Mưa rơi mãi không ngừng. Suối con, sông nhỏ, dâng tràn bờ tấn công vào các cây liễu và rễ cây to uốn ngả những thân cây liễu là là, dòng nước đào xới rễ cây bông, quật đổ những cây to. Nước sục bùn và xoay tròn vượt qua bờ và cuối cùng ùa tràn vào các cánh đồng, các vườn cây ăn quả, các đồn điền với những cây bông sừng sững nhô lên như những bộ xương cháy đen, những cánh đồng bằng phẳng biến thành những hố lớn màu xám bị mưa quét tơi bời. Rồi nước nhấn chìm các đường cao tốc, xe cộ chỉ nhích lên thong thả, tự mở lấy một lối đi trong các khối lỏng, kéo theo sau chúng một làn nước sủi bọt, vàng nhờ nhờ. Đất thì thầm dưới những làn roi quất của mưa và những con thác gầm thét dưới nước lũ đảo điên của những con suối nhỏ tràn trề.
Ngay từ trận mưa đầu tiên, những người di tản đã bó gối ngồi thu lu dưới lều, tự nhủ: "Chắc sẽ chóng tạnh" hoặc hỏi nhau "Có thể bao lâu thì tạnh?". Khi các vũng nước bắt đầu hình thành, đàn ông bèn cầm cuốc xẻng, đi ra ngoài dưới trời mưa và đắp những bờ kè bé nhỏ quanh các lều trại. Cuối cùng thì cơn mưa ào ào tầm tã thấm qua vải lều và chảy ròng ròng theo các vách. Thế rồi, nước quét phẳng những bờ kè nhỏ, xâm chiếm vào các lều làm ướt cả giường cả đệm. Người trong lều phải ngồi lên trong quần áo ướt sũng. Rồi họ kê thùng, bắc các tấm ván lên trên thùng. Sau đó thì họ ngồi lên ván, ngồi ngày ngồi đêm.
Những chiếc xe cũ kỹ xếp hàng bên cạnh các lều, nước tấn công hẳn vào các dây điện và ngâm vào các máy hòa khí. Các lều nhỏ xám nhô lên như những hòn đảo giữa hồ. Mãi rồi người ta phải bỏ đi. Nhưng xe không chịu nổ máy và dây điện bị chập mạch. Và khi động cơ chịu chuyển động rồi thì bánh lại lún sâu trong bùn đặc. Thế là ai nấy phải đi bộ, vừa mang chăn, vừa lội bì bõm trong nước. Họ ì ạch tiến lên, mỗi bước đi lại làm bắn nước tung toé, tay ôm con thơ lưng cõng người già. Và lúc thấy một vựa thóc đứng trên một chỗ đất cao, họ bèn chen chúc nhau tới đây, người run lẩy bẩy lòng tuyệt vọng.
Một số trong bọn họ đi đến Sở Từ Thiện gần nhất, nhưng rồi buồn bã trở về với gia đình.
Đã có những luật lệ... muốn được quyền cứu trợ phải ở trong xứ được một năm. Đâu như chính phủ sắp làm một cái gì. Khi nào, họ không biết.
Và ngày một ngày hai, một nỗi kinh hoàng gia tăng xâm chiếm họ. Trong ba tháng sắp tới sẽ không có công ăn việc làm.
Ngồi chen chúc trong các nhà kho, họ co ro run rẩy, và nỗi kinh hãi chụp xuống họ, các gương mặt xám lại vì nỗi sợ hãi. Trẻ con đói kêu khóc, thức ăn lại không có. Rồi bệnh tật kéo tới, bệnh sưng phổi, bệnh sởi, sởi ăn lên mắt, lên chùm tai.
Mà mưa vẫn triền miên tràn ngập các đường cái vì cống rãnh không đủ để tiêu nước.
Thế là các nhóm người ướt lạnh thấu xương, quần áo rách tả tơi và ướt lướt thướt, giầy dép nhão nhoét, đi ra khỏi lều và khỏi các kho đầy ứ người. Bì bõm trong ao ngập ngụa bùn. Họ đi đến các phố xá, tràn vào các cửa tiệm, các sở cứu nạn, ăn xin ít thức ăn, nuốt mọi sự xỉ nhục vì một mẩu bánh, tìm cách ăn cắp, nói dối. Chẳng bao lâu, một cơn uất giận tuyệt vọng bắt đầu ấp ủ dưới những lời kêu nài sau những thái độ quị lụy. Và trong các thành phố nhỏ, lòng trắc ẩn của thiên hạ đối với những kẻ đói khát đó biến thành cơn giận dữ, rồi thành nỗi lo sợ. Thế rồi bọn quận trưởng cảnh sát bắt hàng toán tùy tùng mới phải tuyên thệ và vội vã đòi gửi tới nào súng, nào đạn dược, nào lựu đạn cay. Những người đói khát lũ lượt ngổn ngang trên các đường phố, sau các cửa hiệu, ăn mày một mẩu bánh, ăn mày rau úa, và nếu có dịp thì ăn cắp.
Những người hoảng loạn lấy nắm tay đấm thình thịch của nhà các thầy thuốc, nhưng thầy thuốc đang bận. Thế là những người đó, mặt mày thất sắc, nhờ ông chủ tiệm báo với cảnh sát tư pháp.
Các ông này không bận rộn lắm. Xe của họ đi lùi lại phía sau trong bùn lầy và trở các xác chết đi.
Và mưa vẫn rơi không ngớt, lộp bộp, nước sông phá vỡ bờ, tràn ngập khắp cả vùng.
Rúc vào nhau dưới các túp lều, nằm dài trên cỏ rơm ẩm ướt, cơn đói và nỗi sợ đẻ ra sự uất giận. Các thanh niên đi ra ngoài không phải để ăn xin, mà để ăn cắp, và người lớn cũng ra ngoài để cố ăn cắp.
Các quận trưởng cảnh sát tuyển mộ thêm nhiều tay chân và đặt mua thêm vũ khí, những người sung túc ngồi trong các ngôi nhà khô ráo ấm áp, thoạt đầu thì cảm thấy thương hại, sau đó thì kinh tởm và cuối cùng căm thù lũ người di tản.
Trên đồng cỏ ẩm ướt ở căn nhà kho mà nước rỏ qua các kẽ mái, các người đàn bà vừa chuyển dạ đẻ, vừa thở hồn hển vì bị viêm phổi. Các ông già bà lão chết co rúm trong một xó và cũng co rúm mà chết và các cảnh sát tư pháp không thể nắn thẳng xác họ lại được nữa. Ban đêm, những người đàn ông điên giận táo tợn bẻ khoá chuồng gà và cuỗm đi những con gà kêu quang quác. Khi bị bắn đuổi, họ không chạy, không vội vã, mà ủ rũ, lội lõm bõm qua bùn dầy tìm một chỗ trú ẩn.
Lúc bị bắn trúng họ rủ xuống kiệt quệ trong bùn.
Mưa tạnh. Nước ứ đọng trên đồng ruộng, phản chiếu bầu trời xám, rồi nước ứ lại từ từ trôi đi và đất lại rì rào thầm thì.
Người người đổ ra từ các chuồng gia súc, nhà kho. Họ ngồi xổm xuống, đưa mắt nhìn lượn lờ trên cảnh ngập lụt. Họ ngồi lặng lẽ. Thoảng hoặc họ khe khẽ chuyện trò.
Trước xuân đến, không có việc làm, không có việc làm.
Mà nếu không có việc làm thì không có tiền, có bánh.
Ai kia có một cặp ngựa, bắt chúng kéo cày, kéo bừa hay kéo trục, không hề nảy ra ý nghĩ xua đuổi chúng cho chúng chết đói vì không có việc làm cho chúng.
Nhưng đây là nói đến ngựa, còn chúng ta là những con người.
Đàn bà quan sát đàn ông, rình mò những phản ứng của họ, tự hỏi chẳng hay lần này họ có thối chí nản lòng hay không. Đàn bà đứng im lặng và quan sát. Và khi một số đàn ông tụ họp lại, thì nỗi sợ biến mất khỏi khuôn mặt họ, nhường chỗ cho cơn uất hận. Thế là đàn bà thở nhẹ nhõm, bởi vì họ biết rồi ra mọi sự sẽ trôi chảy. Cánh đàn ông họ không bị nhụt chí, chừng nào mà sự sợ hãi còn có thể biến thành sự uất giận, thì cánh đàn ông không nhụt chí.
Những mầm cỏ non bé xíu bắt đầu chọc đất ló ra, và chỉ trong mấy ngày, các quả đồi đã khoác mầu sắc xanh cùng với năm mới đang bắt đầu.