Thiết Cước Đường vội cười cười, giải thích với hai người Vi Tô:” Lục đệ nói là buổi tối hôm mà lão tam chết, đã từng nói với hắn rằng hôm sau muốn quay lại ngôi làng kia xem sao. Lục đệ luôn nghĩ ngôi làng kia có gì đó cổ quái, nhưng chúng ta đã tới đó, không có gì dị thường. Có lẽ là lục đệ hiểu sai ý của lão tam.”
Vi Trường Ca nhìn về phía Vô Thị Phi như nhận ra điều gì. Vô Thị Phi nhếch môi, nắm chặt tay, vẻ mặt không phục, quật cường nhìn lại.
Vi Trường Ca hòa nhã cười với hắn, nói: “Có thật tam ca ngươi nói muốn quay về ngôi làng kia không?”
Vô Thị Phi càng thêm tức giận, nhưng không trả lời, chỉ nghiêng đầu đi.
Vi Trường Ca dở khóc dở cười, liền nghe Tô Vọng Ngôn ở bên cạnh cười nói: “Nếu hắn nói như vậy, vậy quả thật Hoa tam gia từng có quyết định này.”
Mấy người Lục Sửu đều im lặng.
Rồi sau đó Thiết Cước Đường mới ậm ừ nói: “Không phải là chúng ta không tin lời lục đệ, có điều chúng ta đã tới ngôi làng đó, quả thực không có gì cả! Chỉ là một thôn xóm bình thường mà thôi!”
Vô Thị Phi kích động quay về phía hắn, khoa tay múa chân.
Thiết Cước Đường bất đắc dĩ nói: “Dù là lão tam có thực sự muốn quay về ngôi làng đó xem thì sao? Lục đệ, không phải là tự đệ cũng đã đích thân tới đó sao?”
Dạ Minh Sinh cũng nói: “Không phải sao? Hay là tam ca làm rơi đồ ở đó, muốn đi nhặt lại.”
Vô Thị Phi tức giận bĩu môi, vẫn liên tục tranh cãi như trước. Mấy người cứ nói qua nói lại, như là hoàn toàn quên mất họ đang làm khách ở Thiên Hạ bảo, có thể thấy được là bình thường cũng cứ có vấn đề là lại tranh cãi. Vi Trường Ca và Tô Vọng Ngôn nhìn nhau cười, đều thấy bất đắc dĩ.
Lại nghe Thiết Cước Đường đột nhiên lớn tiếng nói: “Dọn đi thì sao? Quả phụ tái giá, đó là thiên kinh địa nghĩa! Nếu chồng nàng ta đã chết, thì nàng ta thích gả cho ai thì gả! Việc gì phải e ngại ngươi?”
Dạ Minh Sinh ở bên cạnh kỳ quái nói: “Lục đệ, đệ quên rồi à? Nhị tẩu không phải là qua một đời chồng rồi mới tái giá với nhị ca sao? Đệ đừng nói chuyện này chọc nhị ca giận.”
Vi Tô hai người không biết vì sao hắn đột nhiên nổi giận, lúc này mới hiểu ra.
Vô Thị Phi bị Thiết Cước Đường quát như thế, không “nói” gì nữa, ủy khuất ngồi xuống. Thiết Cước Đường như là còn chưa nguôi cơn giận, lườm hắn thở hồng hộc. Chỉ nghe “Ầm” một tiếng, Ách Cầm Tẩu đặt mạnh cây hồ cầm trong lòng xuống bàn, sắc mặt đen sì, ánh mắt chậm rãi đảo qua các huynh đệ, nén giận làm mấy động tác. Mấy người còn lại đều yên lặng cúi đầu, xấu hổ không thôi.
Vi Trường Ca nhìn về phía Tô Vọng Ngôn.
Tô Vọng Ngôn thấp giọng nói: “Ách Cầm Tẩu nói, thi cốt của Hoa tam gia còn chưa lạnh, thù lớn chưa trả được, mà huynh đệ bọn họ lại ở đây cãi nhau, hỏi bọn họ như thế có làm Hoa tam gia thất vọng không.” Rồi nói với Lục Sửu: “Các vị không cần tranh cãi nữa, mặc kệ ngôi làng đó có cổ quái hay không, chuyện của Hoa tam gia, ta và Vi Trường Ca nhất định sẽ cố hết sức, các vị không cần lo lắng.”
Ách Cầm Tẩu cảm động vái lạy, mấy người Thiết Cước Đường, Lão Lai Tử cũng đều nghiêm nghị đứng dậy, đồng lọat hạ bái.
Thiết Cước Đường nói: “Huynh đệ chúng ta ở đây tạ ơn Vi bảo chủ và Tô công tử, aii, chỉ mong Tam đệ trên trời có thiêng có thể sớm ngày nhắm mắt!”
Vi Trường Ca mỉm cười: “Khi lão bảo chủ còn sống, các vị cũng đã là khách quen ở Thiên Hạ bảo, cần gì phải khách khí với Trường Ca?”
Tất cả đều vui mừng đứng dậy.
Lại nói tới chuyện cũ, không biết là ai khởi xướng, mọi người dần dần nói tới một vài chuyện xưa, từ phong thái hiên ngang của lão bảo chủ năm xưa, cho tới sự tồn tại của thọ yến mùng bảy tháng bảy, rồi dần dà sang chuyện mấy huynh đệ quen nhau thế nào, kết nghĩa ra sao. Nói tới chỗ vui vẻ, Lục Sửu có người thì lớn tiếng cười nói, có người thì khoa tay múa chân, mỗi người đều vui tới quên hết mọi thứ, cực kỳ náo nhiệt.
Vi Trường Ca nghe tới mất kiên nhẫn, không nhịn được ngáp một cái, quay đầu sang nhìn, thì thấy khóe miệng Tô Vọng Ngôn mỉm cười, đang nghe rất chăm chú.
Vi Trường Ca giật giật môi, cuối cùng vẫn ngồi thẳng dậy, tiếp tục nghe Lục Sửu kể từ cổ chí kim.
Dạ Minh Sinh nói đầy hăng hái: “Sau đó ngươi dùng cái tên Thiết Cước Đường này, đại ca thì gọi là Ách Cầm Tẩu, lục đệ không nghe thị phi cũng không nói thị phi, gọi là Vô Thị Phi, còn ta đây, ta là một người mù, ha ha, nhưng người mù ban đêm còn nhìn rõ hơn cả người thường, ta không gọi là Dạ Minh Sinh thì còn gọi là gì nữa?”
Vi Trường Ca nghe thấy không thú vị, thuận miệng cười hỏi: “Vậy Hoa tam gia vì sao lại đặt tên như vậy?”
Trong phòng nhất thời yên tĩnh.
Miệng Lục Sửu đều ngậm chặt, không chỉ vậy, ngay đến động tác cũng chùng hẳn xuống.
Vi Trường Ca ngẩn người, cũng thấy trong đó tất có điều cổ quái, nhưng cũng có chút xấu hổ, đang muốn nói gì đó, thì đã nghe Tô Vọng Ngôn truy hỏi: “Không sai, vì sao gọi là Hoa hòa thượng? Nói mới nhớ, tại hạ cũng chưa từng nghe nói Hoa tam gia có chỗ nào khuyết tật? Hắn tứ chi kiện toàn, cũng không câm điếc, vì sao lại ở trong Lục Sửu?”
Khi cậu nói những lời này, bầu không khí trong phòng nhất thời càng trở nên đầy áp lực.
Hơn nửa buổi, mấy người kia cũng chỉ nhìn nhau, không ai nói gì.
Vi Trường Ca ngầm suy tính, cười nói: “Nếu không tiện nói ra thì thôi…” Nét mặt Lục Sửu đều thả lỏng, Tô Vọng Ngôn vội liếc mắt sang, Vi Trường Ca chỉ coi như không thấy, nói tiếp: “Các vị giao phó chuyện của tam gia cho Vọng ngôn và tại hạ, Trường Ca còn tưởng hai chúng ta được các vị tin tưởng, không ngờ…. mà thôi, coi như chúng ta chưa từng hỏi đi!”
Tô Vọng Ngôn kín đáo cười.
Lục Sửu xấu hổ nhìn nhau.
Lát sau, Dạ Minh Sinh nói: “Dù sao lão tam cũng đã mất, theo ta thấy, cũng không có gì không thể nói nữa…”
Thiết Cước Đường và Vô Thị Phi chỉ nhìn Ách Cầm Tẩu.
Rốt cuộc Ách Cầm Tẩu thở dài, chậm rãi gật đầu.
Thiết Cước Đường mấp máy môi mấy lần, định nói lại thôi, cuối cùng mới nói: “Lão tam… Lão tam hắn… hắn có một bệnh nho nhỏ… Nói đến chuyện này, vốn không định nói cho người khác, có điều, dù sao lão tam cũng đã mất, nói cho Vi bảo chủ và Tô công tử nghe một chút, có lẽ cũng không sao. Lão tam hắn… hắn…”
Dừng một chút, ánh mắt chuyển sang phía những người khác, nhưng họ đều quay đầu né tránh.
Thiết Cước Đường không thể làm gì khác đành thấp giọng nói: “Lão tam không thể nhân đạo.” (làm chuyện ấy)
Vi Tô hai người đều hoạt kê, tất cả đều không ngờ rằng Hoa hòa thượng tên là ‘Hoa hòa thượng’, mà lại có căn bệnh không tiện nói ra như vậy.
(Hoa hoa thượng tức là Sư phá giới)
Thiết Cước Đường nói: “Lão tam là một nam nhân, việc này nếu bị người khác biết thì còn đâu mặt mũi hành tẩu trên giang hồ? Vậy nên huynh đệ chúng ta cũng chỉ tự xưng là Lục Sửu, còn bệnh này của lão tam chưa từng nói cho bất cứ ai. hắc hắc. Giang Đông Lục Sửu có tiếng là ngang ngược vô lý, bình thường cũng không có ai dám tới hỏi, mà dù có một hai người không hiểu chuyện như vậy thì cũng bị huynh đệ chúng ta mỗi người một đấm đuổi đi thật xa…”
Nói tới đây, lại đột ngột cắt đứt.
Vi Trường Ca đành cười khan một tiếng.
Thiết Cước Đường tự biết không thích hợp, nhất thời không thể nói cho hết, đành ha ha một tiếng, rồi đổi chủ đề: “Kỳ thực lão tam có bệnh đó, cũng không phải là bị từ nhỏ, không giống với các huynh đệ chúng ta. Theo lời hắn nói, hắn vốn cũng giống như nam nhân bình thường, chỉ là sau đó mới… mới không được.”
Tô Vọng Ngôn vốn tính tò mò, nghe hắn nói thế, liền định truy hỏi, vừa mới mở miệng, lại cảm thấy không hay cho lắm, nên vội nâng chén trà lên uống một ngụm.
Cũng may Thiết Cước Đường đã nói tiếp: “Khi lão tam còn trẻ, gặp một nữ tử, vừa gặp mặt, đúng là kinh vi thiên nhân! Mặc dù hắn một lòng cuồng dại, nhưng hoa rơi hữu ý, nước chảy vô tình. Cuối cùng nàng kia vẫn là dứt áo ra đi, từ đó về sau nam bắc cách biệt, cũng không gặp lại nhau nữa. Lão tam tuy không có được nàng, nhưng ba mươi năm nay không có một giây phút nào không nhớ tới, những nữ tử khác dù là tiểu thư khuê các hay là cành vàng lá ngọc thế nào hắn đều không để vào mắt — Cũng vì vậy nên mới mắc phải căn bệnh kia. Khi hắn phát hiện ra mình không được, rất sợ người khác biết được bí mật này, cho nên mới cố ý lui tới những chỗ trăng hoa, làm ra vài hành vi phóng đãng, kỳ thực chỉ là muốn che mắt người khác mà thôi. Có điều trong chốn giang hồ ai lại nghĩ được sâu xa như thế? Hắn tự xưng là ‘Hoa hoà thượng’, người ngoài nghe được đều cho rằng trước đây khi hắn còn làm hoà thượng thì ham mê nữ sắc. Lại không biết bởi vì họ tục gia của hắn là Hoa, ý tứ của lão tam là nói mấy năm nay, kỳ thực hắn vẫn sống những ngày như hoà thượng — aii, kể ra thì, lão tam coi như là một người si tình!”
Hắn kể hết lời rồi, tất cả mọi người đều lặng yên, nhớ tới cuộc đời cô độc, lưng đeo một chữ ‘Hoa’ của người đó, thâm tâm mãi mãi chỉ có một hình bóng, rốt cuộc là đáng thương hay đang tiếc? — trong lòng cũng không biết là cảm giác gì.
Vi Trường Ca khe khẽ thở dài.
– thời khắc đó, nơi chốn đó, ánh mắt đó.
Quay đầu ngoái lại nhoẻn miệng nheo mắt cười, hình ảnh thướt tha từ đó về sau in sâu dưới đáy lòng. Năm xưa trộm nhìn, tình như liên hoàn, dần dần khung cảnh sự vật đều tàn phai màu sắc, trải qua nhiều lần sinh ly tử biệt, cuối cùng thời gian trôi qua, đáy lòng tĩnh mịch, lại chỉ còn thời khắc đó, bóng hình xinh đẹp đó, lại chỉ có một nữ tử đến từ hư vô, như là phong thái năm xưa…
“Không biết là người con gái như thế nào, mà khiến hắn nhớ nhung cả đời? Kinh vi thiên nhân, kinh vi thiên nhân — ắt hẳn phải là phong hoa tuyệt đại…”
Vi Trường Ca thở dài, có chút cảm khái.
(Đoạn trên chắc là tưởng tượng của anh = . =)
Tô Vọng Ngôn quét mắt nhìn y một cái, nói thản nhiên: “Đương nhiên là cực kỳ diễm lệ, không tâm thường rồi — chỉ hận ta và ngươi không có cái duyên phận đó mà thôi.”
Dạ Minh Sinh nói tiếp: “Có thể không tầm thường sao? Có điều lão nhị ngươi nói sai rồi — ngươi biết vì sao lão tam không thể có được nàng kia không? Hừ, nói cho ngươi biết, nữ tử đó vốn là người đã có chồng rồi, tam ca hắn tới chậm một bước, chỉ có thể ôm hận suốt đời thôi.” Than khẽ một tiếng, trầm ngâm nói: “Đó là ‘Trả minh châu, lệ đôi hàng, Hận sao không gặp cùng chàng thuở xưa’…”
(Trích ‘Tiết phụ ngâm’ – Trương Tịch do Hoàng Nguyên Chương dịch)
Thiết Cước Đường xua tay nói: “Làm sao ngươi biết được? Cái gì mà minh châu với chả minh chai, ta không hiểu mấy thứ vớ vẩn đấy! Năm đó lão tam đứng bên Hán Thuỷ lẩm bẩm, ta ở bên cạnh nghe được hết, hắn nói không phải là cô ả trong Phi Thương lâu ở Dương Châu sao?”
Dạ Minh Sinh cười lạnh: “Son phấn dung tục, làm sao xứng được với bốn chữ ‘Kinh vi thiên nhân’? — chuyện cũ này của tam ca, trên đời chỉ có mình ta biết. Đó là một buổi tối mấy chục năm trước, ta và tam ca cùng nhau uống rượu, sau khi hắn say, thì mới kể chuyện này cho ta. Tam ca vốn là một cô nhi, từ nhỏ được sư thầy trong Thiếu Lâm tự nuôi dưỡng, rồi vào phái Thiếu Lâm, làm hoà thượng. Tới khi trưởng thành, cũng là một lòng hướng phật, cực kỳ thành kính. Ba mươi năm trước, hắn chỉ mới vừa hai mươi, để tham ngộ phật pháp, mới một mình hành hương tới thánh sơn của phật giáo, muốn bế quan tham thiền ở Vạn Phong đỉnh. Ngọn núi đó thế cao chót vót, đường chưa mở, nằm giữa núi non trùng điệp, trải qua năm tháng chỉ có vài đường nhỏ do tiều phu đi lâu mà thành, rất khó đi, phải dùng cả tay và chân thì mới có thể leo lên được, hơn nữa nếu bất cẩn một chút thôi sẽ có thể bị rơi xuống núi.
Khi đó tam ca còn trẻ tuổi sung sức, lại biết võ công, nên đương nhiên lên núi dễ hơn nhiều người thường, dù vậy hắn đi lên xong cũng vừa mệt vừa khát, toàn thân đầy mồ hôi. Đến hoàng hôn thì tới được một ngôi chùa cổ hoang phế trên sườn núi, đã mệt tới không nhấc nổi chân nữa, liền vào trong, ngồi nghỉ chân ở hành lang sau cửa chùa. Đột nhiên, từ sâu trong chùa truyền tới tiếng đàn, vang vọng du dương, làm cho tinh thần không khỏi rung lên. Tam ca nhắm mắt nghe một lúc, liền nghi hoặc đứng dậy — nơi núi rừng hoang vu, một ngôi chùa cổ rách nát mà lại có người ở sao? Lần theo tiếng đàn, tới một cái sân trống trải, giữa đám cỏ dại có một cái ao vuông vắn tầm ba trượng. Nữ tử đó, an vị trên bờ ao.
Khi đó là hoàng hôn, trên đỉnh núi, bóng chiều nghiêng nghiêng. Nàng kia trang phục trắng giản dị, ngồi nghiêm trang. Dưới ánh nắng chiều, quả thực là xinh đẹp vô cùng!…”
Dạ Minh Sinh mở to đôi mắt trống rỗng, như là khoảnh khắc đó, hắn cũng nhìn thấy gương mặt của mỹ nhân kia hiện lên từ chính lời kể của mình –
“Tam ca nói, lúc hắn vừa thấy nữ tử đó, tam hồn lục phách như là bị sét đánh xẻ làm đôi, đến bản thân mình là ai cũng không còn biết nữa.”
Một tia nắng len qua khe cửa tiến vào, giống một tầng bạch kim trải trên mặt đất. Nhất thời, gần như tất cả đều cúi đầu nhìn đường sáng đó, như thể nó chính là nắng chiều của ba mươi năm trước trên đỉnh núi Nga Mi.
“Không biết qua bao lâu, tiếng đàn lại vang lên. Hắn giật mình bừng tỉnh, nhìn khắp xung quanh, tiếng đàn đó đến từ đáy ao sao? Đang ngạc nhiên, liền nghe nàng kia nói: ‘Đó là tiếng ếch dưới đáy ao,’
Lúc này hắn mới nhìn sang, hoá ra bên cạnh nữ tử đó còn có hai người con trai đi theo — lớn là bé trai khoảng bảy tám tuổi, nhỏ là một bé gái không quá bốn năm tuổi, đang ngồi xổm chơi đùa bên cạnh nàng kia, mà nàng là một nữ tử yếu đuối thướt tha, còn mang theo hai con, làm thế nào mà lên được tới lưng chừng núi này? Tam ca là người thẳng tính, kinh ngạc một lúc, liền đi tới hỏi. Nàng đó chỉ trả lời là người Xuyên Trung, không lâu trước kia phải lên phía đông bắc, lần này là về quê thăm nhà. Đang khi nói chuyện, tiếng đàn lại vang lên, tam ca nửa tin nửa ngờ cúi đầu nhìn vào trong ao, quả nhiên có vài con ếch đang ngồi xổm trên tảng đá, ngửa đầu kêu vang, tiếng đàn đó phát ra từ miệng mấy con ếch nọ!”
Tô Vọng Ngôn khẽ ‘A’ một tiếng, nói: “Nơi đó là núi Nga Mi, vậy ao đó chính là Bạch Thuỷ Trì trong Bạch Thuỷ Tự rồi!”
Dạ Minh Sinh dừng lại, quay đầu về phía bên này: “Chuyện này tam ca không nói với ta… Trên đời thật sự có loài ếch kêu như tiếng đàn sao?”
Tô Vọng Ngôn cười nói: “Không sai, loài ếch đó gọi là Đạn Cầm Oa (Ếch gảy đàn), trong thiên hạ cũng chỉ có trong Bạch Thuỷ Trì trên núi Nga Mi mới có –
Nhà sư ôm một cây đàn,
Từ Nga Mi xuống, đi sang nơi này.
Vì ta một bận vẫy tay,
Dường như muôn suối vang đầy tiếng thông.
“Nước trôi” rửa sạch cõi lòng,
Dư âm hòa lặn tiếng chuông sương mờ.
Núi xanh chiều xuống không ngờ,
Tối tăm bốn phía mây thu chập chùng.
(“Thính Thục tăng Tuấn đàn cầm” của Lý Bạch – Trần Trọng San dịch)
Tương truyền năm xưa nhà sư đất Thục giỏi đàn, Lý Bạch nghe xong liền làm bài thơ này để tặng, vì vậy đôi bên thành tri kỷ, kết mối giao tình Bá Nha Tử Kỳ. Sau đó Thục tăng viên tịch, Lý Bạch cảm niện, thở dài trước linh đường: từ nay về sau, không gặp được tri âm tri kỷ trong âm nhạc nữa, cũng không còn ai đánh đàn cho ta nữa. Kết quả hôm đó liền mơ thấy Thục tăng về, nói rằng, trên đời này khó tìm được tri âm, huynh lại yêu tiếng đàn của ta, vậy hoàng hôn ngày mai xin hãy đúng hẹn tới đây, ta lại gảy đàn cho huynh nghe. Hôm sau Lý Bạch lại tới, quả nhiên nghe thấy tiếng đàn, giống như là Thục tăng vẫn còn trên đời, kiểm tra tỉ mỉ mới phát hiện hoá ra là tiếng ếch kêu trong Bạch Thuỷ Trì… Ta từng đi qua vài lần, Bạch Thuỷ Tự đấy là một mảnh hoang phế, nhưng nước bạc trăng thu, nghe đàn dưới trăng, thực ra cũng có một sự vui thích khác lạ.”
Cậu ngẩng đầu, mỉm cười, gương mặt hiện lên vẻ hoài niệm.
Vi Trường Ca không nhịn được cười: “Ngươi làm gì mà đi qua nơi tuyệt vời như thế? Lại không gọi ta đi cùng!”
Tô Vọng Ngôn cười liếc y một cái, như là có chút đắc ý, nhưng lại quay sang nói với Dạ Minh Sinh: “Sau đó thì sao?
“Tam ca quay đầu lại, nữ nhân đó vẫn đang chăm chú nghe, lại nhìn hai đứa bé, không quấy khóc gì, ca ca mang muội muội ngoan ngoãn ngồi một bên nhặt đá chơi. Nữ tử kia thấy hắn nhìn hai đứa nhỏ, liền cười nói: ‘Đây là hai con của ta.’ thở dài một cái, lại có chút buồn vô cớ, nói: ‘Lần này đi, cũng không biết tới ngày tháng năm nào mới có thể quay lại, vậy nên ta đặc biệt dẫn chúng tới đây xem Đạn Cầm Oa này.’
Tam ca nghe thấy trong lời nàng nói đượm vẻ thê lương, không như nỗi buồn xa quê bình thường, liền đánh bạo hỏi: ‘Trong nhà phu nhân có việc ư?’
Nàng kia lặng lẽ một hồi, trả lời: ‘Phu quân ta vừa chết bệnh.’
Tam ca chấn động, hàm hồ nói mấy câu an ủi, như là nén bi thương, người chết không thể sống lại gì gì đó.
Qua một lúc, sắc trời tối dần, nửa vầng trăng khuyết lộ ra chút mép bạc sau cánh rừng. Nữ tử kia như bừng tỉnh giấc mộng, bỗng đứng dậy, gọi tên hai đứa con, đôi huynh muội đó ngoan ngoãn chạy tới. Nàng nói tạm biệt tam ca, rồi một tay ôm con gái, một tay dắt con trai đi ra ngoài. Tam ca nghĩ trời đã tối, đường lại khó đi, vội đuổi theo muốn đưa mẹ con nàng xuống núi, nhưng nàng kia kiên trì không chịu. Tam ca liền nói: ‘Trời tối như thế, nàng lại không muốn ai đưa đi, không bằng đợi trời sáng hẵng lên đường, cũng an toàn hơn!’ “
Dạ Minh Sinh không nói tiếp, mà cảm thán: “Nhị ca, bình thường ngươi nói mười câu thì chín câu rưỡi là sai, nhưng ngươi nói tam ca là người si tình, thì câu này, ta ngược lại phục ngươi!”
Thiết Cước Đường nghe hắn nói thế, thầm thấy không hài lòng, nhưng lại sốt ruột muốn hắn kể tiếp nên cũng không cãi cọ với hắn, chỉ hừ một tiếng.
Dạ Minh Sinh lúc lắc đầu: “Lão tam nói cho ta chuyện này lúc say rượu, sau đó cũng không gạt ta nữa, mấy năm nay ta phải nghe hắn kể câu chuyện này không tới một trăm thì cũng tám mươi lần. Mỗi lần uống rượu, hắn lại kể, mỗi lần nói đến đoạn này, hắn lại bắt đầu rơi nước mắt.”
Nói đến đây, nhớ tới Hoa hoà thượng, mắt cũng đỏ ửng.
Hắn hít một hơi thật sâu, nói: “Mỗi lần tam ca nói tới đây sẽ hung hăng uống ba chén lớn, sau đó khóc lóc nói với ta: ‘Ngươi không biết, ta thật sự hối hận a! Ta hối hận cả đời, hận bản thân không giữ nàng lại! Lão tứ, ngươi biết không? Ta hối hận a! — Khi đó ta nói với nàng, trời tối rồi, để sáng hôm sau hẵng lên đường. Nàng ôm con đứng ở ngoài cửa, nghe ta nói xong liền quay đầu lại nhìn ta, nàng nói:
‘Thời đại này, thế đạo này, đi tới đâu chẳng tối tăm như nhau? Sáng hôm sau, nhưng trời này còn có thể sáng sao?’ Nàng đứng đó, vẻ mặt rõ ràng chính là bốn chữ đau đớn bi thương! Ta nhất thời giật mình, tới khi phục hội tinh thần thì chung quanh đã tối om, không còn thấy bóng dáng mẫu tử nàng đâu nữa’…
– Đáng tiếc lần đó gặp mặt, tam ca rốt cuộc không thể quên nữ tử đó nữa. Hắn biết mình không qua nổi cửa tình, về sau liền rời Thiếu Lâm, tìm kiếm khắp nơi, nhưng nhiều năm trôi qua vẫn bặt vô âm tín, như là ba mẹ con đó đã bốc hơi từ sau buổi tối kia. Mãi đến mấy năm gần đây, hắn biết vô vọng, tâm tư đó mới dần phai nhạt.”
“Có thật là Hoa tam gia chưa từng gặp lại nữ tử đó không?”
“Sao lại không thể?! Vốn hắn nghĩ, muốn tìm ba mẹ con đó cũng không phải việc khó, vì sao sau đó lại biến thành tình thế tiến thoái lưỡng nan?”
Dạ Minh Sinh tấm tắc than thở.
Tô Vọng Ngôn nghi ngờ hỏi: “Biển người mênh mông, muốn tìm một nữ tử vô danh giống như là đáy biển mò kim, sao lại không phải việc khó?”
Dạ Minh Sinh vỗ đùi, nói: “Lạ chính là ở chỗ đó! Sau khi nữ nhân đó đưa hài tử rời đi, tam ca quay lại bên ao, trong lúc vô ý thấy được trong bụi cỏ mà hai đứa bé chơi đùa có vật gì đó phản xạ ánh trăng, hắn nhìn kỹ lại, lúc đó mới phát hiện — hoá ra hai huynh muội đó nhặt đá chơi, tất cả đều là ngọc trai! Mỗi một viên sợ là đều to bằng ngón cái, chừng vài chục viên như vậy, mà cứ thế vứt lại trong bụi cỏ!”
“Ngày xưa có Hàn Yên dùng vàng làm đạn, bắn rơi chim tước, ngày nay, lại có hai đứa bé chơi đùa bằng ngọc trai, kể cũng không khiến thiếu niên Ngũ Lăng thấy cô đơn. ” Vi Trường Ca nói, cười nhàn nhạt: “Có điều Hàn Yên được Hán Vũ sủng ái, ban cho nhiều thứ, mới bắt chước Đặng Thông, có hành động như thế. Mẫu tử mấy người này không biết là lai lịch thế nào, lại còn vượt xa cả Hàn Yên Đặng Thông!”
Tô Vọng Ngôn nói: “Coi tiền như rác, vậy ắt hẳn là thiên kim ăn chơi, có lẽ không phải nhà giàu thì cũng là thương gia thôi!”
Dạ Minh Sinh lại hỏi: “Xin hỏi đại công tử, như vậy có được mấy nhà?”
Tô Vọng Ngôn trả lời: “Dòng họ giàu có làm buôn bán có rất nhiều, nhưng những nhà đó thường là càng có tiền lại càng giữ chặt. Kiểu không coi tiền ra gì như thế có lẽ chỉ có một hai phần mười mà thôi.” Hơi trầm ngâm một lúc, lại nói: “Nếu là người trong võ lâm, vậy chỉ có Thiên Hạ bảo, Giang Nam diêm bang, Tái Bắc mục tràng, Nam Hải giao vương, cùng một vài thế gia nổi danh nữa mà thôi. Nếu đều không phải, thì ắt là xuất thân từ nhà quan lại rồi.”
Thiết Cước Đường chen lời: “Nói như vậy hẳn là phải dễ tìm mới đúng a? — nữ tử đó là người Xuyên Trung, xuất thân giàu có, rời tới Đông Bắc, có hai con, lại là quả phụ — đem những điều kiện này gộp lại, người phù hợp chắc đếm không quá mười đầu ngón tay, dù tìm từng bước từng bước một, cũng không cần tới một năm là tìm được rồi.”
Dạ Minh Sinh cười lạnh: “Nếu thực sự dễ dàng vậy thì đã tốt. Tam ca mong nhớ ngày đêm ba mươi năm, lẽ nào chỉ có một chút như thế mà không nghĩ ra sao? Nói đến đây ta cũng không gạt mọi người nữa, năm xưa lão tam đến Đường môn cũng xông vào rồi! Chính là vẫn không thấy, ba mươi năm nay, một chút tin tức cũng không có.”
Mọi người nhìn nhau ngơ ngác.
Thiết Cước Đường lẩm bẩm: “Vì tìm nàng ta mà lão tam dám vào cả Đường môn, lẽ nào thực sự không cần mạng nữa sao…”
Qua một lúc sau, Vi Trường Ca mới trầm ngâm: “Đến không để lời đi không in dấu, lại cách Bồng Sơn cả vạn trùng … — nàng kia xuất chúng như vậy, nhẽ ra phải rất dễ tìm mới đúng, Hoa tam gia tìm nhiều năm như vậy, sao lại vẫn bặt vô âm tín?”
Dạ Minh Sinh lắc đầu không đáp.
Tô Vọng Ngôn cười: “Biển người mênh mông, cùng trời cuối đất, muốn tìm một người đâu dễ như vậy? Dù là người muốn tìm chỉ cách một bức tường thì cũng làm sao biết được?”
Vi Trường Ca ngơ ngác hồi lâu.
Rốt cuộc cười, nói: “Không sai. . .”
Lại hỏi: “Vọng Ngôn, ngươi không cảm thấy lời nữ tử đó nói có chút cổ quái sao?”
Tô Vọng Ngôn gật đầu nói: “Ừm, nàng nói thế đạo tăm tối, nghe như là bị oan ức gì đó mà không có nơi kêu.”
Vi Trường Ca than thở: “Một nữ tử xuất chúng như thế, thật không biết có điều gì oan khuất đến mức phải nói lời này…”
“Chuyện này Hoa tam gia suy nghĩ ba mươi năm vẫn chưa hiểu, chúng ta chỉ qua vài câu chuyện phiếm làm sao mà làm rõ được?” Đã gần giữa trưa, Tô Vọng Ngôn đứng dậy cười nói: “Chuyện của Hoa tam gia, chúng ta nhất định sẽ cố hết sức, bất kể điều tra ra được manh mối gì đều nhất định sẽ dùng khoái mã báo tin cho các vị, xin yên tâm!”
Lục Sửu hiểu ý, đồng thời đứng dậy cáo từ.
Vi Tô hai người tiễn Lục Sửu tới sảnh, Lục Sửu lại nói lời cảm ơn, lúc này mới đi ra cửa. Vô Thị Phi nấn ná đi ở cuối, thỉnh thoảng quay lại nhìn Tô Vọng Ngôn.
Tô Vọng Ngôn đi tới, khẽ hỏi: “Ngươi có việc muốn nói với ta sao?”
Vô Thị Phi gật đầu thật mạnh, lại quay đầu nhìn mấy huynh đệ phía trước. Tô Vọng Ngôn xoay người lại liếc Vi Trường Ca một cái, Vi Trường Ca hiểu ý, gật nhẹ đầu, rồi bước nhanh qua đám người Lục Sửu, nói vài câu hàn huyên, cùng đi phía trước. Tô Vọng Ngôn cúi đầu nhìn Vô Thị Phi, mỉm cười : “Được rồi, mấy huynh đệ của ngươi sẽ chờ ngươi ở cửa, ngươi có chuyện gì muốn nói với ta sao?”
Vô Thị Phi cười nao núng, “nói”: “Ta nói với đại ca, nhị ca, bọn họ không tin, nói ta nghĩ nhiều — ngôi làng đó thực sự cổ quái!”
Tô Vọng Ngôn nói: “Làng đó làm sao?”
Vô Thị Phi không ngừng khoa tay múa chân, “nói”: “Ngôi làng đó có một quả phụ vừa chuyển đi.” Thấy vẻ mặt Tô Vọng Ngôn không hiểu, lại tiếp: “Nơi chúng ta tránh mưa chính là dưới mái hiên của quả phụ đó. Nhưng sau khi tam ca mất, ta đưa đại ca và mọi người tới, thì quả phụ đó đã dọn đi rồi.”
Tô Vọng Ngôn trầm ngâm: “Chính là quả phụ tái giá mà Đường nhị gia nói đó sao? Nhà bình thường chồng chết vợ tái giá cũng là chuyện thường, có lẽ là trùng hợp…”
Vô Thị Phi có chút sốt ruột, liên tục lắc đầu, vội vàng “nói: “Tam ca có nói chuyện với nữ nhân đó!”
Tô Vọng Ngôn ngẩn ra, lại cũng dùng cử chỉ để hỏi: “Họ nói gì?”
Vô Thị Phi “nói”: “Tam ca muốn ta đi trước, nói hắn có chuyện muốn hỏi quả phụ kia, cách xa quá, tam ca lại đưa lưng về phía ta, ta không biết họ nói gì… Có điều quả phụ kia nghe tam ca nói xong sắc mặt liền thay đổi, gần như là kinh hoàng thất thố. Hình như nàng nói câu gì đó như là ‘Đó là con ta’, rồi lại nói lộn xộn ‘Ta không biết, ta không biết’, rồi tông cửa chạy vào trong — cách xa quá, ta cũng không thấy rõ…”
Hắn vừa kể, lơ đãng thấy sắc mặt Tô Vọng Ngôn, lại càng hoảng sợ, nhất thời ngừng lại.
Tô Vọng Ngôn đứng ngây ra, lông mày nhíu chặt, suy nghĩ một lúc, lại truy hỏi: “Nàng ta còn nói gì nữa?”
“. . . Không có gì. . . Nàng chỉ không ngừng nói không biết thôi…”
“Quả phụ kia có phải là khoảng chừng hai tám hai chín, mặc áo hồng, váy trắng ánh trăng, mắt phượng mày ngài, cũng có vài phần tư sắc?”
Cậu hỏi một câu, Vô Thị Phi gật đầu một cái, cậu hỏi xong, rồi khẽ thở dài: “Hoá ra là nàng sao…”
Vô Thị Phi nhìn cậu vẻ không hiểu.
Trong mắt Tô Vong Ngôn xẹt qua vẻ miễn cưỡng, cuối cùng hỏi: “Quả phụ kia có phải họ Cố, mọi người gọi nàng là Cố đại tẩu hay không?”
Vô Thị Phi kinh ngạc há hốc miệng.
Nhưng Tô Vọng Ngôn lại chỉ là cười yếu ớt.