Ông bà de Grey đến ngay trước giờ ăn trưa hôm thứ bảy. Billy và Charlie đã trải qua cả buổi sáng làm bài tập về nhà trong phòng nhà Vua. Hên là Manfred không có ở đó để trông chừng chúng, nên chúng không phải làm bài quá vất vả. Billy không nhắc gì đến cây gậy phép nữa, và Charlie cảm thấy rằng, có lẽ, những câu hỏi của Billy là ngây thơ.
Vào lúc hai giờ Mnfred thò đầu qua cửa và nạt:
“Billy, mang va-li của trò xuống tiền sảnh.”
“Thưa vâng, thầy Manfred,” mắt Billy căng bự như cái dĩa để tách. Trông nó vừa sung sướng lại vừa sợ sệt.
“Để em giúp nó một tay,” Charlie đề nghị.
“Không cần mày. Đây là việc của Billy.”
Charlie theo Billy lên lầu khi thằng bé đi lấy va-li.
“Tạm biệt,” Billy nói. Mặt nó đỏ hồng lên vì phấn khích, nhưng thiệt khó mà biết nó đang nghĩ gì.
“Có lẽ em sẽ gặp anh vào chủ nhật.”
“Hay quá. Bảo ba mẹ đưa em tới nhà anh, rồi anh sẽ dẫn em tới quán cà Phê Thú Kiểng,” Charlie nói.
“À,” Billy đặt va-li xuống. “Còn con Rembrandt sẽ ra sao đây? Anh có nghĩ là họ sẽ cho em nuôi nó trong nhà không?”
“Có lẽ là không. Nhưng đừng lo. Anh sẽ nhờ bà bếp trưởng lo liệu cho em. Bà ấy sẽ đem nó đến quán cà phê.”
Billy mỉm cười:
“Vậy thì gặp anh vào Chủ nhật.”
Vài phút sau khi Billy rời khỏi phòng, Charlie nghe có tiếng người nói ở ngoài mảnh sân gạch. Nó nhìn ra và thấy môt người đàn ông và một phụ nữ đang nói chuyện với giáo sư Bloor. Không còn nghi ngờ gì nữa, họ là những người trong mấy tấm hình của Manfred. Ông hiệu trưởng dẫn họ qua cánh cổng chính, nhưng ngay trước khi họ biến khỏi tầm mắt, người đàn ông nhìn lên cửa sổ của Charlie. Charlie vội núp sau tấm rèm.
Từ vẻ mặt không cười của ông de Grey, Charlie có thể khẳng dịnh là ông ta được ban phép thuật rất hùng mạnh, một phép thuật mà sẽ gây rắc rối cho Billy Raven.
“Nhưng mà là phép gì nhỉ?” Charlie tự hỏi.
Lúc một giờ trưa, nó thơ thẩn đi xuống căn-tin. Không có ai ở đó, kể cả Manfred. Charlie đứng sau cái quầy trống không. Không thấy một cái dĩa, hay một bộ dao nĩa nào.
Dáng người tròn nhỏ của bà bếp trưởng bươn ào qua cửa nhà bếp.
“Charlie, Charlie, Charlie!” bà rối rít. “Ta không biết là con ở đây. Con muốn ăn trưa chứ hả?”
“Dạ, có,” Charlie hấp tấp nói. “Con sắp chết đói rồi.”
Bà bếp trưởng ra hiệu cho nó vô nhà bếp.
“Nếu chỉ có mình còn, Charlie, thì chúng ta cùng ăn chung.. ở chỗ của ta.’
Charlie theo bà bếp trưởng đi qua cánh cửa đóng tự động bên hông quầy, và năm phút sau Charlie đã được húp một chén xúp cả cải vàng ngon tuyệt.
“Ta nấu gần năm lít xúp, cho gia đình Bloor,” bà bếp trưởng nói. “Ta e là không còn bò rô-ti nữa, nhưng có bánh trứng đường sô-cô-la.”
Bánh mì vóng tự tay bà bếp trưởng làm, nóng và giòn, và bà bảo Charlie muôns ăn bao nhiêu bơ là tùy ý. Sau hai chén xúp, bốn cái bánh mì vòng quết bơ và một lát bánh trứng đường đặc biệt thiệt to của bà bếp trưởng, nó cảm thấy mình đã ăn đủ để sống tới Chủ nhật.
“Đây là món xúp ưa thích nhất của Billy,” bà bếp trưởng buồn bã nói. “Ta với nó luôn ăn trưa cùng nhau vào cuoois tuần.” bà rút một chiếc khăn mùi xoa lớn màu trắng ra và hỉ mui ầm ĩ.
“Bà bếp trưởng, bà không lo lắng khi Billy được nhận làm con nuôi quá đột ngột như vậy sao?” Charlie hỏi.
“Ta nghĩ là có. Ta không thích bộ dạng của mấy người de Grey đó.” Bà lắc đầu. “Họ không có vẻ là những bậc cha mẹ, Charlie à. Nhìn là thấy liền.’
“Bà nghĩ họ có để Billy nuôi Rembrandt không?”
“Ta cho là không. Nhưng ta sẽ đem chàng tí bé bỏng đó đến quán Cà Phê Thú Kiểng. Ông bà Onimous sẽ giữ nó an toàn, và Billy có thể đến thăm nó vào cuối tuần.”
Bà bếp trưởng là một trong số ít những người lớn trong trường mà Charlie biết chắc chắn đã được thừa hưởng một phần quyền phép huyền bí của Vua Đỏ. Tuy nhiên, đến nay gia đình Bloor vẫn không biết bà thực sự là ai, và bà quyết tâm giữ như thế. Bà đã chọnviệc giành cả đời mình để trông nom những đứa trẻ có phép thuật ở học viện Bloor, nhưng không phải lúc nào bà cũng bảo vệ được chúng, và điều này khiến bà vô cùng buồn phiền.
Thình lình, bà bếp trưởng nhoài người sát lại gần Charlie và thì thào:
“Ta nhận được một lá thư từ một người gần gũi với Billy.’
“Ai vậy?” Charlie nghiêm trang hỏi.
Bà bếp trưởng ngoái nhìn ra sau:
“Ta chưa thể nói cho con biết tên ông ấy được, Charlie. Ông ấy là một người họ hàng xa của Billy và khi ba mẹ của thằng bé tội nghiệp mất, người... người này... cố nhận thằng bé làm con nuôi. Nhưng ông ấy và gia đình Bloor, à, nói sao cho sòng phẳng nhỉ, cực kỳ không thuận với nhau. Với gia đình con cũng y như vậy. Nhà Yewbean suýt nữa thì ám sát được người đàn ông đó, cho nên ông ta phải rút lui, chuyện là vậy.’
Quai hàm của Charlie xệ xuống.
“Ám sát? Bà nói là gia đình con...?”
“Con ngạc nhiên lắm sao, Charlie?”
“Dạ không,” Charlie thú nhận, nghĩ đến mấy bà cô của nó. “Con nghĩ là không. Nhưng làm sao gia đình Bloor có được Billy?”
“Cô của nó đã ký giấy trao nó, đơn giản thế thôi.’ Bà bếp trưởng vuột ra một tiếng “Hứ’, vẻ khinh thường. “Một phụ nữ yếu đuối. chắc hẳn họ đã mua chuộc bà ta.”
“Nhưng tại sao họ lại muốn thằng bé dự vậy?”
“Do phép thuật của nó, Charlie. Mặc dù phép thuật đó không lộ ra cho mãi đến khi thằng bé sáu tuổi, nhưng họ đã nghi ngờ rồi. Dòng họ Raven là một dòng họ rất tài phép. Người họ hàng của Billy nói với ta rằng Billy là chủ nhân hợp pháp của Lâu Đài Gương.”
“Lâu Đài Gương?” Charlie sốt sắng nói. “Chà! Bà kể cho con nghe nữa đi.”
“Charlie, cái vẻ háo hức hiện ra trong mắt con kìa. Đừng có nhúng mũi vô những chuyện không liên quan đến con.”
“Con chỉ muốn biết nó ở đâu thôi mà,” Charlie nói, vẻ ngây ngô.
“Nói thiệt ta không biết,” bà bếp trưởng thú nhận. “Có lẽ Ông cậu Paton của con có thể cho con biết. Theo như ta biết, ông ấy là một quý ông hiểu biết thâm sâu.’
Đáng lý ra Charlie còn nghe được thêm nữa, nhưng họ đã bị gã đàn ông giúp việc vặt, gã Weedon, cắt ngang một cách thô lỗ. Thò cái đầu trọc qua cửa nhà bếp, gã rống kên:
“Ra là mày ở đây, thằng Bone kia. Mày có cả thảy năm phút để chuẩn bịi.”
Charlie nhảy dựng lên.
“Sao vậy? Con tưởng con đựơc ở đấy tới giờ uống trà.”
“Sao vậy? Sao vậy?” Gã Weedon nhái lại bằng giọng rỉa rói. “Bởi vì sẽ tiện cho bà cô mày tới đón mày, chứ còn sao nữa. Xem ra mày không để ý là xe buýt trường không chạy vào cuối tuần, và hình như không ai khác trong gia đình mày biết lái xe... ít nhất là vào ban ngày.”
“Ồ” Charlie cảm thấy xấu hổ cho Ông cậu của mình.
“Vậy thì, tạm biệt bà bếp trưởng. Cám ơn bà về bữa trưa.”
“Tạm biệt, Charlie. Ngoan nhé,” bà bếp trưởng nháy mắt với nó.
Charlie theo gã Weedon đi ngang qua những quầy bếp, nhữung bồn rửa trống rỗng, những kệ chén đĩa bằng sứ và những dãy xoong nồi sáng lóa.
“Lẹ lên,’ gã Weedon giục. “Bà ấy không thể chờ mày được đâu.”
Họ ra tới tiền sảnh, nơi charlie thấy bà cô Eustacia đang đi đi lại lại trước cổng chính. Một cảm giác kinh tởm muốn phát bệnh chộn lên trong bụng Charlie. Bà cô Eustacia chuyên lái xe như điên. Bà là tài xế duy nhất có thể khiến nó say xe.
“Lẹ lẹ coi! Lẹ!” bà cô Eustacia nóng nảy. “Bọn tao đã kiếm mày khắp nơi.’
“Cháu phải đi lấy đồ đã,” Charlie nói, nghĩ đến cây gậy phép giấu dưới nệm giường của nó.
“Ở đây cả rồi!” Bà cô Eustacia đa scái túi xách nằm dưới chân. “Bà Lucretia đã tốt bụng gói ghém cho mày đó.”
“Nhưng... nhưng... cháu có thứ phải cho vô đó,” Charlie nói một cách tuyệt vọng.
“Vậy thì lẹ lên,” bà cô của nó buông một tiếng thở dài bực dọc, rõ to.
Charlei giật lấy cái túi của nó và vọt lên phòng ngủ chung. Nhấc mép miệng giuờng lên, nó rờ tay xuống dưới. Cây gậy phép không có ở đó. Hoảng hồn hoảng vía, nó nhấc cả hai đầu và hai bên tấm nệm lên. Cuối cùng, nó đẩy hẳn cả cái nệm ra khỏi giường. Cây gậy phép đã biến mất.
Charlie lôi tấm nệm về lại chỗ cũ, và xếp gọn chăn mền lại. Cái cảm giác bồn chồn trong bụng nó càng trở nên tệ hại hơn.
“Nãy giờ mày làm cái khỉ gì vậy, hả?” bà cô Eustacia hạch hỏi khi Charlie cuối cùng cũng kéo lết cái túi trở xuống tiền sảnh.
“Cháu không tìm thấy,” Charlie đâu khổ nói. “Đồ của cháu.”
“Chậc! Ta không thể chờ được nữa,” bà côm nó dòm đồng hồ. “Ta dã nói với bà Venetia là sẽ quay về nhà lúc hai giờ. Lại dây và lẹ lẹ cho xong đi.”
Gã Weedon, lấp ló gần cổng chính nãy giờ nói:
“Sẵn sàng chứ? Một, hai, ba.”
Bà cô Eustacia tặc lưỡi một cách sốt ruộc khi gã Weedon rút chùm chìa khóa móc ở sợi dây xích gắn với dây lưng của gã ra. Chọn lấy một chiếc chìa khóa sắt khổng lồ, lão tra nó vô ổ khóa, xong rồi tháo hai cái chốt dài ra. Cánh cổng bật mở.
“Xin kính mời quý bà,” gã Weedon vừa nói vừa cúi đầu.
“Dẹp trò đó đi,” bà cô Eustacia la quang quác.
Khi Charlie theo bà ta ra ngoài, nó nhận thấy va-li của Billy Raven đang dựng ở một góc tiền sảnh. Vậy là thằng bé vẫn còn ở trong học viện. Liệu nó có bị giải đi mất trước khi có thể nhìn ông bà Grey rõ hơn?
Chiếc xe hơi màu đen của bà cô eustacia đậu chình ình cạnh vòi phun nước hình đàn thiên nga. Ngay khi Charlue vừa leo vô băng ghế sau, bà ta vọt đi liền, cắt xẹt các góc đường và đụng bùm bụp vô lề đường, rú ầm ầm sai chiều trên con đường một chiều, bóp còi inh ỏi vào mặt khách bộ hành đang băng qua lối dành cho người đi bộ, vù vù qua mặt những người đi xe đạp hất sức nguy hiểm, vượt qua giới hạn tốc độ và né được những chiếc xe hơi đang đậu chỉ trong gang tấc. (À không, hình như có đụng bể ba chiếc kính chiếu hậu.)
Trước nỗi kinh hoàng của Charlie, bà cô Eustacia lái xe đến Ngách Tối, một con hẻm tối mò nơi ba bà cô của nó sống trong những căn nhà liên kế, tất cả đều mang số 13. Căn nhà thứ ba được bao bọc trong giàn giáo, nhưng đằng sau những miếng ván và thép xếp chống ấy, có thể thấy lấp loáng một toà nhà không mái, đen đủi – những gì còn sót lại của căn nhà bà cô Venetia.
“Nhìn cho kỹ đi, Charlie,” bà cô Eustacia nói, dừng xe lại đánh két bên ngoài căn nhà ở giữa. “Mày phải chịu trách nhiệm cho đống diêu tàn đó.”
“Không đúng,” Charlie phản đối.
“Không hoàn toàn trực tiếp,” bà ta thừa nhận, “Nhưng mày đi cùng với thằng em quỷ sứ của tao khi nó gây ra vụ này, mày về hùa với nó, đừng có chối cãi.”
“Thế bà nuốn Ông cậu làm gì nào?” Charlie bướng bỉnh nói. “Tại bà Venetia định giết cô Ingledew.”
Bà cô Eustacia mở cửa xe ra và vung chân đáp xuống vỉa hè.
“Đi ra,” bà ta quát, rồi đóng sầm cửa lại.
Charlie chẳng sung sướng gì để vâng lời ngay. Nó ì ạch bước ra khỏi xe, kéo theo đằng sau là cái túi.
“Giờ thì cút,” bà cô Eustacia nói, chỉ tay xuống con hẻm. “Mày có chân có cẳng. Mày có thể đi bộ về nhà.”
Charleui quay đi và chạy ra ngõ hẻm. Nó không mất công cám ơn bà cô đã chở nó về được nửa đường. Nhưng khi nghe tiếng cửa trước của nhà bà đóng cái rầm, nó đứng sựng lại và ngoái nhìn ngôi nhà đổ nát. Nó chợt nhớ tới cây đàn piano trông thấy trên cao chót vót khi bức tường của căn nhà đang bốc cháy đổ ập xuống, và nó nhứo lại cú rơi khủng khiếp của cây đàn, đến giai điệu kỳ quái khi cây đàn rớt sầm vô những cầu thang tầng hầm và bể tan thành hàng ngàn mảnh.
Ai chơi cây đàn piano bị giấu trong gác mái của nhà bà cô Venatia? Đó có phải là ba nó, bị cầm tù, bị thôi miên, bị mất trí nhớ? Và nếu thế thì, ba Lyell Bone của nó hiện giờ ở đâu?
“Về với con, ba ơi!” Tiếng thì thầm của Charlie vang dội trong con hẻm vắng tanh. “Cố lên, ba.”
Trong khi Charlie đang trên đường về nhà, thì Billy Raven dùng bữa đầu tiên với ông Usher và bà Florence de Grey. Họ thích Billy gọi tênt hánh cảu họ hown, bà Flororence nói với Billy, vì họ cảm thấy đã quá trễ cho họ để được gọi là ba, mẹ. Họ không bao giờ quen với cách gọi đó. Billy hàng mong chờ được gọi ai đó là “Mẹ”, nhưng nó quyết định chấp nhận tất.
Phòng ăn của gia đình Bloor cách thư phòng của giáo sư Bloor hai phòng ở chái phía tây. Đó là một căn phòng hẹp có cửa sổ dài nhìn ra vườn. Các bức tường được dán bằng giấy sọc đỏ vàng, và trần nhà cao đến nỗi Billy hầu như không thể nhận ra những hình thù kỳ lạ phủ xuống quanh những đồ đạc. Nó nghĩ có lẽ đó là những máng xối hình đầu thú.
Một bộ đèn chụp treo phía trên chiếc bàn gỗ mật hình bầu dục mặc dù hôm nay trời ấm áp, nhưng một đống củi đốt vẫn cháy trong vỉ lò sưởi bằng đá hoa cương sậm màu. Ngay cả mùa hè, lão Ezekiel cũng bọc mình trong tấm mền len kẻ ô vuông. Lão ta già nua và lạnh lẽo thấy tận linh hồn.
Hôm nay, lão già ngồi ở vị trí quan trong nhất bàn, lưng quay ra cửa sổ. Lão nhai với cái miệng há to, và thỉnh thoảng, nhữung mẩu đồ ăn rớt xuống đùi. Ở đầu bàn bên kia, giáo sư Bloor cứ nói chuyện thật lớn với ông bà de Grey, ráng làm trệch hướng chú ý của mọi người khỏi cái thói ăn uống kệch cỡm của ông nội ông ta.
Billy bị ép chặt giữa bà giám thị và Manfred, đối diện với ba mẹ tương lai của nó. Đồ ăn từ dĩa của nó bốc hơi làm mờ cả mắt kiếng, và khi no cố lau chúng bằng khăn ăn thì bà giám thị rít lên:
“Khăn tay!”
Billy không có khăn tay. Nó hấp háy ngó những cia dĩa chất ngồn ngộn thịt và rau. Rõ ràng là gia đình Bloor đang cố tạo ấn tượng với khách khứa của họ. Billy bắt đầu ngán ngẩm cuộc trò chuyện tẻ nhạt giữa họ với nhau. Nó lén nhìn “Mẹ” mới của mình ở bên kia bàn, và bà ta đáp lại ánh nhìn của nó bằng những nụ cười xẹt qua, lộ cả rằn, nhưng không bao giờ lên được tới mắt bà ta.
Việc mỉm cười đối với ông de Grey còn hơn cả một cuộc đấu tranh gian khổ. Ông ta chỉ có thể cười được xệch mép. Billy tự hỏi không biết nó có gây thất vọng cho “ba” mới của nó hay không. Có lẽ người đàn ông trông khinh khỉnh này đã hy vọng về một cậu bé tóc nâu bóng mượt và một làn da khỏe mạnh – một cậu bé có đôi mắt bình thường không cần đeo kiếng.
Nếu đúng thực là ông bà de Grey từ lâu đã muốn nhận nuôi một đứa trẻ, theo như họ nói, vây thì tại sao trước đó họ không tranh thủ đi kiếm một đứa? Và tại sao trước đây gia đình Bloor lại không nghĩ Billy là một ứng viên thích hợp?
“Ăn hết đi Billy,” bà cô Lucretia nói. “Chúng ta muốn ăn bánh put-đinh.”
Billy ấn một miếng khoai tây nữa vô miệng và cố nuốt. Dường như có một bức tường ở bên trong bao tử nó, không để cho thức ăn đi xuống. Nó thôi ăn và đặt dao nĩa gọn gàng lên dĩa.
Bà giám thị thở dài và thu dọn dĩa của nó.
“Thằng bé hồi hộp quá đấy mà,” bà ta nói với ông bà de Grey. “Tối nay cho nó một quả trứng. nó thích ăn trứng lắm.”
Billy tự hỏi điều gì khiến bà giám thị nói như vậy. Làm sao bà ta biết nó thích cái gì? Bà ta và nó thậm chí còn chưa bao giờ ngồi ăn cùng bàn nữa là.
Bà cô Lucretia don sạch cAc dĩa ăn và “ồ” lên một tiếng thích thú khi gã Weedon xuất hiện với ổ bánh trứng đường sô-cô-la thiệt to. Billy vốn thích sô-cô-la, nhưung nó không sao ăn nổi món bánh trứng đường ấy. Một miếng cũng không. Nó nhìn chằm chằm vô phần bánh bự mà bà giám thị đặt phịch xuống trước mặt nó. Nó ước sao có thể cho Rembrandt phần bánh ấy, nhưung nó không dám nhắc đến chuột. Nó không được phép nuôi chuột. Gia đình Bloor nhất định sẽ giết chuột của nó mất.
Bà giám thị lấy đi phần bánh trứng đường không hè được đụng tới của Billy với cái nhìn quạu quọ. Và rồi chiếc bàn được dọn dẹp sạch bong. Mọi người đứng lên và ngồi xuống trong khi Billy vẫn ở nguyên chỗ nó đang ngồi, bức tường trong bao tử nó nặng dần lên từng phút.
Bà de Grey đặt một chiếc giỏ xám lên bàn. Bà ta rút ra ba tờ giấy và đặt chúng trước mặt Billy.
“Bây giờ là lời tuyên thệ của trò, Billy,” giáo sư Bloor nói bằng giọng nghiêm nghị.
“Lời tuyên thệ?” Billy nói, yếu xìu.
“Đúng,” giáo sư Bloor gầm vang. “Việc nhận con nuôi đâu phải cứ thế này mà xảy ra. Chúng cần phải được sắp đặt. Lời giao hẹn phải được thực hiện.’
Lão Ezekiel nhoài người về phía trước, hai cùi chỏ để lên bàn, hai nắm tay chum vô má.
“Bà de Grey là người giữu lời tuyên thệ, Billy. Biết đó là gì không?”
Billy lắc đầu.
“Bà ấy giữ giấy tờ!” Lão Ezekiel cười he hé mọt cách khiếm nhã. “Trước khi mày về ngôi nhà mới xinh xắn của mày, mày pảhi ký một bản tuyên thệ, thề sẽ làm những điều cụ thể được ghi trong những tờ giấy trước mặt mày đó. Hiểu chưa?”
“Dạ hiểu, thưa ông.”
“Hãy đánh dấu kiểm vô những ô ghi ‘Có’, và ký tên ở cuối,” bà de Grey nói với giọng thạo việc.
Thò một móng tay dài, bà ta ấn một hàng kẻ chấm chấm ở cuối một trong những tờ đơn, và rồi bà ta nở nụ cườ.
“Con buộc phải làm thế ạ?” Billy đánh bạo hỏi.
“Nếu mày muốn được nhận làm con nuôi,” Manfred nói, đôi mắt đen của hắn xoáy vô mặt Billy.
Bà de Grey trao cho Billy một cây viết và vó bắt đầu đọc mẫu đơn đầu tiên:
1. Tôi hứa luôn luôn nói sự thật.
2. Tôi hứa im lặng sau 7 giườ (Ba mẹ bạn cần 10 tiếng đồng hồ để ngủ.)
3. Tôi hứa mặc những bộ quần áo đã được chọn cho tôi (Và chúng cũng rất dẹp.)
4. Tôi hứa không bao giờ đòi ăn (Vì tôi sẽ được cho nhiều đồ ăn.)
5. Tôi hứa không bao giờ bàn tán vớinhững đứa trẻ khác về những gì xảy ra trong Ngôi Nhà Bất Chợt.
6. Tôi hứa trả lời, một cách thành thực, bất cứ câu hỏi nào liên quan đến những hậu duệ của Vua Đỏ, đặcbiệt là Charlie Bone.
Billy ngỏng lên.
“Tại sao?” nó hỏi. “Tại sao con phải trả lời những câu hỏi về Charlie, lại còn ‘đặc biệt là’?”
“Đó là một điều kiện, Billy,” giáo sư Bloor nói, không giải thích. “Đánh dấu vô ô đi.”
Billy đánh dấu.
7. Tôi hứa tắm vào ngày thứ Sáu, thứ Bảy và Chủ nhật.
“Con không phải đọc hết danh sách,” bà de Grey nói. “Chỉ cần đánh dấu thôi... cưng.”
Tờ giấy mang lại cảm giác rất lạ. các cạnh giấy đều cứng và khá nóng khi đụng vào.
Billy đã hoàn thành nhiệm vụ của nó và đẩy mấy tờ giấy ra xa. Bà Florence de Grey lẹ làng đút chúng vô giỏ xách của bà ta, cái giỏ mà, Billy thấy, đã ních căng những tờ giấy giống như những tờ của nó. Bà ta vỗ nhẹ cái giỏ một cách mãn nguyện. “Bình an vô sự,” bà ta nói và rồi, chồm người ra trước, bà ta bảo Billy:
“Ta giữ lời tuyên thệ,
Vậy chúng được lưu trữ
Cấm phá vỡ lời thề
Mà ta, người cất giữ.”
Và lần này nụ cười đã lên tới mắt bà ta.
“Mày nên coi chừng, Billy,” lão Ezekiel nói và cười một cái khịch. “Nguời ta đã thử phá vỡ những lời tuyên thệ được cất trong cái túi đó và, ôi trời ơi, họ đã phải trả giá cho điều đó mới kinh chứ.”
“Thiệt hả?” Billy sợ hãi hỏi.
Mọi việc đều diến ra chóng vánh sau đó. Mọi người đứng dậy, trừ lão Ezekiel cứ nằg nặc đòi bắt tay Billy và chúc mừng nó.
“Đi nhé, cháu trai của ta,” lão nói, đẩy Billy một cái.
Giáo sư Bloor dẫn đường đi xuống tiền sảnh, ở đó ông ta vỗ lưng Billy và bảo với nó rằng nó cực kì may mắn khi tìm được ba mẹ tốt như vậy. Gã Weedon lại mở cánh cổng chính, và Manfred nhấc chiếc va-li to, đưa cho Billy, thằng bé theo be mẹ mới của nó băng qua guảng trường tới một chiếc xe hơi nhỏ màu xám.
Billy leo vô dằng sau xe cùng với va-li của nó, và ngay khi bà Florence ngồi vô ghế hành khách, ông de Grey cho xe chạy. Ông Usher là một tài xế cẩn thận và cuộc hành trình băng ngang thành phố của Billy thoải mái hơn nhiều so vớicuộc hành trình Charlie vừa trải qua.
Họ đậu xe ở cuối một ngõ hẻm tối tăm rải sỏi cuội. Sương mù dày đặc đổ xuống và Billy gần như vuột mất ông bà de Grey khi họ xuống xe và bước lẹ lên ngõ hẻm dốc. Billy tất tả đi theo họ. Nó đi ngang một tấm biển gỉ sét ghi NGÕ QUANH CO. Đi tiếp, thấy một bảng lưu ý to gắn vô một khung cửa, đề: “Bọn vô gia cư không nên lảng vảng ở dây.”
Ngõ Quanh Co mỗi lúc một dốc hơn. Thỉnh thoảng Billy chúi nhủi vì bước hụt chân và chiếc va-li to kềnh đập bụp xuống sỏi. Bây giừo xem ra chiếc va-li đã nặng hơn nhiều và Billy bắt đầu kéo lê nó đằng sau, kịch, kịch, kịch. Ông bà Grey dường như không để ý gì.
Bức tường trong bao tử Billy đã trồi lên tới ngực. Nó đã tưởng tượng ngôi nhà mới của mình là một ngôi nhà ngập ánh nắng, có bãi cỏ rộng, chứ không phải một nơi tối hù và bí ẩn như thế này. Một tấm biển gỗ kêu cọt kẹt ở trên đầu và ní bước lùi lại để đọc. hàng chữ NGÔI NHÀ BẤT CHỢT, 10 MÉT được sơn màu đen trên nền đỏ. Mười mét đó dốc nhất trong toàn bộ đoạn đường. Hơi thở của Billy chuyển thành tiếng rên rỉ nho nỏ khi nó cố kéo chiếc va-li lên một cánh cửa, nơi ba mẹ mới của nó đang đứng dòm nó.
“Chúng ta tới rồi, Billy,” bà Florence nói.
Phía trên cánh cửa, dòng chữ Ngôi Nhà Bất Chợt được khắc hẳn vào đá. Ông Usher tra một chiếc chìa kháo kim loại to sụ vô một ống khóa to tương xứng với chìa khóa. Có tiếng “Tạch” thât to và cửa bung vô trong. Billy leo lên hai bậc cấp và bước vô nhà.
Hành lang rộng mọt cách đáng kinh ngạc so với một ngôi nhà mở đầu cho một ngõ hẻm tối tăm. Nó được lát đá hoa cương đen và trắng, và nhữung bức từờng xám của nó được trang trí bằng những hình nhân bằng thạch treo trên một cái tủ kính trống rỗng, nhưng khi Billy nhìn vào chiếc gương ấy, nó chỉ thấy một nùi trắng. Tóc nó chăng? Phần thân cười còn lại của nó bị nuốt chửng trong một màn sương xám. Sương mù đã theo họ vào nhà, hay luôn luôn có sương mù trong nhà?
“Lẹ coi, Billy,” bà Florence gọi to. Bà ta vẫy tay từ một dãy cầu thang đá.
Billy lộp cộp bước lên nền đá lát. Chiếc va-li của nó lê ngoằn ngoèo và rít lên sau lưng. Nó bước đi giữa hai cây cột đá hoa cương cao và bắt đầu leo lên cầu thang. Một, hai, ba. Nó dừng lại để thở, tì mạng vô thanh vịn cầu thang bằng kim loại. Ông Usher de Grey đã biến mất sau một cánh cửa ở tầng trệt.
“Lẹ lên! Lẹ lên!” bà Florence gọi từ chỗ chiếu nghỉ. “Con sẽ thích phòng của con cho coi.”
Billy thở phù phù suốt những bậc thang còn lại và theo bà Florence đi qua một hành lang dài. Khi họ đến cuối hành lang, bà ta mở cửa, hô:
“Tới rồi!”
Billy bước vô phòng của nó: căn phòng đầu tiên trong đời là của nó thực sự chứ không phải của ai khác. Căn phòng thậm chí còn đẹp hơn nó mong đợi. Nó đặt va-li xuống và nhìn lom lom ra xung quanh.
Chiếc giường lớn hơn thứ giường chật chội trong học viện Bloor nhiều. Trên giường có chăn nhồi lông mềm và áo gối đều là ca rô xanh da trời, thành đầu giường bằng gỗ thông. Có một tủ gỗ thông cao và một tủngăn kéo tiệp màu, nhưng billy gần như không để ý đến những chi tiết này. Nó đang nhìn chằm chằm chiếc TV kê trên bệ đen, và rồi tới chiếc máy vi tính trên một chiếc bàn gỗ thông. Của nó đấy sao?
“Là của con à?” Billy hỏi, như hết hơi.
“Của con tất,” bà Florence nói. Bà ta vẫn cầm khư khư chiếc giỏ xách và bà ta vỗ nhẹ vô cái giỏ, thiệt nhanh, trong khi bắn cho Billy môkt nụ cười lạ lùng:
“Miễn là con giữ lời hứa.”
“Lời tuyên thệ ấy ạ?” Billy nói.
“Chính xác. Giờ thì cứ thoải mái như ở nhà, Billy nhé. Có bồn rửa trong phòng con, thấy chưa, đằng sau bức bình phong ấy,” bà ta chỉ một tấm bình phong trắng trong góc, “Vậy nên, chẳng có cớ gì để đi ăn với đôi tay dơ. Hiểu chứ?”
Billy gật đầu.
“Bữa tối vào lúc 6 giờ.” bà ta chỉ chiếc đồng hồ trên máy vi tính. “Thế nên, cũng không có lý do gì để trễ nải cả.”
Bà Florence quay gót và bước ra ngoài, đóng cửa lại sau lưng.
Billy ngồi trên giường của nó. Có qua nhiều sự việc phải tiếp nhận. Nó muốn nói với ai đó về việc này. Charlie. Có lẽ Charlie sẽ đến chơi. Anh ấy chắc chắn sẽ ngạc nhiên lắm.
Mới bốn giờ. Còn khối thì giừo mới tới bữa tối. Billy quyết định hỏi bà Florence, ngay bây giờ, xem nó có thể mời bạn tới chơi được không. Nó chạy xuống lầu và nhìn vô các phòng dưới tầng trệt: nhà bếp, phòng ăn, phòng khách rất sang trọng và phòng làm việc. Chẳng thấy tăm hơi ông bà de Grey đâu cả.
“Mọi người ơi!” Billy gọi to.
Không có tiếng trả lời.
Billy rón rén đi về phía cửa trước. Có lẽ nó nên ra ngoài và đi tìm Charlie. Khi nó đi đến chỗ chiếc gương ở hành lang, có một điều gì đó rất kỳ lạ xảy ra. Nó thấy mình không thể di chuyển xa hơn một chút nào nữa. Một thanh chắn vô hình cản nó lại. Hết lần này đến lần khác, Billy cố trượt bàn chân về trước, nhưung chúng đụng phải một bức tường rắn... không có gì cả. Không thể nào ra tới được cửa trước. Nó cố đẩy hai tay qua thanh chắn vô hình, nhưng cứ như đẩy phải một bức tường sắt vậy.
Billy lùi lại và ngồi lên chiếc ghế cạnh cái tủ trống không. Nó không thể tin nổi điều đang xảy ra. Nó băn khoăn tự hỏi, nếu nó chờ vài phút nữa thì liệu thanh chắn ma quái kia có niến đi hay không.
Khi nhìn dáo dác quanh hành lang, nó nhận thấy không có áo khoác treo trê các mắc dựng ở ngoài hành lang, không có nón trên mắc, không có ba-toong, không có dù, không có ủng hoặc túi xách được nhét dưới khoảng không của mắc. Hầu như không có ai sống trong Ngôi nhà Bất Chợt này. Và rồi, Billy chợt nhẩna một cái gì đó màu đên ỏ dưới chận mắc áo.
Nó đứng dậy và đến xem. Đó là một con mèo nhỏ xíu, mõm xám và đuôi ốm tong. Cuối cùng, đã có cái cho billy nói chuyện với. Nó quì xuống cạnh sinh vật bé nhỏ và nói:
“Chào! Ta là Billy. Ta đến sống ở đây.”
“Chào mừng Billy,” con mèo nói bằng giọng yếu ớt. “Tôi là Vuốt Sắc. về phần tôi, tôi rất vui vì cậu ở đấy, nhưung với cậu, tôi rất lấy làm tiếc.”