoắng móng vuốt tại chỗ. Tôi thử thăm dò bằng cách mon men lại gần để khiêu khích nó mấy lần, nhưng lần nào con súc vật này cũng chỉ lao đến gần góc tường là lại dừng lại. Tôi ngồi chồm hỗm trong góc, sau khi quan sát kỹ càng đã phát hiện ra phạm vi hoạt động của con báo dữ này chỉ ở quanh bệ đá. Thực vật giống như loài mây sống trên lưng đã khống chế chỉ cho nó hoạt động trong một phạm vi nhất định. Lúc này, tôi chợt nhớ tới nguyên lý cộng sinh phổ biến trong rừng. Chẳng lẽ con quái vật kia lại cộng sinh với loài thực vật hay sao? Để chứng minh suy đoán của mình, tôi lại mon men tới gần bệ đá.
Lần này, con báo dữ vừa mới đạp hai chân trước xuống trước mặt tôi, tôi lập tức cho dao găm lên miệng cắn, dùng hai tay không tóm chặt lấy phần da sặc sỡ trên đỉnh đầu nó rồi dốc hết sức lực đè đầu nó xuống đất. Con báo dữ điên cuồng giãy dụa, tôi liều chết ghì chặt xuống, không dám lơi lỏng một giây phút nào.
Đến lúc này, cuối cùng tôi đã có cơ hội nhìn rõ ràng, thì ra vật mọc ở trên lưng con quái vật đích xác là một khóm mây dài. Trên lưng con báo có một vết thương rất dài, còn cây mây bén rễ vào trong cơ thể nó qua vết thương đó. Vết thương này không những dài mà còn sâu hoắm, nếu như không nhờ cây mây bảy nhánh dài một nhánh ngắn này cung cấp chất dinh dưỡng, chỉ sợ con quái vật đã chết từ lâu. Xem ra, chỉ có chặt đứt mối liên hệ của chúng, tôi mới có cơ hội sống sót.
Con báo dữ vẫn đang điên cuồng giãy dụa, muốn hất văng tôi ra. Tôi đối phó lại bằng cách đá loạn xạ vào mặt nó. Nó liên tục rống lên thảm thiết, kéo sợi dây leo mọc trên lưng nó căng ra thẳng tắp. Tôi nhảy lên lưng nó, nắm lấy dao găm rồi nhanh chóng cắt đứt sợi dây leo đang ăn sâu vào da thịt nó. Ngay khi bị chặt đứt liên hệ với sợi dây leo, con báo dữ nhanh chóng yếu dần đi. Tay trái tóm chặt phần da sặc sỡ trên đỉnh đầu, tay phải cầm dao găm nhắm mắt nhắm mũi đâm như máy vào đầu nó. Sau khi con báo dữ bị đâm vài chục nhát, mắt, miệng, lỗ mũi, lỗ tai đều ộc ra máu, nó mới uể oải ngã lăn ra đất.
Tôi thở phào một hơi, nằm co quắp trên mặt đất không thể nhúc nhích, rất lâu sau mới nhớ ra mình còn phải đi tìm những người khác. Tôi lục lọi một lúc lâu mới tìm được một hộp diêm trong ba lô. Mở ra xem thì thấy chỉ còn duy nhất một que. Diêm vừa cháy sáng, tôi đã giật mình không thốt lên lời. Trong hầm ngầm nơi tôi đang đứng, chất đống vàng bạc châu báu, trong góc chỗ cây mây đã héo rũ còn có một cái đỉnh bằng vàng cao ngang đầu người. Tôi nhớ Shirley Dương đã từng nói, để chuộc mạng cho Quốc Vương của mình, người Inca đã thu gom toàn bộ vàng của cả đế quốc lại. Về sau, phần lớn số vàng khổng lồ đó đã rơi vào tay thực dân Tây Ban Nha. Còn sau khi tân vương dời đô, quân xâm lược đã không thể tìm thấy dù chỉ một mẩu vàng ở cố đô Cuzco. Với số lượng lớn thế này, biết đâu đấy chính là số tiền chuộc ngày xưa đã được người Inca chôn dấu trong đền thần này.
Ngay khi diêm vừa tàn, một tiếng vang vọng tới từ phía sau lưng, tôi cảnh giác ngoảnh đầu lại. "Đoàng đoàng đoàng" tiếng súng đột ngột vang lên. Lợi dụng bóng tối, tôi lộn tròn một vòng rồi lao tới chỗ đàn tế.