Tôi cùng bố đến tòa nhà Quảng Hà để xem diễn hí vì nghe nói một trong những diễn viên được chào đón nhất sẽ diễn vở ‘Quý Phi Say Rượu’. Người đam mê cuồng nhiệt như bố tôi tất nhiên sẽ không thể nào bỏ qua dịp này. Em họ bị cảm gió nằm liệt giường, mẹ tôi thì không có hứng thú với kinh kịch, vì thế chỉ có hai người bọn tôi đi. Anh tôi từ ngày hôm đó không ra khỏi phòng, không phải vì không muốn, mà là đi không được.
Đêm đông rất lạnh, tôi quấn chặt lấy chiếc áo len, sờ tay lên tóc. Tóc tôi cứng đờ, dựng đứng như sắp bị gió đêm đóng băng thành gai lạnh. Em họ đã từng hỏi tôi: Sao anh hiền lành như vậy mà cứ để quả đầu lông bông chĩa lên trời thế? Tôi trả lời: Anh lười chống đối lắm em, vậy nên đây là pha nổi loạn duy nhất của đời anh.
Dưới ánh đèn mờ ảo, một chiếc xe tải chạy nhanh như bay, giống như chỉ cần chạy chậm chút là sẽ bị dòng sông lớn nuốt trọn vậy. Ánh trăng nhoáng lên một cái, phản chiếu lên những cặp đùi bóng loáng của mấy cô vợ bé. Thời đại này, chỉ có những bắp đùi ấy mới không nghe hiểu tiếng chuông tang vang vọng, vẫn dương dương tự đắc phát sáng lấp lánh không ngừng.
Chúng tôi vừa đến cửa trước của tòa nhà Quảng Hà thì bị chặn lại. Tiểu nhị thấy bố tôi mặc áo lụa dài, tay cầm cây gậy gỗ đàn hương sơn son thếp vàng, không dám xúc phạm nên đành chua chát nói: “Thưa tiên sinh, xin lỗi nhưng hiện tại nhà hát đã chật cứng các chiến sĩ rồi. Có vị tướng nói rằng ngài ấy muốn để anh em thư giãn một phen nên đã đặt chỗ từ lâu, người ngoài không được phép vào.”
Bố tôi giận tím mặt, cây gậy đập xuống đất cộp một tiếng: “Bây giờ đã là thời đại nào rồi? Chẳng lẽ vẫn còn muốn học theo lũ quân phiệt chuyên quyền, để lũ cấp dưới được hưởng lộc ăn chơi đàn đúm sao? Hôm nay ta chắc chắn giải quyết chuyện này, mau đi gọi ông chủ của mấy người ra đây.”
Tiểu nhị hoảng sợ, vội vàng xin lỗi, nói rằng ông chủ đang bận nói chuyện với sĩ quan, không thể đi ra ngoài được. Tôi dựa vào vóc dáng cao lớn, nhìn qua đỉnh đầu của tiểu nhị hướng về chỗ ồn ào náo nhiệt. Bên trong, ai nấy cũng đều đang mặc quân phục của đảng Quốc dân, thắt lưng giắt những khẩu súng sáng lóa. Có người đã uống say, có người đang cắn đậu phộng, mắt dán lấy mấy cô gái bên Phong Nguyệt Lâu gửi đến. Ở giữa sân khấu được chạm trổ tinh xảo có một gian phòng trơ trọi, nơi đó có đôi giày cao su đen bẩn của những người đàn ông đã bao năm chinh chiến.
Giữa dòng người hối hả, một giọng nói từ tính ầm ầm vang lên: “Hả? Thiết Quan Âm? Ta đến đây là để uống trà, nhà mi đưa ta gậy Quan Âm bằng sắt để làm gì, không sợ anh em bọn ta đánh mi sao? Cái gì? Nó là trà á? Nhìn lá trà có hình dạng giống Quan Âm mà không thấy sợ hả! Hả! Bích Loa Xuân*? Mùa đông uống nó làm gì, có Bích Loa Đông hay không? Mẹ nó, mi đừng dài dòng nữa, bản thiên tài lười nghe, tốt nhất là cho mỗi bàn một nồi đi.”
*Bích Loa Xuân là loại trà xanh sản xuất ở vùng núi Đông Đình, tỉnh Giang Tô, lá cuộn lại như hình xoắn ốc, nước trà có màu xanh lục, là loại trà cao cấp.
Trái tim tôi như hẫng một nhịp. Tôi vô thức nhìn sang bên trái. Một cái đầu đỏ rực nổi bật giữa đám đông, tay phải gã cầm một tách trà, ống tay áo trống không bị người người đi qua làm đung đưa. Ông chủ rạp mồ hôi nhễ nhại đang giải thích cho gã điều gì đó. Người đàn ông cao to, tóc đen đứng bên cạnh vừa nói gì đó đã bị gã đánh vào đầu, mãi vẫn không đứng dậy được, miệng nói: “Hoa Đạo… cho dù là để trả thù cho đêm qua thì ngài cũng không thể làm vậy được.” Sĩ quan tóc đỏ dựng ngược lông mày lên, tóm cổ hắn định đánh thêm lần nữa, nhưng cũng bị tiếng ồn ào bên ngoài thu hút, quay đầu nhìn qua.
“A, nhóc đầu nhím! Hạo Chi!” Gã buông tay, ném Thủy Hộ Dương Bình xuống đất, vui vẻ vẫy tay kêu to: “Là người quen của ông đây. Ta biết họ, cho bọn họ vào đi!” Tiểu nhị thở phào nhẹ nhõm, xoay người cho chúng tôi đi vào. Chỉ mới hai tuần đã gặp lại bạn cũ, bố tôi vô cùng kinh ngạc. Trong lòng ông vẫn chưa quên được chuyện của anh tôi, không tránh khỏi việc trên mặt xuất hiện vẻ khó xử. Cũng may Anh Mộc Hoa Đạo không chú ý đến, mấy người ngồi xuống lại bắt đầu hàn huyên. Thủy Hộ Dương Bình trầm mặc ngồi ở một bên.
“Hạo Chi, cũng đến xem buổi biểu diễn sao? Con ông cũng đến đây à? Thế cái đứa không nghe lời đâu rồi?”
“Ồ, ha ha…” Bố tôi cười miễn cưỡng.
Anh Mộc Hoa Đạo chợt nhận ra: “Bởi vì việc kia, nên mới bị ông nhốt trong nhà tự kiểm điểm phải không? Thanh niên trẻ tuổi, dạy dỗ chút là được, ông có mạnh tay thì cũng đừng đánh chết nó. Tên nhóc kia lòng dạ không xấu, hoàn toàn có thể trở thành một nhân tài.”
Tôi bỗng cảm thấy buồn, cho người anh đang nằm liệt giường của tôi, cho trái tim lầm lỡ yêu phải người không nên yêu của anh ấy.
“Còn ông, công việc xong hết rồi chứ?”
“Nào có? Ta phải canh gác cả ngày, một khắc cũng không thể lơ là. Ít Suất và Nguyên soái đang có chút xích mích, làm liên lụy tới cả bọn ta. Giờ đã phòng Cộng còn phải phòng cả Quân đội Trung ương nữa. Phía trên còn bắt bọn ta phải trấn áp bè lũ của Hội Cứu quốc Chống Nhật. Tầm này đúng là tránh vỏ dưa lại gặp vỏ dừa. Mấy ngày tới ông cũng hạn chế ra ngoài đi, đừng đi đâu vui chơi làm gì. Đợt trước thấy anh em căng não suốt một đoạn thời gian, nên giờ ta phải cho họ nghỉ ngơi, thư giãn một phen. ”
Lúc này, một tiếng chiêng vang lên, tấm màn được kéo ra và vở kịch đã bắt đầu. Bố tôi cau mày, bởi vì tiếng cười đùa và tiếng cụng ly trong phòng mà ông không thể nghe được vở kịch. Anh Mộc Hoa Đạo gắp một miếng thịt lớn bỏ vào miệng, mơ hồ giới thiệu với chúng tôi: “Đó là nam diễn viên diễn Dương Quý Phi say rượu, nghe nói cái quả trứng gà** đó xinh đẹp vô cùng, mà tính cách thì cũng rất cứng đầu. Người khác đi hát hí khúc, hát hát một hồi coi như thành lão thỏ*, nhưng người này thà để râu cũng không chịu, cũng may sau đó thoát nạn nên lại cạo đi.”
*Lão Thỏ: ý chỉ gay
Thủy Hộ Dương Bình ở bên cạnh nghe thấy, phun ra một ngụm trà. Hắn nhỏ giọng nói với sĩ quan tóc đỏ: “Đào**, là cô đào hát Thanh y đích.” Anh Mộc Hoa Đạo cũng nhỏ giọng hỏi lại: “Đúng rồi, không phải trứng sao? Vỏ xanh? Trứng vịt lộn à?”
** Từ đồng âm [dàn], Hoa Đạo đang bị lẫn hai chữ này.
Tôi cúi đầu cười, lần này là cười thật, chứ không phải cái kiểu mà “Tuy rằng cười, nhưng lại không nhìn ra là đang cười” mà dì Lưu nói.
Ngay sau đó Bùi Lực Sĩ cùng Cao Lực Sĩ đã bước lên sân khấu. Bùi Lực Sĩ bạch*: “Trên trời có phủ thần tiên.” Cao Lực Sĩ bạch: “Nhân gian có nhà Tể Tướng.” Bùi Lực Sĩ bạch: “Nếu muốn thật giàu có.” Cao Lực Sĩ bạch: “Trừ khi là nhà đế vương.” Hai người cùng bạch: “Mời!” Bùi Lực Sĩ bạch: “Hôm nay hoàng đế và nương nương sẽ đến yến tiệc Bách Hoa Đình, ngươi và ta phải hầu hạ cẩn thận. Khói thuốc lượn lờ, có lẽ nương nương cũng tới!” Cao Lực Sĩ bạch: “Ngươi với ta sẽ chia ra mà hầu hạ.” Hai người cùng bạch: “Xin mời!”
*Bạch: lời nói bình thường, phân biệt với lời ca hát trong ca kịch
Không biết vì cái gì, tôi không nghe rõ kịch, nhưng lại nghe được tiếng thì thầm của hai người bên cạnh.
Sĩ quan tóc đỏ hỏi: “Tại sao tên kia lại sơn một lớp màu trắng trên mũi của mình, giống cứt chim bồ câu quá vậy.” Thủy Hộ Dương Bình nói: “Đó là vai hề, tất cả đều phải hóa trang kiểu này.” Anh Mộc Hoa Đạo lại nói: “Nhìn xấu thật đấy.” Gã lại hỏi: “Bọn họ cứ ngươi một câu ta một câu nói chuyện gì vậy?” Thủy Hộ Dương Bình đáp: “Nói cụ thể thì chắc ngài cũng không hiểu, đại khái đây là trò đùa của Dương Quý Phi.” Vừa nói, tay hắn vừa chạm vào chiếc quần dài quân đội bó sát đang căng ra vì bắp thịt săn chắc của vị Thiếu tướng kia mà chậm rãi xoa xoa mép đùi trong.
Anh Mộc Hoa Đạo dựng đứng lông mày như muốn chửi ầm lên, bỗng dưng im lặng, bởi vì tiếng tụng kinh lười biếng vang lên, âm cuối hơi giương lên, giống như muốn hút linh hồn bé nhỏ của con người ta đi: “Bãi giá!” Diễn viên nổi tiếng Đương Hồng theo sau bốn thái giám và bốn cung nữ ra khỏi rèm, mặc trang phục cung đình, cùng cứng nhắc xướng lên: “Đảo mặt trăng bắt đầu xoay chuyển, vừa nhìn thấy Thỏ Ngọc lại quay về hướng đông. Mặt trăng rời đảo xa, trời đất sáng rõ ràng. Khi vầng trăng sáng nhô lên cao, đó chính là lúc Hằng Nga rời khỏi cung trăng.”
Anh ta quả thật rất đẹp, tôi không thể miêu tả hết được, chỉ có thể miêu tả như trong sách vở, “Mắt hạnh xanh, má hồng đào”, nếu không thì cũng là “Mắt như nắng mai, môi như nụ hồng”. Hình như là học phong cách hát Trình, giọng anh ta hát nhẹ nhàng với từng nốt thăng trầm. Diễn một tác phẩm kinh điển như này không phải là một thử thách dễ dàng, nhưng tiếng nói ấy tựa như làn khói, như một sợi vải voan mỏng màu xanh dưới ánh trăng, trong suốt nhưng lại không thể nhận ra, trêu ghẹo khiến người ta xốn xang từ đầu đến chân như thể đang làm một điếu Phúc Thọ.
Các cán bộ, chiến sĩ cũng ngừng nói chuyện, bố tôi cuối cùng cũng được nghe diễn theo ý nguyện.
Nhưng trò hay chẳng kéo dài được bao lâu. Anh Mộc Hoa Đạo vẫn còn đang ngây người, thì bên ngoài quán trà có một loạt âm thanh lộc cộc, nghe như tiếng giày quân đội bước trên mặt đất. Ngay sau đó, cánh cửa mở ra, tiểu nhị vừa mới nói một câu: “Thưa ngài, bên trong đang diễn, ngài…” Bùm! Nửa câu còn lại bị nuốt vào bụng, không thể thốt ra thành lời.
Không hổ là người từng vào Nam ra Bắc, chưa đến một giây, Anh Mộc Hoa Đạo và Thủy Hộ Dương Bình đã lập tức rút súng. Lách cách hai tiếng, người còn chưa quay lại lại, hai họng súng đã chĩa thẳng vào người đứng ở cửa. Đàn nhị đột ngột dừng lại, cả căn phòng im lặng đến mức người ta có thể nghe được tiếng thở của nhau.
Một lúc sau, người đàn ông bên cửa chậm rãi đưa tay lên bắt đầu vỗ tay tán thưởng, bởi vì y đeo đôi găng tay trắng như tuyết, tiếng vỗ ấy nghe hơi buồn, nhịp điệu cũng được hắn giữ vững, không nhanh không chậm, mỗi một lần đập xuống đều đập vào ngực người khác. Y ngẩng đầu lên, lộ ra một gương mặt lạnh như băng dưới mũ quân đội, tuấn mỹ đến bất khả tư nghị. Đôi mắt y vừa nhỏ vừa dài, lại đen nhánh, phần tóc bị che bởi vành mũ cũng rất đen, cằm có hơi nhọn. Bộ quân phục thẳng tắp, được tỉ mỉ cài đến nút cuối cùng, phủ bên ngoài còn là một chiếc áo khoác lông chồn.
Hai hàng lính Nhật trong quân phục Quan Đông xếp bên y, hàng chục khẩu súng trường chĩa vào những người bên trong. Y nói tiếng Trung một cách gượng gạo: “Có tiến bộ hơn so với bốn năm trước rồi đấy, tên ngốc hữu dũng vô mưu.”
Anh Mộc Hoa Đạo nhìn rõ người đang đến, sắc mặt chuyển từ đen sang trắng rồi từ trắng thành xanh, nghiến răng nghiến lợi, ngọn lửa hận thù trong đôi mắt như muốn thiêu người kia thành tro. “Chết tiệt! Lưu Xuyên!” Hắn hét lớn một tiếng: “Bọn mi thất thần cái mẹ gì vậy! Kẻ thù đang ở ngay trước mặt rồi, bọn mi đã quên hàng vạn anh em ở doanh trại Bắc Đại đã chết bất đắc kỳ tử như thế nào sao!” Những người khác bị tiếng thét lớn của gã chấn động, lúc sau mới định thần lại, vừa chửi lớn vừa xông lên. Tiếng kim loại va vào nhau vang lên, hai đội ngũ lao vào nhau. Thuộc hạ của Anh Mộc Hoa Đạo đều dùng là súng lục Mao Sắt, tuy thua về phần vũ khí rất nhiều, nhưng khí thế lại không hề yếu kém.
Bố tôi trên trán đổ mồ hôi lạnh, đã lâu không hành quân, ông không quen với cảnh tượng như thế này. Để bảo toàn mạng mình, tôi cũng chỉ có thể ngồi yên. Những người trên sân khấu đã sớm thành cọc gỗ, không dám thở mạnh. Phía sau Lưu Xuyên là một người phụ tá đứng ra hòa giải: “Xin đừng hiểu lầm, tối nay Trung tướng vừa đến Bắc Bình, nghe nói ngài ở đây để xem một vở kịch, chỉ là đến chào ngài mà thôi. Tất cả mọi người đừng hiểu lầm.”
Anh Mộc Hoa Đạo hung tợn nói: “Chào hỏi mà cũng cần giết người hả!”
Lưu Xuyên thản nhiên liếc nhìn xác tiểu nhị trên đất, nhẹ nhàng bâng quơ nói: “Ai cản đường thì đều phải chết thôi.”
“Cái đệt mẹ nhà mi!” Sĩ quan tóc đỏ chửi ầm lên, “Ta xem cái loại hồ ly như mi mới đáng phải chết đấy!”
Thủy Hộ Dương Bình đứng sóng vai với Anh Mộc Hoa Đạo, sắc mặt lạnh lùng lạ thường: “Hoa Đạo, ngài đã quên, hắn không chỉ nợ ngài mấy vạn mạng người, còn nợ ngài một cánh tay.”
Lưu Xuyên vẫn vô cảm: “Cánh tay của ngươi, ta sẽ trả lại.”
Sĩ quan tóc đỏ sửng sốt trong giây lát, gã có lẽ là đang suy nghĩ xem lời này có nghĩa gì, nhưng người phụ tá bên cạnh Lưu Xuyên đã cung kính mang một thanh kiếm samurai cho Trung tướng của mình. Lưu Xuyên từ từ tháo găng tay ra, tay phải cầm chuôi dao rút ra. Lưỡi kiếm dài như ánh sáng trắng lóe lên trong tầm mắt của mọi người.
“Ngươi nhìn cho kỹ.” Lưu Xuyên nói xong bèn giơ cánh tay trái của mình lên. Lưỡi kiếm cắm vào gốc tay rồi kéo theo một đường chéo về phía trên bên phải. Máu tươi phun ra, cánh tay gãy nặng nề rơi xuống đất, tạo nên một đóa hoa máu đỏ tươi. Y đưa lưỡi kiếm lại cho người phụ tá, vài tên lính Nhật lập tức chạy lên để giúp y băng bó vết thương để cầm máu tạm thời.
Lúc làm, y vẫn luôn nhìn chằm chằm vào Anh Mộc Hoa Đạo, làm xong cũng không nói gì, chỉ nhìn gã một lúc lâu rồi quay người bước ra khỏi cửa, vạt áo măng tô bị gió thổi tung bay, ánh sáng sau lưng như tan vào màn đêm. Những quân lính khác cũng bắt đầu rút lui, phụ tá là người cuối cùng rời đi, nhặt cánh tay bị đứt của Trung tướng lên giữ cẩn thận rồi cúi đầu trước Anh Mộc Hoa Đạo và nói: “Lần này Tổng tư lệnh phái đại quân của Trung tướng đến kinh thành cũng là ý của Trung tướng, bởi vì người nghe nói tướng quân cũng ở đây. Trung tướng bảo tôi nói với ngài, cái đêm bốn năm trước đấy, người sẽ nhớ mãi không quên. Người nợ ngài cái gì, đều ghi tạc trong lòng, nay đã trả xong thì không còn nợ nần gì nữa, công tư rõ ràng, ân oán cá nhân đã giải quyết xong, Trung tướng sẽ không bao giờ đứng ở lập trường đối địch với ngài nữa. Người hi vọng ngài có thể xem xét thời thế hợp tác cùng với Quân đội triều đình để giải cứu Bắc Bình khỏi ách thống trị đen tối của chính quyền Trung Quốc và khôi phục lại vinh quang của nhà Thanh. Ngoài ra, Trung tướng cũng đánh giá cao tài năng của ngài và mong được trở thành bạn tri kỉ với ngài.”
Xong một bài diễn văn hùng hồn này, sĩ quan tóc đỏ sớm mất kiên nhẫn, chờ khi viên phụ tá rốt cuộc cũng nói xong, gã nhổ một ngụm nước bọt, lớn tiếng nói: “Về nói với thằng khốn ấy rằng Trung Quốc hưng thịnh không cần tới lũ lợn Nhật Bản bọn mi đâu. Bản thiên tài cũng không dám làm bạn tri kỷ với súc vật, ta sợ mình sẽ mắc bệnh của tên súc sinh hồ ly tinh đó.”
Người phụ tá mỉm cười: “Thật đáng tiếc. Trung tướng đã muốn gì, người sẽ làm mọi thứ để có được nó. Cho dù là có phải phá hủy thứ đó. Mong ngài tự sắp xếp cho tốt.” Nói xong liền vội vàng rời đi.
Anh Mộc Hoa Đạo nhìn theo bóng lưng của người nọ, trán nổi đầy gân xanh, định bắn chết anh ta nhưng lại bị Thủy Hộ Dương Bình ngăn lại, nên chỉ có thể cầm lấy ấm trà bên cạnh ném xuống đất, lớn tiếng chửi mẹ nó. Thủy Hộ Dương Bình đặt súng xuống, mặt không biến sắc cầm tay viên sĩ quan tóc đỏ, nắm chặt. Bố tôi thở phào nhẹ nhõm, lau mồ hôi.
Bầu không khí căng thẳng trong quán trà giảm bớt, tiểu nhị mặt tái mét nhanh chóng kéo xác người bạn xuống, nghiến răng nghiến lợi nuốt nước bọt. Anh Mộc Hoa Đạo vẫy tay với cấp dưới, nói: “Đến đây, tiếp tục uống trà xem diễn, không thể để đám súc vật phá hỏng nhã hứng của anh em. Đối đầu với chúng bằng vũ lực là chuyện sớm hay muộn, đến lúc đó xem ai là người có khẩu súng mạnh nhất. Nghe xong cảnh này, chúng ta sẽ lại đi vào nề nếp, những chuyện cỏn con, tập thường đều bỏ qua, tăng cường luyện tập, chỉ cần đợi lệnh từ bên trên liền đánh bại lũ ma quỷ.”
“Vâng!” Mọi người lần lượt ồ lên. Anh Mộc Hoa Đạo nói với các diễn viên đang mềm nhũn trên sân khấu kia: “Đều đi rồi, ta còn đang đợi mọi người hát, trứng gà hay trứng vịt gì đó mau tiếp tục đi.”
Người trên sân khấu liếc nhìn viên sĩ quan tóc đỏ một cái, sau đó thẳng tay áo, cùng đàn nhị bắt đầu cất tiếng hát: “Đồng Tiêu cầm cốc vàng, Cao Bùi hai khanh nhận chén này. Nhân sinh trên đời như một giấc mộng, nô gia được uống vài chén là vui rồi.”
Tôi không thể nghe nổi nữa, vết máu ở cửa đỏ đến chói mắt. Sườn mặt của Anh Mộc Hoa Đạo có một nét ngây thơ trẻ con, tiếng hát ngân nga khúc chiết, giống như những năm tháng tuổi thơ vô tư vô lo vô nghĩ. Tất cả những điều này đều gợi lên trong tôi một sự khó chịu khó tả.
Điều mà Anh Mộc Hoa Đạo mong chờ nhất, có lẽ chính là được cưỡi ngựa chiến, trên lưng mang đại đao, cầm trên tay một khẩu súng trường, quang minh chính đại mà chết đi. Nhưng không ai nghĩ tới rằng, ngày này sẽ không bao giờ tới. Nếu trong trí óc đơn giản của người sĩ quan tóc đỏ đó có điều gì tiếc nuối, thì đây hẳn chính là tiếc nuối lớn nhất.
Xem xong vở kịch, Anh Mộc Hoa Đạo nhất quyết muốn đưa hai bố con tôi về. Vì chuyện vừa nãy làm chúng tôi kinh hoảng mà gã cảm thấy rất có lỗi. Mấy chiếc xe quân sự đậu bên ngoài sân, gã và Thủy Hộ Dương Bình tiễn chúng tôi đến cửa rồi vỗ vai bố tôi nói: “Hạo Chi, mười năm này đã thay đổi rất nhiều, có lúc ta cảm thấy như là đang mơ. Chúng ta đều không còn trẻ, ông đã lập gia đình rồi còn ta thì vẫn độc thân, haha. Hạo Chi, trận này sớm muộn gì cũng sẽ phải đánh, chuyện này ai trong lòng cũng rõ. Nếu không muốn bơi trong vũng bùn này, ông nên đưa theo A Chi, tên đầu nhím và đứa con trai bất hiếu kia đi lánh nạn ở nước ngoài càng sớm càng tốt. Đợi đến lúc đánh thật rồi, ta không thể bảo vệ ông đâu.”
Hai mắt của bố tôi ươn ướt, ôm chặt lấy Anh Mộc Hoa Đạo, giống như trở về thời cùng nhau đi lính nhiều năm trước, ông lẩm bẩm: “Hoa Đạo, ta hối hận biết bao khi không thể tiếp tục ở bên cạnh ông, cái thân thể vô dụng của ta, sao lại có thể bị đánh thành như này chứ… ” Anh Mộc Hoa Đạo bật cười: “Nói linh tinh cái gì đó, đất nước cần binh sĩ cũng cần doanh nhân. Ông cũng không làm ăn với bọn giặc và người nước ngoài, về điều này, ta Anh Mộc Hoa Đạo cũng phải gọi ông là đại ca!”
Lúc này, từ lầu hai truyền đến từng tiếng huyên náo yếu ớt cùng với những tiếng quát tháo khàn khàn không rõ. Có tiếng vật nặng rơi xuống đất, đám người hầu la hét ồn ào một lúc sau mới yên tĩnh trở lại. Tôi biết đó là anh hai, anh ấy nhất định đã nghe thấy tiếng xình xịch từ động cơ của xe quân sự nên cố gắng hết sức để gặp được người mình muốn gặp, nhưng tiếc là tất cả đều vô ích.
Anh Mộc Hoa Đạo tỏ vẻ khó hiểu, bố tôi nói: “Không có gì, chắc là con chó ở nhà làm đổ đồ sành sứ.”
Gã bắt lấy tay bố, siết chặt: “Hạo Chi, ta đi đây, ông tự lo cho mình đi. Mấy ngày tới có thể sẽ có người đến làm phiền, đừng để hai tên nhóc nhà ông bất cẩn mà tham gia vào. Hẹn gặp lại ông vào ngày khác!” Gã xoay người rời đi, Thủy Hộ Dương Bình đi theo gã. Nóng của hai người họ đều cao ngất, bị ánh đèn đường lờ mờ kéo theo một lúc lâu, gần nhau đến mức dường như không có khoảng cách.
Tôi bước lên lầu, nhẹ nhàng đẩy cửa phòng anh tôi. Trong phòng không bật đèn, ánh trăng rọi vào phòng, soi rõ khuôn mặt tuấn tú không tỳ vết kia. Ngày ấy tay chân anh tôi bị đánh gãy rồi, hiện tại nó bị treo lên, bên ngoài được bọc trong một lớp thạch cao dày trông khá hài hước. Lớp thạch cao bị nứt một chút, có lẽ là vì anh tôi vừa mới giãy dụa để thoát ra.
Anh nghiêng đầu không nhìn tôi, khàn giọng hỏi: “Anh ấy không sao chứ?”
Tôi nói: “Rất tốt, ngài ấy vẫn là vậy…….. Anh biết đấy.”
Anh nhắm mắt lại không nói gì nữa, tiếng hít thở cứ đều đều, như thể đang ngủ.
Vài ngày sau, vào khoảng sáng sớm ngày 9 tháng 12, tôi bị đánh thức bởi những tiếng động yếu ớt từ cửa sổ. Qua lớp kính mờ đã đóng băng, tôi thấy con hẻm ngoài sân vắng lặng mà yên bình, không khí bên ngoài mù sương ẩm ướt. Song song hai bên con ngõ Đông Bốn Mã là những ngôi nhà gỗ san sát nhau. Đây đều là nhà của những doanh nhân giàu có hoặc người thân của các chức sắc nhà nước, rất ít người qua lại. Chỉ khi vươn cổ nhìn qua, bạn mới thấy ở cuối con hẻm có đoàn diễu hành đi qua.
Tôi mặc quần áo bước xuống nhà thì thấy em họ tò mò đứng ngoài sân. Tôi bước đến hỏi em: “Em muốn xem không?” Em ấy có chút chần chừ nhưng cũng gật đầu. Tôi đẩy xe đạp ra, nói: “Ngồi đi.” Sau đó tôi chở em đi dọc theo lề đường, phía sau là tiếng rống đầy tức giận của bố tôi và tiếng kêu kinh hoàng của mẹ tôi. Tôi giả vờ như không nghe thấy, đạp xe càng nhanh hơn, em họ bị những hòn đá làm cho nảy lên mà bật cười khúc khích.
Tôi vui vẻ đạp xe, như thể đang đi chơi vậy. Đạp đến đại lộ Tây Trường An, trước mắt tôi là những sinh viên mặc áo khoác bông, hầu hết đều là sinh viên đại học, một số người bằng tuổi tôi, đang đứng chặn đường. Họ mang theo cờ trường và biểu ngữ với dòng chữ “Phản đối việc đặc khu hóa Hoa Bắc” và “Phản đối việc thành lập Ủy ban công tác quản lý nhà nước Ký Sát”, rồi cùng nhau vung tay và hô vang: “Dừng nội chiến, nhất quán đối ngoại!” “Đả đảo đế quốc Nhật!” “Cả nước chuẩn bị vũ trang để bảo vệ Hoa Bắc. Chống Nhật cứu nước!” Trong tiếng gào thét đến tận trời, cả đoàn từ từ đi về phía đông như một con rồng, tôi đạp xe cheo leo bên cạnh những gương mặt non nớt, nhìn những nắm đấm giơ lên không trung và những lá cờ tung bay, không ngờ lại sinh ra một loại ảo giác đang đi trên bờ vực của thời đại.
Tôi quay đầu lại và lớn tiếng hỏi em họ: “Em có sợ không?”
Em bịt tai, vui vẻ hét lên: “Không sợ! Có anh ở bên cạnh, em không sợ!”
Một em nữ sinh đưa cho chúng tôi hai phiến tờ rơi, háo hức nói: “Hãy đến với chúng tôi, hãy đứng lên, Hoa Bắc cần bạn, đất nước cần bạn. Biểu tình phản đối Ủy ban công tác quản lý nhà nước Ký Sát! Phản đối mọi tổ chức bù nhìn ở Hoa Bắc!” Tôi mỉm cười nhìn cô, nhận lấy tờ giấy bằng một tay. Tờ giấy khổ một quãng tám, in một dòng chữ ‘ Thư gửi đồng bào cả nước’ nổi bần bật. Bên dưới dày đặc lời kêu gọi: “Đồng bào cả nước đang giãy dụa trên ranh giới của cái chết, hãy nhanh chóng đoàn kết! Mục tiêu của chúng ta đều như nhau: tự mình đứng lên bảo vệ dân tộc mình! Ý chí của chúng ta là ánh sáng: đánh đổi xương máu để đổi lấy tự do!” “Hoa Bắc rộng lớn như vậy mà không có nổi một nơi yên bình!”… Hàng người xếp hàng dài tựa như không có điểm dừng. Đi đầu phía trước là một nam sinh cao ráo quàng một chiếc khăn trắng đang giơ loa gào hét gì đó. Có vẻ anh ta là một người lãnh đạo năng nổ. Tôi luôn cảm thấy anh ta rất quen thuộc, nhưng lại không thể nhìn rõ.
Chuyện gì xảy ra sau đó, tôi cũng không rõ. Bố tôi thuê một chiếc xe tới lôi tôi đi. Suốt chặng đường về nhà, ông không ngừng quở trách tôi. Vừa lúc rẽ vào Đông Tứ Mã, con phố xa kia vang lên từng tiếng súng nổ, dọa con quạ đen trên cây bay mất.
Mãi tối muộn, tôi mới nghe được tin sinh viên yêu nước bị hàng ngàn cảnh sát quân đội trấn áp dã man ở cổng Vương Phủ Tỉnh. Hán gian và đặc vụ đi khắp nơi bắt người. Lũ giặc Nhật lại bắt đầu lắp súng máy. Ngay cả Quân đoàn 29 cũng bị điều động. Họ khoác lên mình bộ áo xanh vàng như ngọc mà chiến đấu ngoan cường. Vì chuyện này mà tôi lại bị mắng một trận. Nhưng tôi đã không còn nghe thấy tiếng thét gào nữa, và trong màn đêm vô tận bên ngoài cửa sổ, năm sáu tờ rơi trắng như tuyết lơ lửng giữa không trung tựa những con bướm phát sáng.
Hôm sau tôi đến trường thì thấy trường đã đóng cửa, có lẽ là vì sợ các cậu ấm nhà giàu gặp chuyện bất trắc trong cái thời buổi loạn lạc này, hoặc sợ mang danh phản quốc. Như thường lệ, tôi rẽ vào lùm cây, từ từ leo lên tầng hai của xưởng vẽ, rồi đứng ngoài đó một lúc. Cửa sổ tối om nhưng tôi vẫn có thể mơ hồ nhìn thấy đống giá vẽ và bàn ghế lộn xộn. Tôi đẩy nhẹ cánh cửa. Tiếng cọt kẹt vang lên, cánh cửa mở ra, để lộ khoảng không tối tăm và vô định trong căn phòng.
Tôi bỗng thấy kỳ quái. Cánh cửa này đã khóa mấy ngày rồi, là ai đã mở ra? Tôi vô thức nhìn xuống đất. Một vệt máu đỏ thẫm kéo dài về phía trước, biến mất sau cánh cửa, có vẻ đã đông lại. Tim tôi đập thình thịch. Tôi đẩy cửa bước vào, ấn công tắc bật đèn.
Trạch Bắc Vinh Trị co ro trong góc phòng, chiếc áo khoác bông màu xanh lam dính đầy máu. Máu vẫn không ngừng chảy ra, đã trở thành một dòng suối nhỏ. Chầm chậm dòng suối ấy đã sắp cạn kiệt. Anh nằm đó, nhắm mắt, cổ quàng một chiếc khăn trắng như tuyết, xung quanh rải rác hơn chục tờ rơi kêu gọi người dân cả nước.
“Thầy Trạch!” Tôi chạy đến, để anh gối đầu lên đùi tôi rồi túm lấy người anh ấy. Tôi không định đưa anh ấy đến bệnh viện, bởi vì ngay cả khi tôi làm vậy, anh ấy cũng sẽ chẳng thể qua khỏi. Vào những giây phút cuối của cuộc đời mình, chàng sinh viên đại học trẻ tuổi ấy có điều muốn nói. Dưới cánh tay anh đang cầm một bức tranh sơn dầu được bọc trong một tờ báo.
Đôi mắt anh ấy từ từ mở ra, mất một lúc lâu mới nhìn thấy được. Khi nhìn thấy tôi, anh ấy nở một nụ cười, rồi yếu ớt nói: “Là em, A Chương, em đến rồi.”
Tôi dùng sức đè ngực anh ấy để ngăn dòng máu chảy ra: “Thầy Trạch, các sinh viên đều nhớ thầy rất nhiều.”
Anh ấy muốn nở nụ cười thêm lần nữa nhưng một giọt nước mắt lại từ từ lăn dài trên má. Anh muốn đưa tay lên lau đi nhưng lại không làm được. Anh nói: “Xin lỗi, thanh niên to xác như tôi mà lại khóc lóc như này. Thật là mất mặt quá.”
Tôi nói, “Không sao đâu. Ngay cả khi khóc nhìn thầy vẫn rất oai phong.”
“Hừ.” Anh hổn hển hít một hơi, buông bảng vẽ dưới cánh tay ra, “Thật bất cẩn mà. Tôi bị gián điệp bắn lén.” Anh ấy nhìn tôi: “Tôi quyết định về Trung Quốc vì muốn dùng chính hai bàn tay của mình để thay đổi vận mệnh của quốc gia. Tuy rằng sức lực ít ỏi của tôi không là gì, nhưng hàng vạn người như tôi có thể tạo nên sức mạnh tựa núi cao khó đổ. A Chương, chắc em cũng biết tôi là đại biểu của tổ chức ngầm rồi. Hôm qua tôi đã thấy em. Em lúc đó đang đạp xe với một cô gái, em ấy thật xinh đẹp.”
“Vâng.” Tôi nói: “Em ấy rất đẹp.”
Anh ấy cố gắng đưa bức tranh về phía tôi: “A Chương, em phải hứa với tôi một điều. Đây là ước mong cuối cùng từ người giáo viên mỹ thuật kiến thức nông cạn của em.”
“Thầy hãy nói đi.”
Anh chậm rãi, cẩn thận xé tờ báo ra, để lộ ra một bức tranh vẽ một người đàn ông tóc đỏ trong bộ quân phục. Mặt mũi gã vui vẻ, mái tóc đỏ rực như đang rực cháy.
“Người đàn ông này, em hẳn cũng biết. Anh ấy từng nhắc đến em, rằng em là con trai của cố nhân. Tôi biết ngày nào em cũng đến đây. Tôi không thể đi đâu xa, cũng không có cách nào để đến trụ sở của anh ấy, lại càng không thể để người khác thấy tôi đi tìm anh ấy……”
Tôi khàn giọng hỏi: “Anh đã đợi ở đây bao lâu rồi?”
“Từ tối hôm qua, Tối hôm qua lúc ở vùng ngoại ô phía Đông, tôi bị người mai phục. Những người đó đều biết tôi…… A Chương, tôi gắng gượng tới giây phút này chỉ là để chờ em tới. Nếu em gặp anh ấy, xin em hãy đưa bức tranh này cho anh ấy, nói với anh ấy rằng đây là tác phẩm do cậu sinh viên Thanh Hoa đã được anh ấy cứu mạng năm đó gửi tặng cho anh ấy. Hãy để anh ấy nhận nó như là tâm tư cuối cùng của tôi…” Anh đột nhiên dừng lại, mỉm cười: “Ha, người như anh ấy chắc không nhớ nổi đâu. Nếu không nhớ được thì em cũng có thể kể lại chuyện năm ấy…”
Anh đưa đôi mắt ngấn lệ nhìn lên trần nhà: “Ngày hôm đó trời rất lạnh. Liên đoàn bí mật của Đại học Thanh Hoa bị đặc vụ của Quốc Dân Đảng trà trộn vào rồi bán đứng. Một số người trong chúng tôi bị bắt, bị nhốt trong xa lim, bị tra tấn, bị ép phải khai ra mọi bí mật của Đảng. Sau đó tất cả mọi người đều chết, chỉ còn lại duy nhất mình tôi sống sót. Lúc đó tôi chỉ muốn chết. Chết thì chết, chết đi tôi còn trở thành đảng viên xuất sắc. Ngay vào lúc tôi nghĩ mình đã tận số rồi, anh ấy lại dẫn theo thuộc hạ của mình tới… Thân là một sĩ quan cấp cao, nào có chuyện anh ấy sẽ ngó ngàng đến đám sinh viên bị bắt đi chứ. A Chương, em biết không? Tôi khi đó như bị ảo giác, tưởng như bản thân mình đang bò trong bóng tối của sa mạc Sahara, cơ thể mất nước, miệng lưỡi khô khốc, không nhìn thấy gì, không chạm vào được gì. Thế rồi, bỗng nhiên mặt trời đỏ rực mọc lên, và dưới ánh mặt trời ấy là một ốc đảo xinh đẹp…”Anh đột nhiên háo hức nắm lấy tay tôi, giữ chặt: “A Chương, em có biết không, em có biết cái cảm giác này không… Cái cảm giác chỉ có thể trải qua một lần trong đời, hoặc cả đời cũng không thể trải qua…”
Tôi giữ anh ấy lại: “Em biết, thầy Trạch, em biết.”
“Ha.” Anh thở phào nhẹ nhõm và bình tĩnh lại, có lẽ do muốn giữ lại chút sức lực. “Lúc nửa tỉnh nửa mê, tôi nghe thấy có người nói: Thiếu tướng Anh, hắn là kẻ phản quốc, là quân bán nước. Thế nhưng anh ấy lại quát ầm lên: Câm mồm! Ta thấy cậu mới giống quân bán nước đấy!” Anh dừng lại và nở nụ cười: “Thật thô lỗ mà, mồm miệng lúc nào cũng toàn là… nhưng tôi vẫn…” Nước mắt anh ấy lại chảy ra: “Sau đó tôi có hỏi anh ấy tại sao anh ấy lại cứu người Cộng sản. Anh ấy nói rằng: ‘Ta không biết Cộng sản hay Quốc dân đảng là gì, ta chỉ biết những người sinh ra trên mảnh đất này đều là con dân của Thiên hoàng.”
“Tôi ở lại chỗ của anh ấy đến khi vết thương lành hẳn. Bọn Nhật và cấp trên tìm anh ấy gây chuyện, anh ấy không nói, nhưng tôi vẫn luôn biết… Chúng tôi, gặp nhau có vài lần, nhưng tôi chẳng thể nào quên được … A Chương, em nói với anh ấy, Trạch Bắc Vinh Trị xin lỗi anh ấy. Tôi không giữ được cái mạng mà anh ấy đã cứu. Bức họa này, em giao cho anh ấy, nói cho anh ấy biết đây là một bức tranh sơn dầu, một bức chân dung, dùng màu sơn từ phương Tây, rất thật, không phai, không mục nát, dù treo trên tường bao nhiêu năm cũng như mới…”Giọng anh từ từ trầm xuống, trầm xuống, cuối cùng không thể nghe được nữa.
Tôi nâng cơ thể mềm nhũn của anh dậy, rồi nhẹ nhàng đặt xuống đất, dùng khăn trắng phủ lên. Sau đó tôi cầm bức tranh mà anh ấy để dưới cánh tay lên, đóng cửa lại, rời đi trong im lặng, sợ rằng chỉ cần bước mạnh một chút cũng sẽ phá vỡ mộng đẹp của người đang say giấc nồng.