Cô quay đầu đưa mắt quan sát nơi này thêm một lần nữa và kiểm tra xem có bỏ sót chi tiết nào không. Một tia sáng màu hổ phách chiếu những cái bóng đáng sợ lên các bức tường. Căn phòng rộng không quá một chiều ba mét, một chiều bốn mét. Sàn nhà bằng đất đôi chỗ mấp mô, như thể người ta cố thử đào nó bằng một đồ vật không mấy thích hợp với công việc ấy.
"Cứ như mình đào bằng chân"! Cô nghĩ. Ôi không! Mong sao không phải như thế.
Nhưng đã có hình ảnh của một nữ tù nhân khác hiện ra trong cô, cô thấy người ấy run lên vì sợ, cố gắng khoét một lỗ dưới bức tường gỗ bằng đôi bàn chân đạp liên hồi. Juliette lắc mạnh đầu để tống khứ ý nghĩ đó ra khỏi tâm trí và bỗng thấy choáng váng khi hơi clo nổi lên. Cô thở chậm để bình tâm lại và để làm dịu cơn đau.
"Tốt hơn hết là hãy tiếp tục quan sát, nào, hãy cố nhìn tất cả những gì có thể."
Các bức tường màu đen, làm từ thân cây xếp chồng lên nhau giống như một nhà nghỉ ở miền núi hay 1 túp lều. Căn phòng không có bất cứ đồ đạc nào, chỉ duy nhất một cây nến nhỏ đặt ở góc nhà tỏa chút ánh sáng yếu ớt.
Juliette rùng mình. Trời se lạnh cô không biết giờ là mấy giờ, mọi khái niệm về thời gian đều đã mất. Vẫn đang là đêm? Có lẽ thế, hoàn toàn không có ánh sáng lọt qua khe gỗ. Đột nhiên, một ý nghĩ còn đáng lo sợ hơn xâm chiếm cô. Cô cuộn tròn người lại để quan sát đầy đủ hơn về căn phòng và nỗi nghi ngờ của cô bỗng chuyển thành nỗi kinh hoàng khủng khiếp.
Không cửa sổ cũng không có bất cứ một lối ra vào nào. Căn phòng dường như bị đóng kín mít như một cỗ quan tài lớn.
Không hét to, nhất định không được hét to, Juliette tự nhủ nhiều lần trong thâm tâm, nhưng bản thân tiếng nói của ý chí lại gần giống như sự cuồng loạn do sợ hãi. Nếu kẻ tấn công không nhét giẻ vào miệng cô, thì đó là do hắn tin chắc không phải sợ gì về việc này. Chắc chắn cô đang ở một nơi hoàn toàn tách biệt, nếu không thì ngoài việc buộc cổ tay, lẽ ra cô còn phải bị bịt miệng bằng cách này hay cách khác. Cô cảm thấy hơi thở đứt quãng của mình vì lo sợ và cố chiến đấu để không chìm vào nỗi hoảng loạn. Cách đây vài giờ, cô bình thản ngồi chơi với Camelia, uống rượu vang và cười, vậy mà giờ đây cô bị nhốt chặt ở một nơi cách xa thế giới, hoàn toàn phụ thuộc vào một kẻ xa lạ. Trong cô trào lên cảm giác tuyệt vọng.
Không ai biết cô đang ở đâu, ngay cả bản thân cô. Không biết bằng cách nào cô lại ở đây, không có bất cứ cơ may nào để tự vệ. Cô lại thấy mình đang bước đi không hề lo nghĩ và một giây sau, bị ngạt thở rồi tỉnh dậy thành một tù nhân. Như thể cuộc đời cô đột nhiên chao đảo trong một cơn ác mộng. Không vì bất cứ lý do gì, cô bị lôi ra khỏi cuộc sống của mình và bị vứt vào chiếc quan tài này. Giờ đây, nỗi sợ hãi bị đan xen bởi cảm giác bất công sâu sắc. Không ai có thể tránh được, chuyện này có thể xảy ra với bất cứ ai, mọi người đi làm về và không thể biết được rằng đã gặp một kẻ bệnh hoạn trên đường, rồi chìm trong nỗi kinh hoàng.
Juliette cảm thấy nét mặt mình bị co rúm lại và nước mắt tuôn trào. Cô khóc rất lâu.
Rồi trong cơn điên dại bất ngờ, cô đứng bật dậy gào thét và ngồi dậy được. Khi cơn giận dữ và những tiếng nức nở dịu xuống, cô chăm chú quan sát quanh mình. Cách cô chừng 3 mét về bên phải có 1 hốc nhỏ ở ngay chỗ tiếp giáp giữa tường và nền đất. Cô nén cơn nức nở và bắt đầu trườn về cái hốc. Ánh nến không chiếu sáng tới phần này của căn phòng, nên cô phải nằm xuống và cúi đầu để nhìn kỹ hơn. Cái hốc to hơn quả bóng rổ 1 chút, ăn sâu xuống dưới tường giống như 1 lỗ mèo chui. Những rãnh song song trên nền đất khiến cô rùng mình. Cô xua vội hình ảnh một người phụ nữ cào đất trong cơn hoảng loạn đến nỗi bong cả móng tay.
Có lẽ cô có thể nhìn thấy bên ngoài bằng cách chui đầu qua bên kia? Ít ra cũng để biết được cô đang ở đâu, có gì xung quanh. Nhưng với đôi tay bị trói quặt sau lưng và 2 cổ chân bị buộc chặt, nếu có trườn, hay chỉ đơn giản nếu cô không có chỗ bấu víu để ngoi lên, thì cô sẽ bị kẹt đầu và 2 vai dưới bức tường trong cái hốc đang há miệng kia. Quả là đầy rủi ro.
Juliette trườn như 1 con sâu tiến vào bóng tối dưới bức tường. Cô uốn người để nằm ngửa và cố ngẩng đầu lên bên kia tường. Đầu cô chạm vào 1 viên đá.
Không có gì ở phía bên kia.
Cô chợt run lên vì nhận ra sự thật hiển nhiên cái ngục tối này không có cửa ra vào cũng không có cửa sổ, còn các bức tường bị chặn bằng nhiều tấn đá! Cô bị giam giữ dưới lòng đất, trong một thế giới không lối thoát, một vũ trụ chết chóc.
Nỗi khiếp sợ lại xâm chiếm cô.
Rồi một tiếng két vang lên trong phòng. Ở đâu đó bên trên, một cánh cửa sập vừa mới mở ra.
"Đúng rồi! Trên trần!" Juliette thầm kêu lên.
Trần nhà tối om, cô không thể phân biệt nổi bất cứ thứ gì. Ý nghĩ có thể có 1 lối thoát khiến cô thở phào, cô không hoàn toàn bị tách biệt với thế giới, còn có 1 điểm tiếp xúc, một khả năng chạy trốn. Nhưng niềm vui thật ngắn ngủi. Có tiếng vải sột soạt, hẳn là có 1 động tác chân hoặc tay ở đằng sau lưng cô, và nỗi khiếp sợ dâng lên ngay lập tức. Cô bị kẹt đầu trong 1 cái lỗ hẹp, không thể nhìn thấy gì diễn ra phía dưới vai mình, còn kẻ bắt cóc đứng ngay ở đó, bên cạnh cô, và có lẽ đang thỏa mãn nhìn cô cố uốn mình.
Như 1 tiếng chuông báo tử, giọng nói bất ngờ vọng xuống từ trần nhà, ngọt ngào nhưng đầy sự tàn bạo khủng khiếp.
- Đã đến lúc dành cho 2 chúng ta em yêu ạ.
Juliette vặn vẹo người để chui ra khỏi cái hốc, cơn hoảng loạn trào dâng trong cô cùng với nước mắt, và một tấm màn kinh hoàng đập vào mắt cô giống như 1 cơn bão hủy diệt.
***
Joshua Brolin bắt đầu uống trà để cai thuốc lá.
Lý do lắt léo hơn thế 1 chút nhưng đó là cách lý giải của anh khi bị cảnh báo là đang uống quá nhiều thứ nước nóng và thơm như vậy. Trong mùa hè - 2 tháng trước đây anh đã vứt bao thuốc Winston cuối cùng đi và thề sẽ không bao giờ hút lại nữa. Những ngày đầu tiên thật đau đớn, theo nghĩa đen của từ này, và Brolin tự hỏi liệu rốt cuộc cảm thấy cháy phổi vì cai thuốc có ít độc hại hơn hút thuốc không. Sau đó anh nhanh chóng nhận ra rằng với 1 người đã nghiện lâu năm, thứ nhớ nhất không phải là bản thân điếu thuốc lá, mà là động tác quen thuộc hàng ngày kẹp điếu nicotin giữa các ngón tay. Lại phải học thói quen thường ngày với 1 bàn tay tự do. 1 bàn tay tự do bất bình thường, nặng hàng tấn ở đầu cánh tay. Chỉ riêng việc nhớ tới cốc cà phê mà anh uống trong lúc cầm 1 điều thuốc trên tay, cứ rít 1 hơi thuốc lại làm 1 ngụm cà phê nóng bỏng, đã khiến anh phải chịu đựng cơn stress kinh khủng. Phải đợi tới khi trong 30 tuổi, Brolin mới phát hiện ra rằng anh chỉ chịu đựng được vì café với điều kiện ngập trong khói nicotin. Và để bỏ khỏi thuốc lá, anh thay cappuccino bằng trà. Phải thật thơm, cùng với hoa quả rừng nếu có thể được, mặc dù còn rất khó kiếm quả khô.
Anh uống 1 ngụm trà nóng rồi đặt cốc xuống trang bìa bằng các tông của tập báo cáo khám nghiệm tử thi.
Ánh mắt anh dừng lại trên 1 tấm ảnh chụp tử thi trước khi khám nghiệm. Khó mà tưởng tượng được rằng đây là 1 cô gái trẻ, vì cô đã bị biến dạng do khí sinh ra trong quá trình thối rữa và do rất nhiều tổng các vết thương vì bị ngâm lâu trong nước. Khuôn mặt sưng phồng, da ngả màu nâu và xanh lục, mí mắt phồng to như hạt dẻ texas, môi sưng và vều ra như thể đang định ban tặng nụ hôn cuối cùng. Rất nhiều sinh vật biển đã rỉa cái xác, tạo thành vô số vệt sưng đỏ trên da. Xác được vớt khỏi nước trước đó hơn 2 giờ nhưng không có chút nấm màu nâu nào xuất hiện trong lỗ mũi và miệng. Đó là dấu hiệu đặc trưng mà Brolin biết vì đã thấy trong các vụ án khác ở FBI. Trên thực tế, rêu là 1 hỗn hợp của không khí, nước và chất nhầy ở phế quản, được hình thành khi nạn nhân hít thở trong nước, điều này chứng tỏ rõ ràng rằng nạn nhân chết do bị dìm. Thế nhưng loại nấm đó lại không xuất hiện ở nạn nhân này.
Đỉa.
Lần này, nạn nhân không chết vì các vết thương. Không trực tiếp. Sát thủ đã thay đổi cách hành động.
Nhưng thứ thu hút sự chú ý của Brolin nhất là hình loang lổ mà axit tạo nên trên trán nạn nhân, axit hoặc 1 chất khác đã ăn mòn da mạnh như xút hay vôi.
"Quỷ thật sao hắn lại làm thế nhỉ?" chàng thanh tra trẻ tự hỏi. "Tại sao hắn lại đốt cháy trán các nạn nhân? Đây là 1 phần của nghi thức chăng? Có lẽ hắn chặt đôi bàn tay để lấy làm chiến lợi phẩm, để sau đó sung sướng ngắm nhìn chúng, thậm chí có thể sờ vào chúng, dùng chúng để vuốt ve cơ thể, dùng chúng như vật thay thế, vừa điều khiển người khác, vừa buộc người khác phải vuốt ve mình. Rất có thể như vậy, nhưng tại sao hắn lại không chặt tay của nạn nhân mới nhất? Cô gái này có gì khác so với 2 cô trước?"
Với nạn nhân mới nhất, hắn hành động bằng cách khác. Hắn không tra tấn cô đến chết, mà làm cho ngạt thở từ từ, điều này không hề được mong muốn hơn.
Brolin nhấc cốc lên để xem còn trà không. Cốc rỗng không "giống như đầu mình lúc này". Anh tự nhủ và đưa mắt tìm xem mình đã đặt ấm trà ở đâu.
Khoảng chục người được huy động tham gia cuộc điều tra, trong đó có các kỹ thuật viên của phòng thí nghiệm, chuyên gia pháp y khám nghiệm tử thi để tìm cách buộc từng chi tiết nhỏ nhất phải lên tiếng, và 4 thanh tra cảnh sát phụ trách việc thu thập tối đa thông tin về các nạn nhân. Nhưng họ không thấy bóng dáng của kẻ tình nghi. Brolin đã cho kiểm tra tất cả các bệnh viện tâm thần trong vùng, nhưng không ai trong số các bệnh nhân điều trị ở đó trong vòng 12 tháng gần đây có nét giống với hung thủ mà họ đang tìm. Dù sao đây cũng chỉ là biện pháp hão huyền nhằm làm cấp trên yên tâm chứ không phải để tìm ra 1 kẻ tình nghi nào đó.
Do thu được 1 lượng nhỏ tinh dịch trên cơ thể nạn nhân thứ nhất, các điều tra viên có được mẫu gien của hung thủ. Nhưng việc so sánh nó với dữ liệu gien lại không đem lại kết quả nào, hung thủ không nằm trong danh sách này.
Brolin nhìn thấy ấm trà trên 1 cái giá chất đầy hồ sơ. Anh đứng dậy rót trà và nhấp từng ngụm nhỏ.
Trong 2 năm ở FBI, anh đã học được cách dựng lại tâm lý kẻ giết người bằng cách phân tích các dữ liệu của vụ án. Nhưng khó khăn chủ yếu trong nghệ thuật này là khi cái xác được tìm thấy sau 1 thời gian dài ngâm trong nước. Người ta không thể rút ra bất cứ kết luận nào từ tình trạng của xác, và nhất là không thể khám nghiệm hiện trường mà hung thủ đã xóa đi trước khi vứt xác. Xác trôi trên sông có thể được tìm thấy cách nơi bị vứt xuống nước vài cây số. Và thời gian ngâm trong nước đã xóa đi hầu như mọi dấu vết, mọi vết tinh dịch, máu, tóc của tên tội phạm. Nhưng ít ra cách làm này cũng cho thấy 1 mức độ xảo quyệt nhất định, hung thủ biết rằng hắn có thể bị bắt vì 1 chi tiết nhỏ nhất. Hắn hành động có tổ chức và có suy nghĩ.
Brolin lại gần chiếc bảng đen đầy những ghi chép của anh về kẻ giết người. Anh tổng hợp nhanh tất cả các điểm quan trọng mà anh đã ghi về vụ án giết 3 người này.
Anh đọc to tóm tắt những gì anh biết.
- Hung thủ là một người da trắng, một kẻ giết người hàng loạt chuyên tấn công những người cùng màu da với hắn, hầu như không có ngoại lệ. Tính chất tàn bạo cho thấy 1 ảo ảnh được hình thành trong thời gian dài và được làm chủ tương đối tốt, hung thủ có thể gặp rủi ro nhưng không bị lộ mặt. Hơn nữa, hắn đủ khả năng khống chế nạn nhân và làm chủ bản thân để đi đến cưỡng hiếp. Tồi tệ hơn, nhiều vết tụ máu và thương tổn tự vệ ở phần trên cánh tay nạn nhân là những bằng chứng về sự hung bạo của hắn, và có lẽ tôi nghiêng về phía các hành vi tra tấn trong khi cưỡng hiếp, có vẻ như rất đúng với tính cách hung thủ. Như vậy, hắn ở vào độ tuổi khá chín để chế ngự được các xung năng của mình tới 1 mức độ nào đó. Nhưng bạo lực mà hắn sử dụng là đặc trưng của một cơn điên dại, một mối hận thù chất chứa trong hắn suốt nhiều năm. Thế nhưng lại chưa từng có trường hợp nào như vậy trong kho dữ liệu tin học.
Từ khi được giao phụ trách cuộc điều tra, Brolin đã chuyển dữ liệu về 2 vụ giết người cho chương trình VICAP (là chương trình giúp điều tra các vụ trọng án do FBI lập ra). Chương trình này có nhiệm vụ thu thập tất cả các yếu tố của các vụ trọng án trên lãnh thổ Mỹ và cung cấp cho cảnh sát trên cả nước 1 cơ sở dữ liệu cho phép kiểm chứng thông tin. Bằng cách này nếu 1 kẻ giết người đã phạm tội ở Illinois 2 năm trước đây và chặt tay các nạn nhân, thì chương trình VICAP sẽ cho phép Brolin ngay lập tức biết được thông tin và lần theo đường đi của kẻ giết người hàng loạt từ bang này sang bang khác. Nhưng trong chương trình không hề có dữ liệu liên quan đến 1 "kẻ chặt tay" nào đó.
Brolin khoanh vùng độ tuổi mà anh đã viết trên bảng 23-28 tuổi.
"Nhiều khả năng là 23, 25. Hắn có thời gian đủ dài để lặp đi lặp lại các vụ án trong đầu, nhưng có lẽ không thể tự kìm nén được trong nhiều năm. Hắn to khỏe, vì hắn khống chế được những phụ nữ tương đối thể thao. Đây là những nạn nhân ít nguy cơ tính cách, nghề nghiệp và bạn bè của họ không thuộc diện gây nguy hiểm, ngược lại với 1 gái điếm chẳng hạn. Và vẫn theo những gì người ta biết, họ bị bắt cóc ở những nơi cũng có nguy cơ thấp, người thì trên 1 con phố khá đông đúc trong khu tư sản, người thì trong bãi đỗ xe của 1 hộp đêm thời thượng và đông khách lui tới. Thế nhưng lại không có nhân chứng. Hung thủ chấp nhận rủi ro, hắn đùa cợt. Dường như hắn rất tự tin và bản thân có tổ chức, hẳn là hắn đã lên kế hoạch bắt cóc khá lâu trước đó. Trong cơn stress cao độ, nhưng lại tự tin tới mức nghĩ rằng mình không thể bị tóm. Dần dà, hắn sẽ gặp nhiều rủi ro hơn và sẽ phạm ra nhiều sai lầm. Nhưng hắn sẽ phạm sau bao nhiêu nạn nhân? Nạn nhân nguy cơ thấp trong một môi trường nguy cơ thấp, điều này cũng chứng tỏ rõ về một độ chín nào đó. Hắn không hành động theo sự thôi thúc của bản năng, hắn phải bị hoàn cảnh kích động rất nhiều, và luôn giữ được máu lạnh. Tiến đến gần nạn nhân là việc làm quan trọng với hắn, giai đoạn tán tỉnh khiến hắn thỏa mãn cao độ. Hắn phải nói chuyện với cô gái, tán tỉnh cô, có thể khi đó hắn đã tưởng tượng ra điều mình sẽ làm với cô. Chính lúc ấy, hắn bắt đầu tìm cách chiếm đoạt cô gái".
Viên thanh tra viết "25 tuổi + hoặc _" lên tấm bảng veleda.
Tất cả những yếu tố này đã vạch ra các hướng điều tra, và theo lời khuyên của Brolin, cảnh sát đã tập trung phần lớn thời gian vào việc thẩm phấn các nhân viên của hộp đêm, cũng như các khách quen. Nhưng không thu được kết quả gì.
Đằng xa, trong 1 căn phòng khác, một người nổi cáu vì bị buộc tội và hét to rằng anh ta vô tội. Brolin uống hết cốc trà và trở lại bàn làm việc.
"Kẻ bất lương đó rất thích tán tỉnh các nạn nhân hoặc ít nhất là trò chuyện với họ, tôi dám chắc như thế. Thêm nữa hắn không giết người theo 1 chu kỳ chính xác, khoảng cách giữa 2 vụ đầu tiên là năm tuần, rồi 2 tuần sau hắn tiếp tục gây án lần thứ 3. Hắn rút ngắn thời gian giữa 2 vụ án."
Nghĩ đến đây, Brolin cảm thấy vô cùng khó chịu anh biết rằng điều này không có ý nghĩa gì cả, bọn giết người hàng loạt có thể gây nhiều vụ án trong khoảng thời gian ngắn và sau đó bước vào giai đoạn "nghỉ ngơi". Nhưng cũng có những kẻ lại giết người ngày càng thường xuyên hơn, do khao khát vô độ của chúng chỉ có thể dừng lại khi bị bắt hoặc chết. Điều mà anh hy vọng lúc này là tận dụng được tối đa thời gian để khai thác những chi tiết nhỏ nhặt nhất và tóm được kẻ bệnh hoạn đó trước khi hắn phạm thêm 1 tội ác mới không thể cứu vãn.
Lại còn thủ đoạn luôn luôn vứt xác xuống nước nữa…
"Tên sát nhân này biết là hắn bị vây đuổi, hắn biết rõ điều đó, và hắn không muốn bị bắt, bởi vì hắn muốn tiếp tục gây án thêm lần nữa, hắn sẽ lại tiếp tục, vì hắn có nhu cầu đó."
Brolin lắc đầu chầm chậm vì nỗi tức giận âm ỉ. Anh đang xem các bức ảnh về nạn nhân mới nhất thì chuông điện thoại reo.
- Thanh tra Brolin nghe đây, anh nhấc máy nói.
- Joshua, tôi là Carl Dimestro. Có tin mới liên quan đến các khám nghiệm giải phẫu bệnh học.
Carl Dimestro làm việc ở phòng thí nghiệm của cảnh sát khoa học trong 1 tòa nhà lớn. Anh tạm thời phụ trách ban sinh học với sự cộng tác của đội ngũ bác sĩ pháp y.
- Đã xác định được danh tính nạn nhân phải không? Brolin vội hỏi.
- Không mọi người đang nghiên cứu hồ sơ về răng của nạn nhân. Nhưng chúng tôi có 1 thứ cho cậu, tôi đã tìm thấy tảo trong các mô.
- Thấy gì? Brolin vừa hỏi vừa cố nhớ lại những bài giảng về tội phạm học ở Quantico.
- Thấy tảo. Một loại tảo chứa silic chỉ thấy được qua kính hiển vị, loại tảo này sống ở tất cả các nơi có nước, dù là nước ngọt hay nước mặn. Nạn nhân có nước trong phổi, nhưng điều này không nói lên gì cả, tuy nhiên kết quả khám nghiệm bằng kính hiển vi cho thấy có tảo ở ngay trong các mô của phổi, gan và tim. Tức là nạn nhân đã hít nước vào trước khi chết. Ngoài nguyên nhân ngạt, còn có thêm chẩn đoán bị dìm chết, đúng là cô gái chết vì lũ đỉa, nhưng hung thủ đã đẩy nhanh hành động vào lúc cuối bằng cách dìm đầu cô gái vào nước. Dù sao cũng có 1 điều chắc chắn đó không phải là nước từ vòi mà là nước ở 1 nguồn nước tự nhiên, có cả hệ động thực vật.
Brolin chờ đợi 1 phát hiện quan trọng, 1 cái gì đó có sức thuyết phục để ít ra cũng có thể mở cho 1 hướng điều tra. Nhưng bằng chứng này chỉ khẳng định việc nạn nhân bị tra tấn trước khi chết, một hành động man rợ đặc trưng của đao phủ Portland. Hơi thất vọng, anh chỉ ngồi yên lặng.
- Nhưng chưa hết, bác sĩ Dimestro nói tiếp, loại tảo đó có thể cung cấp cho chúng ta những thông tin rất thú vị khác.
Brolin không đánh giá cao Carl Dimesstro vì anh chàng bác sĩ này thường thích thú với những chi tiết dù là nhỏ nhất thấy được qua kính hiển vi, ngay cả khi chi tiết đó không hề khiến cuộc điều tra tiến triển.
- Phải lưu ý rằng mỗi loại tảo có 1 cấu trúc riêng và hoàn toàn khác biệt tùy theo địa điểm nơi thu được chúng.
- Đợi một chút, Brolin cắt ngang, có nghĩa là anh có thể biết liệu nước nơi người ta vớt được xác nạn nhân có phải chính là nước mà nạn nhân đã hít vào không?
- Đúng thế bằng cách phân tích tảo. Mà trong trường hợp này tảo quan sát được trong các mô không giống với loại tảo thu được khi khám nghiệm tử thi. Tôi có thể đảm bảo với cậu rằng nạn nhân không bị dìm chết ở gần nơi người ta tìm thấy cái xác. Hơn nữa, tôi có thể khẳng định đến 70% rằng không phải trong nước sông Tuilatin, vì loại tảo trong mô có cấu trúc khác xa với tảo sống ở sông này. Carl Dimestro nói bằng giọng căng thẳng, lộ rõ vẻ mệt mỏi.
- Có nghĩa là nếu lấy 1 ít nước trong phần lớn sông hồ quanh sông Tualatin, rồi đem so sánh, anh có thể tìm được địa điểm chính xác nơi cô gái bị dìm chết phải không?
Không chút do dự, anh chàng bác sĩ khẳng định ngay. Giọng nói của anh đã thay đổi, trở nên trầm hơn.
- Tôi cùng với trợ lý Peter đã tới phía nam Portland để lấy tối đa các mẫu nước của các hồ ao và sông cách sông Tualatin dưới 30km. Cuối cùng thì việc so sánh các mẫu tảo đã cho kết quả. Tôi đã tìm thấy loại nước mà nạn nhân hít vào. Đó là nước của 1 cái ao rất nhỏ ở phía đông nam Stafford.
Brolin không nói được gì. Đầu tiên anh thất vọng nhưng giờ đây anh bị bất ngờ. Công việc cần cù của 2 nhân viên phòng thí nghiệm trong khoảng thời gian ngắn lại rất quan trọng.
- Nhưng…chắc chắn chứ? Anh ấp úng.
- Đáng tin đến 95%.
- Tuyệt vời, Carl ạ, cậu làm việc tốt lắm, thật đấy, giờ thì cố nghỉ ngơi 1 chút đi, các cậu rất xứng đáng.
- Quả là tôi không hề ngủ suốt đêm qua. Chúng tôi đã đi lấy mẫu cả ngày hôm qua đến tận tối, rồi phân tích tất cả cho đến tận chiều nay. Chúng tôi rất may mắn khi tới đúng cái ao ấy. Đó là một nơi hẻo lánh giữa rừng, một chấm nhỏ trên bản đồ của vùng. Tôi sẽ chuẩn bị cho cậu 1 hồ sơ đầy đủ cùng với các kết luận của tôi.
- Hãy ngủ lấy vài giờ đi đã, hồ sơ có thể đợi đến mai. Nhưng cho tôi tên cái ao đi, tôi muốn đến nhìn qua 1 lượt.
Brolin đặt máy xuống sau khi chúc mừng Carl Dimestro thêm 1 lần nữa vì công việc mà anh đã hoàn thành. Anh suy nghĩ rất nhanh, hết hợp năng lực về tội phạm học của mình với những gì anh biết về vụ án đang điều tra.
Cái xác đã được chuyển từ 1 nơi tới 1 nơi khác đó chính là lý do vì sao không có nấm rêu trên môi, nước sông đã làm trôi chúng.
Không phải ngẫu nhiên mà hung thủ di chuyển xác nạn nhân. 1 kẻ sát nhân không thể làm điều đó mà không có lý do xác đáng. Nếu như hắn đã dìm chết cô gái trong 1 cái ao nơi không người qua lại, tại sao hắn lại chấp nhận rủi ro, chuyển xác qua chặng đường nhiều km để vứt xuống 1 con sông khác, tức là mạo hiểm hơn nhiều? Tại sao không để xác lại ở chính cái ao đó, ở giữa rừng nơi sẽ rất lâu sau mới có thể có người phát hiện ra?
Bởi vì có mối liên hệ cái ao với hung thủ! Bởi vì người ta có thể gắn kết cái ao với hung thủ.
Đó là một hướng không nên bỏ qua.
Joshua Brolin đứng dậy, cầm lấy áo vest và bấm 4 số của tổng đài. Phòng điều tra tội phạm. 1 phụ nữ nhấc máy trả lời.
- Cathy, thanh tra Brolin đây. Hãy báo cho cảnh sát trưởng quận Clackamas rằng tôi sẽ tới gặp họ, hãy đề nghị họ cho 1 chiếc xe đón tôi ở lối vào Staffford. Cảm ơn Cathy.
Anh vừa tìm ra một hướng. Một hướng dẫn anh tới hiện trường, đó chính là điều anh thiếu khi ở FBI. Có lẽ một ngày nào đó anh sẽ nhìn nhận thất bại ở Vụ như điều tốt nhất đã xảy đến với anh.
Cuộc điều tra đang tiến triển, và Brolin ngập tràn háo hức khi bước ra khỏi phòng làm việc. Cảm giác đang đi đúng hướng, sẽ có điều gì đó xảy ra, khiến anh thêm hào hứng. Anh không hề nghi ngờ về những sự kiện sẽ diễn ra. Một nỗi kinh hoàng đang từ từ nảy sinh.
***
Hoảng hốt, Juliette ngọ nguậy điên cuồng, uốn cong người rồi trườn kiểu giật giật để rút mình càng nhanh càng tốt ra khỏi cái hốc nơi cô đang bị kẹt. Ai đó đi lại phía sau lưng cô.
Trong vài giây, cô lấy lại tư thế nằm, đầu đã ra khỏi cái hốc tối tăm. Cô xoay người lại ngay lập tức và nhận ra một cái bóng lớn bao trùm lên cô và đang quan sát cô. Ánh sáng yếu ớt khiến cô không thể nhìn rõ những đường nét chính xác của người đó, nhưng cô cảm thấy ánh mắt của hắn trên người mình.
- Thường thì tôi không bao giờ chọn họ như thế này, một giọng nói chậm và mạnh mẽ vang lên.
Juliette không động đậy vì sợ hãi, cô thậm chí không nghĩ đến chuyện chạy trốn.
- Nhưng cô bạn mới nhất mà tôi có ở đây không trong trắng.
Hắn nhấn mạnh từ "cô bạn" như thể từ này vô cùng quan trọng.
- Ồ, đó là lỗi của tôi, tôi biết rồi. Lẽ ra tôi không được vơ gái ở bất kỳ đâu. Đi tán tỉnh ở bến xe của hộp đêm thì đừng mong gặp được một đứa con gái ngoan. Chắc chắn rồi.
Lần đầu tiên kể từ khi hắn ở trong căn phòng với cô, Juliette dám rời mắt khỏi hắn để nhìn vật dài dài phía sau hắn. Một cái thang. Một cái thang thả xuống từ miệng cửa trên trần, cách nền phải đến 2 mét.
- Với em, tôi chỉ biết là không giống như thế. Bọn mình biết nhau rồi mà, tôi nghĩ em là 1 cô gái ngoan.
Juliette cảm thấy nghẹn trong họng, nhưng cô vẫn cố nói. Cô phải tranh thủ thời gian, tên này điên thật rồi, cô tin chắc rằng không nên để hắn nói 1 mình. Cô nói chậm, phát âm khó khăn bằng giọng khản đặc:
- Anh…muốn… gì?
Cái bóng đứng thẳng dậy 1 cách nhẹ nhàng nhưng rất nhanh nhẹn, như thể hắn bị bất ngờ vì sinh vật trước mặt hắn lại nói được.
- Cô em biết rồi đấy, hắn đáp sau vài giây, như tôi đã nói với em trên internet, tôi rất muốn khám phá em.
Juliette giật mình. Đầu óc cô rối tinh với hàng chục ý nghĩ, hình ảnh và nhiều thứ lẫn lộn. Rồi 1 cái tên hiện lên trong cô.
Oberon.
- Em không phải lúc nào cũng tử tế với tôi, hắn nói bằng giọng ra vẻ trịch thượng, nhưng chúng ta sắp sửa được lỗi đó.
Hắn nhẹ nhàng tiến lại gần. Juliette co quắp người ép sát vào tường.
- Không, không, không, hắn nói và lắc lắc đầu vẻ trịnh trọng. Phải ngoan ngoãn thì tôi mới tử tế được. Nếu không tôi sẽ phải trừng phạt em.
Giọng nói của hắn chính là giọng nói của gã đàn ông muốn chở cô về nhà khi cô ra khỏi nhà Camelia. Nhưng khi đó, hắn muốn tán tỉnh, còn bây giờ, giọng hắn nửa đe dọa, nửa điên khùng. Rõ ràng đây chỉ là 1 người. Cũng dáng người thể thao đó và giọng nói tương tự.
Hắn cúi xuống và nắm lấy 2 vai cô. Juliette cảm thấy mùi nước hoa dùng sau khi cạo râu xộc vào mũi.
- Cứ để yên, tôi sẽ không hại gì em.
Trong khoảnh khắc, hắn nhấc cô lên và kéo về phía thang. Juliette định giẫy giụa nhưng có điều gì đó trong giọng nói của hắn khiến cô không làm thế.
Lời dọa trừng phạt nếu không nghe lời hiện rõ trong giọng nói của hắn. Hắn không đùa, con người trước mặt cô không giống 1 kẻ bắt cóc để tống tiền.
Đây là 1 chuyện khác, nghiêm trọng hơn, 1 mưu đồ làm hại. Juliette cố không để mình chìm trong những suy nghĩ đáng sợ, cô nhất thiết phải tìm ra điều gì đó để nói hoặc làm, 1 lần nữa cô lại cảm thấy mình cần tranh thủ thời gian.
Người đàn ông đặt cô ở chân chiếc thang.
- Không được động đậy.
Hắn trèo lên rồi thả 1 cái móc ở đầu chiếc ròng rọc xuống. Một cái móc bằng kim loại sáng loáng dưới ánh nến.
- Anh định làm gì với tôi? Juliette hỏi nhỏ, không giấu nổi nỗi sợ hãi làm nghẹn giọng.
Hắn không trả lời mà tiếp tục điều khiển sợi dây. Rồi hắn trèo xuống dùng cái móc móc chặt vào sợi dây trói Juliette. Tất cả các thứ đồ đều được tra dầu mỡ đầy đủ, được chỉnh 1 cách hoàn hảo, Juliette cảm giác như đang ở trong 1 nhà máy. Cứ như đây là buổi diễn tập 1 màn kịch đã diễn hàng nghìn lần. Những động tác thành thạo của kẻ tra tấn, căn phòng dưới mặt đất được sắp xếp cẩn thận, bộ ròng rọc và cái móc chuyên dụng.
Như thể hắn làm hàng loạt chuyện này, Juliette tự nhủ và 1 làn sóng kinh hoàng dâng lên trong cô. Cô thở dồn dập. Trong lúc hắn hoàn thành việc mắc cái móc vào sau lưng cô, Juliette cảm thấy hơi thở nóng hổi của hắn trên cổ cô khi hắn đáp:
- Tôi sẽ cho em thấy tôi yêu em biết bao nhiêu…
Mọi thứ bỗng nhiên biến thành cơn ác mộng khó tin. Cô biết mình sẽ không thể sống sót để ra khỏi nơi này.
Căn hầm khủng khiếp này không khác gì 1 lò mổ.
***
Đích thân cảnh sát trưởng quận Clackamas cùng 1 cấp phó của ông tới nơi hẹn. Joshua Brolin trình bày mục đích chuyến đi không mang tính công vụ của mình và họ cùng đi về phía đông nam, đến khu rừng Stafford. Ở đó, họ rời đường chính và rẽ vào 1 con đường quanh co mà chiếc Mustang cũ kỹ của Brolin phải vất vả lắm mới đi hết được để tới cái ao nhỏ giữa rừng. Cái ao không sâu, dài khoảng 100m, xung quanh toàn cỏ và bụi lau sậy xòe rộng.
Trên đường đi, Brolin bị bất ngờ vì khung cảnh vắng vẻ và tách biệt của nơi này. Lý tưởng để gây án mà không thể bị trừng phạt, anh nghĩ.
Thế thì sao lại mang xác đến tận sông Tualatin?!!
Thật vô lý. Mọi hành động của hung thủ đều chứng tỏ khả năng làm chủ tình thế và 1 trí thông minh nào đó, vậy tại sao lại chấp nhận nguy cơ bị bắt quả tang với cái xác trong khi hắn chỉ việc vứt xác ở lại đây?
- Ở đây có nhiều người qua lại không? Brolin hỏi ông cảnh sát trưởng đang quan sát nhanh khu rừng.
- Ồ không, có lẽ chỉ vài người câu cá không am hiểu vì cái ao này không nhiều cá. Ngoài ra không có ai. Trừ vài thanh niên thỉnh thoảng tới đây chơi buổi tối, thế thôi. Dân vùng này thích dạo ở Washington Park hơn.
Brolin đồng tình. Lẽ ra cái ao là nơi hoàn hảo để vứt xác lại. Không giống với nhận dạng tâm lý. "Nhất định phải có câu giải thích, Brolin tự nhủ, 1 yếu tố giải thích tại sao hung thủ lại chấp nhận rủi ro để mang xác đi nơi khác".
- Anh đã nói rằng Đao phủ Portland có liên quan đến vụ giết người mới xảy ra gần đây, cảnh sát trưởng nói. Anh nghĩ hắn ta đã tới đây sao?
- Gần giống như thế, viên thanh tra lẩm bẩm.
Không hài lòng với câu trả lời, cảnh sát trưởng đi quan sát mặt nước như thể ông đang đợi 1 con tàu sắp tới. Cấp phó của ông vẫn đứng yên, chưa nói 1 lời nào kể từ khi tới nơi.
Brolin rời cái ao để đi quanh sát nhanh 1 vòng quanh bìa rừng. Thỉnh thoảng, anh liếc nhìn vào trong rừng và cuối cùng phát hiện ra 1 lối mòn rất khó đi. Cảnh sát trưởng đang đứng bên kia, cách khoảng 100m. Brolin gọi to:
- Có 1 con đường ở chỗ này! Ông có biết không?
Cảnh sát trưởng ra hiệu không nghe rõ và đi về phía anh không vội vã. Vì ông ấy còn tương đối trẻ và khỏe, nên Brolin cho rằng ông ấy cố tình không nghe thấy, nhưng anh thấy không thể bỏ qua câu hỏi này. Khi cảnh sát trưởng tới gần, anh lại đặt câu hỏi 1 lần nữa.
- Ồ chỉ là 1 con đường mòn, có lẽ dành cho thợ săn.
- Ở đây được phép săn bắn ư?
- Đúng hơn là được chấp nhận. Không có người trông coi khu săn bắn, anh hiểu không. Tôi còn việc quan trọng khác để làm hơn là theo dõi những khu rừng thế này!
- Có ai sống quanh đây không? Brolin hỏi.
- Không, đây là nơi hẻo lánh, theo tôi nghĩ thì không ai có ý định sống ở 1 nơi như thế này. Vắng vẻ quá, cảnh sát trưởng khẳng định và sửa lại chiếc mũ trên đầu cho ngay ngắn.
Brolin xem xét bìa rừng, đưa mắt nhìn theo 1 đoạn đường mòn. Rừng quá rậm rạp, với nhiều loại cây khác nhau. Cây cối mọc xen lẫn với những khoảnh dương xỉ, những bức tường dây leo có gai và vô số thân cây đã biến dạng trong quá trình phân hủy chậm.
Có tiếng chim săn mồi vang lên chói tai phía trên tán lá cây. Hai người ngẩng đầu cùng 1 lúc.
Nhìn thấy bóng 1 con chim cắt bay lượn trên đầu, cảnh sát trưởng đưa tay xoa cằm nói:
- Bây giờ tôi mới nghĩ ra, đúng là có 1 người sống trong rừng, cách đây không xa.
Brolin quay lại.
- Gặp được người đó thì tốt quá, tôi muốn đặt vài câu hỏi với anh ta, Brolin nói. Anh ta tên là gì?
- Leland. Leland Beaumont. Tôi không nghĩ ra vì đó là 1 chàng trai rất kín đáo. Chỉ khi nhìn thấy con chim cắt, tôi mới nhớ ra. Anh chàng này rất mê chim cắt. Nói chung là thích tất cả các loại chim săn mồi, hình như anh ta đang thuần dưỡng 1 con, anh ta dùng còi, loại còi… giống tiếng chim để nhử chúng tới.
- Ống sáo, phó cảnh sát trưởng chữa lại, ông ta tới chỗ 2 người mà không ai nhận ra. Để thuần dưỡng chim săn mồi, người ta dùng 1 cái còi gọi là ống sáo.
- Tôi thấy ông có vẻ biết nhiều về chủ đề này. Ông có biết Leland Beaumont không? Brolin hỏi.
- Không biết gì hơn. Tôi nhiều lần nhìn thấy anh ta trên các cánh đồng quanh đây với lũ chim săn mồi của anh ta, chính tôi đã đuổi anh ta ra khỏi đó khi nông dân phàn nàn về chuyện này.
- Cái tay Leland ấy, hắn làm nghề gì? Brolin hỏi.
- Đủ thứ việc linh tinh. Nhưng niềm đam mê của anh ta là thuần dưỡng chim săn mồi và điêu khắc.
Kinh ngạc, Brolin hỏi tiếp:
- Điêu khắc ư? Cụ thể anh ta tạc cái gì?
Phó cảnh sát trưởng nhún vai.
- Tôi không rõ, dường như không rõ ràng, tôi nghĩ là anh ta đam mê các bàn tay.
Brolin sững người. Cảnh sát trưởng và cấp phó của ông ta nhìn chằm chằm vào mặt anh cứ như họ đang đối diện với 1 sự hiện hình nào đó.
- Thế nào, có sao không thanh tra? Cảnh sát trưởng hỏi.
- Hãy đưa tôi đến chỗ Leland Beaumont, gọi thêm 1 xe ô tô nữa. Tôi nghĩ là chúng ta đã nắm được điều gì đó.
Con chim cắt kêu 1 tiếng chói tai rất dài trên ngọn cây rồi biến mất trong khoảnh khắc.
***
Cái ròng rọc rít lên lần cuối cùng và 1 cánh tay lực lưỡng nắm lấy thắt lưng quần jean của Juliette. Cô run lên. Hắn định tháo cái móc khỏi dây trói nhưng lại thôi. Hắn cảm nhận được làn da run rẩy qua lần áo sơmi. Hắn chầm chậm đưa tay đặt nhẹ lên hông Juliette. Cô rùng mình và không thể kìm được tiếng rên rỉ vì bất ngờ. Da cô vẫn run lên. Hắn vẫn chầm chậm đưa tay lên dọc theo sống lưng cô và dừng lại ở giữa 2 bả vai. Hắn nghe thấy tiếng cô gái nuốt khó nhọc. Cô tên là Ishtar. Cô đã nói với hắn như thế. Tất cả cuộc trò chuyện giữa họ trên internet chỉ là khúc dạo đầu cho khoảnh khắc này, cho cuộc gặp mặt. Giờ đây, họ sẽ thực sự khám phá nhau. Cả 2 người. Ở trong nhau. Nghĩ đến đây, hắn cảm thấy lượng adrenalin tăng mạnh và bộ phận sinh dục của hắn bắt đầu cứng lại. Những cơn run rẩy đã giảm, nhưng vẫn cảm nhận được.
- Em sợ à? Hắn bình thản hỏi cô.
Cô im lặng vài giây rồi đáp lại.
- Vâng…Tôi có làm gì anh đâu… cô thì thầm.
Một nụ cười hiện ra trên khuôn mặt hắn.
- Có đấy. Giọng hắn nhẹ nhàng, rất điềm tĩnh.
Nhưng Juliette không lầm tưởng. Hắn có khả năng làm điều xấu nhất, giọng của hắn không tự nhiên, hắn đang diễn trò.
- Em đã quyến rũ tôi, hắn phản bác lại. Bằng tất cả những từ, những câu hiện trên màn hình vi tính của tôi. Chính em đã bảo tôi tới mang em đi. Tôi là hoàng tử của em.
Lần này, mọi nghi ngờ đã sáng tỏ, "gã này điên thật rồi, Luliette tự nhủ, 1 kẻ bệnh hoạn."
Hắn rút tay ra khỏi lưng cô và Juliette nằm dài trên nền căn phòng. Đó là 1 gian nhà tối tăm, với những chiếc bàn thợ đầy dụng cụ. Một chiếc xe bán tải đỗ cách đó vài mét. Ánh sáng phát ra từ 2 chiếc đèn gara treo trên 1 thanh xà bằng kim loại và soi rõ những vật trang trí lạ lùng treo đầy trong xưởng. Những bàn tay. Phải đến 30 bàn tay, có lẽ được đúc bằng khuôn, mặc dù vài mẫu quá thô so với sản phẩm đúc khuôn. Dường như tất cả các bàn tay đó đều được làm bằng đất sét, theo mọi tư thế khác nhau.
- Em biết đấy, tôi đã chuẩn bị cho chúng ta 1 bữa tối thực sự. Cả 1 chút rượu vang.
Juliette quay đầu lại để nhìn rõ hơn kẻ bắt cóc mình.
Đúng là hắn, kẻ đã đề nghị giúp đỡ cô. Chỉ khác là giờ đây cô không thấy hắn có vẻ gì lôi cuốn nữa. Hắn không đội mũ, tóc tai dựng đứng trên đầu thành nhiều túm cháy đen. Hắn cũng không cạo râu và chỉ mặc bộ áo liền quần của thợ cơ khí với một khóa kéo dài đằng trước.
Trước ánh mắt Juliette nhìn mình, hắn giải thích bằng giọng nhỏ nhẹ:
- Đúng, tôi biết, trông tôi không dễ coi, nhưng tôi sẽ sắp xếp tất cả cho tối nay. Về quần áo, tôi rất tiếc nhưng thế này tiện nhất cho… cho… rồi em sẽ thấy…
Hắn cười rất tươi và Juliette thấy máu mình đông lại vì sợ. Còn tồi tệ hơn nữa khi cô thấy hắn tự vuốt ve phần giữa hai đùi qua lớp áo liền quần. Ánh mắt hắn lạnh lùng và tàn bạo. Lúc này đây, Juliette biết rằng hắn đang đùa cợt với cô. Hắn thích thú với việc làm cô phải căng thẳng thần kinh dần dần, nói chuyện với cô bằng giọng nhỏ nhẹ. Hắn chơi trò mèo vờn chuột với cô.
- Những gì người ta có thể làm trên mạng internet hiện nay thật điên rồ. Chỉ cần vài cuốn sách là có thể tìm ra tất cả, ngay cả tên thật của 1 nữ thần, hắn nói và để lộ hàm răng đều tăm tắp, gần như quá vuông.
Hắn cúi đầu rồi nhìn chòng chọc vào mắt cô gái.
- Nhưng trước tiên, hãy để lại cho tôi 1 kỷ vật, hắn vừa nói vừa kéo cô vào giữa căn phòng.
Hắn lấy sợi dây xích 1 đầu gắn chặt vào nền nhà và bắt đầu quấn xích quanh chân tay cô gái. Để làm được điều này, hắn cởi dây trói và Juliette lập tức nuôi ý định giãy giụa và chạy trốn. Nhưng hai cánh tay đau ê ẩm khiến cô hết sức loạng choạng. Mặc dù vậy, cô cũng rút được chân ra khỏi xích và bằng 1 động tác rất nhanh của xương chậu, cô cố thử đứng dậy. Một cú đấm mạnh vào hông khiến cô thét lên và ngã xuống nền xi măng lạnh giá. Vài giây sau, cô nằm xấp, lại bị xích 1 lần nữa, và lần này thì bị xích vào nền nhà, chân và tay dang ra.
- Giờ thì tôi để ý hơn đến những cô gái mà tôi đi chơi cùng, hắn nói làm như họ là những người bạn thân thiết đang chuyện trò bình thản. Em có tưởng tượng nổi không, con bé gần đây nhất là gái điếm, 1 con điếm không chuyên.
Dường như hắn lưỡng lự trước khi kể tiếp chuyện.
- Cô ta nói với tôi rằng cô ta có thể… mút… cho tôi với giá rẻ. Em thấy thế là bình thường không?
Nằm trên nền nhà lạnh giá, Juliette cố dõi theo kẻ tra tấn. Nhưng hắn đã biến mất khỏi tầm nhìn của cô. Hắn vẫn ở trong phòng, cô cảm nhận được hơi thở đều đặn của hắn ở không xa và nghe thấy tiếng một vật bằng kim loại.
Hẳn là hắn đang làm gì đó ở cuối xưởng dài. Vài giây trôi qua, hắn lại xuất hiện ở bên phải Juliette, hai tay xoa xoa vào nhau.
- Rõ ràng là tôi không muốn nó. Tôi muốn nói về… con điếm đó. (Hắn ngừng 1 lát để ngắm nhìn rất nhiều bàn tay bằng đất sét đặt trên bàn.) Thậm chí cũng chẳng cần cho bộ sưu tập của tôi. Ôi quên mất!
Hắn cúi xuống giá sách rồi bật chiếc cassette cũ kỹ phủ đầy bụi. Một làn điệu baroc vang lên trong nhà xưởng. Rồi hắn quay lại và lại biến vào bóng tối. Khi trở lại trước mặt Juliette, hai tay hắn cầm 2 chiếc bàn là đang tỏa hơi nóng ngùn ngụt.
- Cái này là để làm cháy thịt. Nếu không em sẽ ngất đi và không bao giờ tỉnh lại được nữa. Mà như tôi nói với em, chúng ta còn phải ăn tối cùng nhau.
Juliette thấy 2 cái bàn là đặt cạnh 2 bàn tay cô. Rồi hắn chộp lấy 1 vật bằng kim loại kêu loảng xoảng khi lướt trên mặt bàn.
Đó là một lưỡi dao dài sáng loáng, giống như dao phay để chém đầu.
- Sau đó, em sẽ ở lại với tôi lâu dài. Rất lâu dài.
***
Chiếc Ford Mustang và 2 xe cảnh sát dừng lại ở giữa đường, giữa cánh rừng.
- Tôi có thể nhầm, nhưng đây có thể là kẻ chúng ta đang tìm kiếm, Brolin cảnh báo. Vì thế không được sơ suất. Các anh lui lại, không lộ diện, đầu tiên tôi chỉ muốn nói chuyện với người này. Nếu có kết luận, tôi sẽ báo lại ngay lập tức. Nhưng nếu đây chính là kẻ giết người, thì có thể hắn sẽ đánh hơi thấy điều gì đó. Nếu diễn biến xấu đi, tôi kêu to "cảnh sát" và các anh tới can thiệp.
- Anh có chắc là muốn vào đó 1 mình không? Cảnh sát trưởng hỏi, ông không thích kiểu tình thế như vậy.
- Chắc. Nếu đúng là hắn thì không được làm hắn sợ. Sự hiện diện của 1 cảnh sát mặc sắc phục trong nhà hắn sẽ khiến hắn kích động. Tôi không muốn gặp bất cứ rủi ro nào. Tôi sẽ đặt cho hắn vài câu hỏi chung chung, chủ yếu là về cái ao, xem hắn có nghe thấy gì không, thế thôi. Tôi chỉ muốn gặp hắn, đánh giá hắn.
Cảnh sát trưởng miễn cưỡng chấp nhận.
- Vào vị trí, thanh tra Brolin ra lệnh, và nhất là chỉ can thiệp khi tôi yêu cầu.
Cả 4 cảnh sát mặc sắc phục tỏa vào rừng để bao vây căn nhà. Brolin đợi 1 lát rồi bắt đầu lên đường. Anh tới đích sau gần năm phút. Căn nhà chính khá nhỏ, chỉ có 1 tầng, với nhiều cửa sổ được che bằng những tấm rèm dày khó xác định màu vì đã bị bụi bẩn biến thành màu xám. Một gian xưởng sát cạnh nằm bên trong bức tường phủ đầy dây leo có gai và dương xỉ. Xưởng không rộng nhưng có lẽ khá sâu, không hề có cửa sổ, chỉ có 1 cửa ra vào với 2 cánh đang hé mở, từ đó vọng ra tiếng nhạc day dứt. Bên sườn phải của ngôi nhà có 1 chuồng chim to được làm thủ công, trong đó có 1 đôi chim cắt lông nâu đang chăm chú quan sát viên thanh tra trẻ. Brolin lướt nhanh qua trước đôi chim săn mồi rồi đi vòng quanh chuồng. Anh liếc nhanh 1 vòng quanh ngôi nhà, nhưng không thấy chiếc xe nào cả. Anh lưỡng lự 1 lát rồi tiến về phía cánh cửa nhà xưởng đang hé mở.
***
Juliette cảm thấy tim đập dồn dập nhưng cô không thể phát ra tiếng kêu gào. Hắn lại gần cô kèm theo nụ cười tươi trên khuôn mặt.
- Đừng lo, đầu tiên rất đau, nhưng sau đó tôi biết cách chăm sóc em…
Cô cảm thấy bàn tay thô kệch của hắn vuốt ve mông cô qua quần jean. Khóa kéo trên bộ áo liền quần của hắn đã kéo xuống 1 nửa, để lộ phần ngực vạm vỡ.
Hắn luồn 1 tấm ván xuống dưới cổ tay cô gái, người cô run lên bần bật.
- Như thế, để lưỡi dao không bị hỏng vì chém xuống nền, hiểu không?
Đầu Juliette quay cuồng vì quá sợ hãi, cô cảm thấy tâm trí cuồng loạn.
- Lưỡi dao đẹp thế! Hắn thốt lên với vẻ ngưỡng mộ kiểu trẻ con.
Rồi hắn vung con dao dài lên. Mắt hắn lồi ra khỏi hốc mắt, lóe sáng ngàn ánh lửa tức giận và điên cuồng kinh hoàng.
Juliette cố hết sức thét lên còn lưỡi dao chém vào không khí.
Nhanh như chớp.
Chết người.
Cô nằm trên nền nhà xưởng rùng rợn này và 1 thứ chất lỏng nóng ấm chảy trên cánh tay cô. Nhưng cô thậm chí không thấy đau.
Sau đó, Juliette không bao giờ nhớ được mình đã nghe thấy rõ 1 tiếng nổ.
Trong trí nhớ của cô chỉ còn lại âm vọng của 1 tiếng sấm khủng khiếp.
Cô đánh bạo mở mắt và thấy hắn nằm sõng xoài cạnh vũ khí của hắn. Một phần hộp sọ của hắn bị mất. Chính máu của hắn đang chảy trên tay cô. Cô cử động bàn tay: vẫn nguyên vẹn.
Juliette không hiểu chuyện gì diễn ra quanh mình. Có tiếng bước chân vội vã, rồi những lời thốt lên kinh ngạc, tiếp đó là những tiếng kêu, tiếng đám đông hoảng hốt vọng đến từ xa.
Thứ duy nhất mà cô còn nhớ được là giọng nói trầm và đáng tin cậy khiến trái tim cô ấm lại:
- Đừng sợ gì nữa, tôi là cảnh sát… Những thứ khác chìm trong nước mắt và vô thức.