Mắt ông cậu Paton vẫn nhắm nghiền. Mặt ông tựa như đá tạc. Không một cơ bắp nào động đậy. Charlie ghé tai vô ngực ông và bắt được tiếng tim đập yếu ớt.
“Ông cậu còn sống. Nhưng đang ngủ rất sâu, “Charlie nói. “Tụi mình sẽ cần phải chờ cho tới khi Ông cậu thức dậy.”
Đó không hề là một giấc ngủ bình thường, nhưng cũng không giống như bị thôi miên. Chắc hẳn Ông cậu Paton đã tới Lâu đài Yewbeam. Nhưng câu chuyện khủng khiếp gì đã xảy ra với ông ở đó? Ông cậu Paton là người duy nhất trong nhà có thể chống lại nội Bone, Charlie rùng mình nghĩ cuộc đời sẽ ra sao nếu như Ông cậu nó không bao giờ tỉnh dậy nữa.
“Tụi mình đi khỏi đây đi,” Charlie nói.
Billy đang đứng đờ người ra bên cạnh cửa, và Charlie nhận thấy cái đầu của Rembrandt thò ra khỏi vạt áo của Billy. Mũi con vật co giật dữ dội. Thình lình, nó chít một tiếng thật lớn và phóng xuống sàn.
“Bắt lấy nó!” Charlie thét.
Billy bật chạy ra, Charlie theo sau, đóng cửa phòng Ông cậu Paton lại sau lưng. Nó thấy Rembrandt chạy nháo nhào, dọc theo sát bức tường. Billy sắp đuổi kịp Rembrandt thì một cánh cửa bật mở ra ngay giữa nó và con chuột.
Nội Bone ra khỏi phòng riêng của bà và đứng lù lù trước mặt Billy.
“Ủa?” Bà nhướn đôi lông mày đen dài lên. “Charlie mang về nhà một anh bạn nhỏ à?”
Billy nheo mắt ngước nhìn nội Bone.
“Đó là Billy Raven, nội,” Charlie nói. “Nó ở lại đây vào cuối tuần.”
“Tao không mù. Tao cũng thấy nó là Billy Raven mà,” bà nội nói. “Tao mừng là mày đã phát huy được những giác quan của mày, Charlie. Billy là một thằng bé dễ thương. Một cải tiến tuyệt vời so với cái thằng Benjamin hôi hám kia, chứ đừng nói tới thằng Fidelio tầm thường và cái thằng Gabriel khó ưa.”
Charlie ghét bà nội nói về bạn bè nó như thế, nhưng nó đang lo sốt vó về con chuột đen nên chẳng có bụng dạ nào mà đôi co. Không hiểu sao, vì lý do gì đó, con Rembrandt dừng phắt lại ngay đằng sau nội Bone, và giờ đang ngồi nhỏng lên và theo dõi họ.
Billy không biết phải làm gì. Nó nhìn chòng chọc vô Rembrandt, miệng há hốc.
“Tại sao mày nhìn hau háu vô giày của ta thế hả, thằng nhỏ kia? Nội Bone nói. “Nhìn vô mắt ta đây này. Ta có cắn đâu.”
Chưa ấy chứ, Charlie nghĩ.
Khi Billy rời mắt khỏi con chuột đen, Charlie thở phào khi thấy con chuột chạy xuống cầu thang.
“Nội…” Charlie mở miệng.
“Cái gì?” Nội Bone tì người qua thành cầu thang, nhưng con chuột đen đã biến mất.
“Giờ thế này, Billy,” bà nói. “Cái người hay nấu nướng trong nhà này đã đi nghỉ mát rồi.”
“Không phải,” Charlie cãi. “Nội à…”
“Im,” bà nạt. “Như ta đã nói, chúng ta không có người nấu nướng, nhưng ta sẽ cố hết sức để kiếm món gì đó hấp dẫn cho cháu. Charlie thì chỉ được xơi bánh mì và nước thôi, tại vì nó đã chôm mất món patê gan ngỗng của ta!”
Charlie chỉ lên phòng Ông cậu Paton và thét lên.
“Nội, bà không nhận thấy là Ông cậu Paton đang nằm như chết trên đó sao?”
“Tao hoàn toàn nhận thức được tình trạng của em trai tao,” bà tỉnh rụi. “Hắn xứng đáng nhận tất cả mọi thứ hắn đáng nhận. Nhúng mũi vô chuyện của người khác, đó là điều hắn đang làm. Hừ, lần này hắn đúng là nhai không được còn cắn cho to, đúng chưa? Cân sức nhé. Ha!Ha!”
Nội Bone phá ra cười khả ố và lướt xuống cầu thang.
“Tao đi kiếm một ít mận đây,” bà nói lớn và đội nón, mặc áo khoác, xong rời nhà.
“Em không thích mận,” Billy nói, nhăn mày vẻ sợ hãi.
“Em không việc gì phải ăn,” Charlie nói. “Thôi nào, đi coi xem có gì khá hơn không.”
Billy nghĩ chúng nên kiếm con Rembrandt trước đã, nhưng mặc dù đã kiếm khắp các phòng dưới lầu trệt, vẫn không thấy bóng dáng con chuột đâu cả.
“Chắc là nó cuộn mình ngủ ở đâu đó,” Charlie nói. “Anh tính cho mấy củ khoai tây vô lò nướng.”
Nó chưa kịp làm thì mẹ nó đã về nhà, với một đống cà rốt. Cô chẳng tỏ vẻ ngạc nhiên chút nào khi thấy thằng bé tóc trắng, nhỏ xíu ngồi bên bàn nhà bếp. Cô vốn đã quen với những chuyến tới chơi của Benjamin, và rất vui nếu Charlie có mời bạn về nhà vào cuối tuần. Cô đoán chắc là Ông cậu Paton đã trở về, vì cô nghe có những tiếng động lạ hồi khuya đêm hôm trước, nhưng cô không có thời gian để vô thăm ông trước khi cô đi làm.
“Ông cậu bệnh nặng lắm mẹ,” Charlie nói. “Bệnh rất, rất nặng. Tóc Ông cậu chuyển thành màu xám hết. Ông không nói được.”
“Trời đất, mẹ phải lên thăm Ông cậu coi sao.”
Cô Bone chạy ngay lên lầu. Vài phút sau, cô đi xuống, coi bộ rất lo âu.
“Để mẹ kêu bác sĩ tới. Bà nội con có biết Ông cậu bị như vầy không?”
“Bà nói đáng đời Ông cậu vì thói can thiệp vô công việc người khác,” Charlie nói với mẹ.
Cô Bone lắc đầu: “Cái gia đình đó thiệt hết sức.”
Trong khi Charlie chuẩn bị bữa tối, cô Amy Bone gọi điện cho bác sĩ. Cô nói chuyện trên điện thoại khá lâu để mô tả những triệu chứng của Ông cậu Paton. Thật không dễ dàng chút nào để giải thích rằng có một người qua một đêm tự nhiên hóa xám.
“Mẹ không nghĩ bác sĩ tin mẹ,” cô Bone vừa nói vừa đặt ống nghe xuống. “Nhưng ông ấy sẽ tới trong vòng một giờ nữa để khám cho Ông cậu.”
Đúng lúc đó, nội Bone trở về, với một bọc mận. Ngay khi nghe nói là đã kêu bác sĩ tới, bà nhấc điện thoại và hoãn cuộc hẹn lại.
“Sao mẹ lại làm thế?” Cô Bone sửng sốt. “ Ông cậu Paton cần bác sĩ.”
“Không cần,” nội Bone quặc lại. “Bác sĩ chẳng làm gì được hết. Chỉ tốn thời gian quý báu của ông ta thôi.”
“Quá đáng! Ông cậu là em trai của mẹ mà,” Cô Bone kêu lên. “Nếu lỡ… nếu lỡ ông chết thì khi đó mẹ cảm thấy như thế nào?”
“Ai mà chẳng chết… khi tới lúc,” nội Bone vừa nói vừa rửa mớ mận khô.
Theo dõi cuộc tranh cãi bằng con mắt trợn tròn, Billy kết luận rằng cuộc sống gia đình không phải hoàn toàn giống như người ta thường ca ngợi.
Bữa tối là một nhiệm vụ chẳng thoải mái chút nào. Chẳng màng tới thịt dăm bông và khoai tây, nội Bone từ đầu tới cuối cứ tì tì chén tô mận, không ngừng tạo nên những tiếng mút nhai kinh khủng.
Sau bữa ăn, trong khi cô Bone dọn giường cho Billy, hai thằng bé kể cho cô nghe về Rembrandt.
“Ôi, Charlie, không phải là một con vật nữa đấy chứ,” mẹ Charlie thở dài.
“Nó rất sạch,” Billy nói. “Và không cắn.”
“Nhưng mà chuột…”
“Làm ơn canh chừng nó nha mẹ,” Charlie nài nỉ. “ Con không muốn nội Bone trông thấy nó trước.”
“Ừ thì…” Mẹ nó nói, cười tươi. “Mẹ sẽ cố hết sức nhưng đừng trách mẹ nếu mẹ thét lên khi thấy nó đấy.”
Cô rời phòng ngủ và nói:
“Giờ là chuột. Tiếp theo là gì nữa đây?”
Billy muốn tiếp tục kiếm Rembrandt, nhưng Charlie sợ nội Bone sẽ sinh nghi. Ngoài ra, Ông cậu Paton, người luôn được tin cậy trong những cơn khủng hoảng, giờ lại đang nằm mê man, trong một trạng thái thật hãi hùng, mà không thể kể cho ai hay điều gì đã xảy ra với ông. Không chừng Ông cậu sẽ không bao giờ trở lại là mình nữa.
“Ông cậu của anh có thể kích bể bóng đèn, phải không?” Billy hỏi.
“Ông cậu là nguồn tăng điện áp,” Charlie nói. “ Cứ hễ ông nhìn vô bóng đèn là có chuyện xảy ra… kiểu như nổ bóng đèn. Chính vì thế mà trời tối ông mới ra ngoài đường. Thể nào cũng có người bắt gặp một lần làm bể bóng đèn của Ông cậu cho coi.”
“Có một bóng đèn vẫn sáng trong phòng ông ấy,” Billy nói.
“Cái gì?”
Charlie không nhận ra điều đó. Nó cần phải đi coi có đúng không.
Nó nhìn vô phòng của Ông cậu, và thấy… Đúng là có một bóng đèn sáng rực treo trên trần nhà, ngay phía trên bàn làm việc của Ông cậu.
“Tiêu rồi, Charlie,” một giọng yếu ớt phát ra từ chiếc giường.
Đôi mắt đen của Ông cậu Paton giờ đang mở. Ông nhìn chằm chằm vô bóng đèn với vẻ thất kinh.
“Ông cậu, Ông cậu tỉnh rồi!” Charlie kêu lên.
“Nếu mày gọi đó là tỉnh,” Ông cậu Paton thều thào.
“Charlie, ta bị nạo sạch rồi. Lão ta mạnh lắm, không tưởng tượng nổi.”
“Ai?” Charlie hỏi.
Ông cậu Paton lại nhắm mắt.
“Bà nội của mày gắn bóng đèn vô để kiểm tra ta. Bà ta muốn chắc chắn là ta đã mất hết quyền phép. Hừ… Đúng là ta đã mất rồi.”
“Nhưng ai làm điều đó với Ông cậu vậy? Charlie nôn nóng.
Cái đầu xám của Ông cậu Paton ngoắt qua ngoắt lại.
“Ta tưởng lão ấy chết rồi chứ… tiêu rồi chứ. Nhưng lão ta sẽ không bao giờ chết.”
“Ai cơ?” Charlie hỏi gặng.
“Ta không thể nói tên lão. Có lẽ, ngày mai…” Ông cậu Paton quay mặt vô tường.
Charlie nhận ra rằng nó không thể ép Ông cậu thêm được nữa. Nó đang định rời phòng thì cây gậy phép đập vô mắt nó, đồng thời với một ý nảy ra trong đầu. Nó cầm cây gậy phép bị hủy hoại lên và lẻn trở về phòng.
Billy đang ngồi trên giường của Charlie, trông rất sầu thảm.
“Đừng lo cho Rembrandt,” Charlie an ủi. “Nó là con chuột thông minh, và em là bạn nó mà. Nó sẽ quay lại ngay thôi, anh bảo đảm đó.”
Charlie thấy là Billy không thật sự lắng nghe nó nói mà đang nhìn trân trối vô bàn tay Charlie, vẻ kinh hãi.
Vội nhìn xuống, Charlie thấy cây gậy phép bị cháy đang biến đổi. Nó có thể cảm nhận cây gậy đang dịch chuyển nhẹ nhàng trong các ngón tay; trơn như lụa và ấm như ánh mặt trời. Đầu gậy bịt bạc bỗng sáng lấp lánh, và phần gỗ đen nhạt gần đi, cho tới khi chuyển thành màu trắng tinh.
“Làm sao chuyện đó xảy ra được?” Billy nín thở.
Charlie lắc đầu. “Không biết.”
Nó ngồi xuống cạnh Billy và rê ngón tay khắp mảnh gỗ láng, trắng.
“Đó là gậy phép phải không?” Billy hỏi. “Hồi nãy nó đen thui và gẫy mà, giờ lại trông như mới toanh. Nó là gậy của Ông cậu anh à?”
“Không,” Charlie thủng thỉnh. “Anh mượn nó từ một người, mà người này lại đánh cắp nó từ một người khác.”
“Trông nó như rất muốn ở bên anh vậy,” Billy nhận xét. “Cứ như nó là của anh vậy.”
“Không có chuyện đó,” Charlie nói. “Không có chuyện đó được. Anh không phải là thầy pháp hay thầy phù thủy.”
“Nhưng anh có phép thuật, giống như em.”
“Không phải theo cách đó,” Charlie lẩm bẩm.
Nó quyết định kể cho Billy nghe về cây gậy phép. Charlie chui xuống gầm giường và lôi ra một bức tranh nhỏ. Bức vẽ một người đàn ông mặc áo chùng đen dài, tóc đen ánh bạc, cùng màu với bộ râu quai nón. Ông ta đang đứng trong một căn phòng được thắp sáng bằng đèn cầy, cắm trong một giá đỡ kim loại cao. Cầm một mẩu phấn, ông ta đang vẽ hình một ngôi sao lên một bức tường đá đã đầy những biểu tượng lạ.
“Học kỳ trước anh đã mang bức tranh này vô trường rồi phải không?” Billy hỏi.
“Ờ. Ông này là phù thủy Skarpo. Anh đã lấy cắp cây gậy phép từ ông ta.”
Quai hàm Billy trễ xuống. Nó quay qua và nhìn Charlie bằng một tia nhìn dài, chằm chằm, màu đỏ đậm.
“Anh…?” Thằng bé lạc giọng.
“Anh đã đi vô bức tranh này,” Charlie nói. “Trước đó anh chưa làm vậy bao giờ, anh chỉ nghe được tiếng nói thôi.”
Bất chợt, Charlie đụng phải ánh mắt của phù thủy Skarpo, nó vội lật úp bức tranh lại.
“Anh cấm không được nhìn ông ta lâu, kẻo ông ta lại kéo anh vô nữa.”
Billy lắc đầu thắc mắc:
“Làm sao anh ra được?”
“Cái này hơi rắc rối một chút: Lysander phải phụ anh.”
Charlie liếc nhìn Billy, một lần nữa phân vân liệu mình có thể thật sự tin thằng bé hay không. Và nó quyết định sẽ phải liều thôi.
“Vấn đề là, Billy, anh nghĩ anh phải đi vô đó lần nữa. Thầy phù thủy đó rất hùng mạnh. Ông ta có rất nhiều món ở trong phòng, em có thấy không? Thảo mộc, lông chim và nhiều thứ.”
“Ông ấy có một con dao găm. Em thấy nó kìa.”
Charlie giơ bức tranh lên cho Billy:
“Em còn thấy gì nữa?”
“Tô, sách, hũ đựng nước đủ màu, những cây đèn cầy to và những hình vẽ ở trên tường. Ô, có một con chuột lòi ra khỏi túi quần ông ấy, và những thứ lỉnh kỉnh khác ở trên bàn.”
“Có lẽ ông ta có thuốc chữa cho Ông cậu của anh,” Charlie nói. “Nếu anh trả cây gậy phép cho ông ta, thì ông ta sẽ đưa lại anh cái gì đó. Anh sẽ hỏi ông ta về Ollie. Có thể ông ta cũng biết cách chữa chứng vô hình.”
“Hôm nay không có anh Lysander ở đây,” Billy nói, vẻ nghi ngờ. “Nhỡ anh không ra được thì sao?”
“Chính vì vậy mà anh cần nhờ tới em, Billy. Em chỉ việc nắm chặt cánh tay anh, được không? Nếu anh hành xử kỳ quặc thì em cứ lay anh thật mạnh. Anh không đi vô hẳn đâu, em sẽ thấy. Chỉ có tâm trí anh vô đó thôi. Nhưng ông ta có thể nhìn thấy mặt anh, và chắc chắn thấy cả cây gậy phép. Anh sẽ không đi vô sâu như lần trước, anh chỉ đứng ngoài và nói chuyện với ông ta thôi.”
Charlie dựng bức tranh tựa vô chiếc đèn bên cạnh giường. Rồi nó đứng lên và giơ cây gậy phép ra trước mặt.
“Em sẵn sàng chưa?”
Billy tuột khỏi giường và nắm chặt lấy cánh tay của Charlie:
“Sẵn sàng.”
Charlie nhìn thầy phù thủy. Skarpo không cần phải mất nhiều thời gian để thấy Charlie.
“Mày đã trở lại,” một giọng khàn khàn ề a cất lên.
Charlie cảm thấy mình bị trượt về phía trước, xuyên qua một làn sương mù trắng, trôi lãng đãng. Tất cả những gì nó thấy là gương mặt xương xương của thầy phù thủy. Nó vội hạ mắt xuống để tránh cái nhìn chằm chặp ma thuật, vàng khè của Skarpo. Mùi thảo mộc cháy nồng nặc xông vô lỗ mũi, khiến nó hắt hơi ầm ĩ.
“Thôi ngay!” Giọng nói quát lên.
“Hắt… xì. Ch…cháu xin lỗi. Cháu không ngừng lại được,” Charlie nói.
Nó nhìn sượt qua cái thân hình bận áo chùng đen, và quét một lượt các đồ vật để trên bàn.
“Lần này mày muốn gì, thằng trộm kia?” Skarpo quát.
“Cháu mang trả lại cây gậy phép cho ông,” Charlie bảo. “ Và cháu thắc mắc…”
“Hả?” Hình như Skarpo nhìn vô cây gậy phép. “ Mang nó đi,” ông ta nói bằng giọng trầm.
“Nhưng cháu nghĩ là ông muốn lấy nó,” Charlie nói. “Lúc cháu lấy nó đi, ông đã rất giận dữ. Cháu trở lại để đổi nó lấy… lấy một lời khuyên. Quả thật, ông có rất nhiều kinh nghiệm về phép thuật và tất cả mọi thứ. Cháu nghĩ ông có thể giúp cháu.”
“Cây gậy không phải của ta, thằng nhóc, giờ thì ta thấy như thế rồi.”
Thầy phù thủy vẫn không thể rời mắt khỏi cây gậy phép.
“Ừm… Không bao giờ ta có được nó. Nó luôn luôn là của mày.”
“Cháu không hiểu,” Charlie bối rối. “Nó không phải là của cháu. Nhưng mà, vấn đề là, Ông cậu của cháu bị bệnh, nặng tới nỗi mất cả phép thuật mà ông ấy vẫn có. Chính ông ấy là người đầu tiên nói cho cháu biết về ông, ừm, vì vậy, ông có thứ gì để chữa cho người có phép thuật bị mất phép thuật không ạ?”
“Tao phải gặp Ông cậu của mày,” Skarpo dấn một bước về phía Charlie.
“Ông không thể làm được vậy,” Charlie lùi lại một bước.
Skarpo tiến lên gần hơn.
“Tao cần phải thế, thằng nhóc kia. Làm sao tao có thể giúp được một người mà tao không thấy? Ngoài ra, tao muốn xem thế kỷ của mày.”
“Không được,” Charlie dứt khoát. “Ông thuộc về cái thời bức tranh vẽ ông.”
“Tao sẽ đi quá giang mày.”
Bàn tay tím tái của thầy phù thủy vươn về phía Charlie, và Charlie cảm thấy có cái gì đó giật mạnh chiếc áo len dài tay của nó. Nó bước giật lại, miệng la:
“Không! Không! Không! Cháu đi đây. Đi ngay! Ngay!”
Và nó lùi lại một lần nữa. Lần này nó trượt chân và té nhào. Giống như bị đẩy vút lên không rồi lộn nhao xuống, xuống, và cứ thế xuống vậy.
Charlie đành nhắm mắt lại để chống lại cảm giác bị quăng liệng và nhồi xóc đang diễn ra trong cơ thể mình. Và rồi, gáy nó chợt đụng phải một vật cứng, kèm theo một tiếng rầm lớn.
Charlie mở mắt ra. Nó đang nằm dưới sàn phòng ngủ của nó, đúng ra không hẳn là dưới sàn, mà là nằm trên một thứ gì đó nhỏ và mấp mô.
Một giọng bị nghẹt lại ngay dưới thân nó kêu lên.
“Charlie, anh đè em!”
Charlie lật qua một bên thì thấy Billy nằm xuôi xị bên cạnh. Cặp kiếng của thằng bé văng đi mất, mắt nó trợn trừng sợ hãi.
“Xin lỗi,” Charlie làu bàu. “ Chuyện gì xảy ra vậy?”
“Kinh… Kinh khủng quá!”
Billy lắp bắp, ngồi dậy. Nó mò kiếm được mắt kiếng rồi đeo lên.
“Em giữ chặt lấy anh như anh dặn, nhưng anh cứ đổ tới đổ lui, miệng la rầm, ‘Đi ngay! Ngay!’ Sau đó anh đạp lên chân em và cả hai cùng té xuống. Em không trông thấy cái gì tại vì anh nằm đè lên em, nhưng có một luồng gió mạnh lắm, và có ai đó dẫm phải tay em, xong cánh cửa bật mở tung.”
Đúng lúc đó, cánh cửa trước đập cái rầm. Hai thằng bé im re, chờ nghe tiếng bước chân trong hành lang. Nhưng chẳng có ai. Charlie nhổm dậy và nhìn ra ngoài cửa sổ. Có mấy người qua lại trên đường, vài chiếc xe vụt qua. Và rồi, ở phía xa, nó trông thấy một mảng tối lướt đi thiệt lẹ, in rõ vô ánh đèn đêm.
Charlie bỗng cảm thấy buồn nôn. Là do bị cụng đầu, hay là do cảm giác rằng có một cái gì đó vừa bị sai lệch – nó không chắc.
“Chuyện gì xảy ra ở đó vậy?” Billy hỏi, chỉ vô bức tranh.
Charlie nhận thấy thầy phù thủy vẫn còn ở trong tranh. Điều này khiến nó yên lòng. Nó đặt bức tranh lật úp xuống trên chiếc bàn ngủ.
“Ông ta muốn ra ngoài,” Charlie nói.
“Hình như ông ta đã ra rồi,” Billy bảo.
“Không. Không thể nào. Chuẩn bị đi ngủ nào. Em dùng nhà tắm trước đi.”
“Hai thằng bé thay đồ ngủ và Billy mang bàn chải, khăn mặt vô nhà tắm. Vài phút sau trở ra, miệng dính đầy kem đánh răng, hai tay đỡ một con chuột đen.
“Coi em kiếm được gì này,” Billy phấn khích.
“Rembrandt! Nó ở đâu vậy?
“Ở trong nhà tắm, dưới bồn tắm,” Billy đặt Rembrandt lên giường của Charlie. “ Rất vui được gặp lại mày, Rem!”
“Anh nghĩ là anh không muốn con Rem ở trên giường anh đêm nay.”
Charlie nói, đoạn chạy xuống nhà bếp để kiếm một chiếc hộp.
Rủi quá, nội Bone đang ở trong nhà bếp, và đang soàm soạp một tô mận nữa.
“Mày kiếm gì đấy?” Bà giật giọng hỏi khi Charlie lục lọi trong kho đựng đồ ăn.
“Một cái hộp,” Charlie nói.
“Để làm gì? (Soạt)”
“Để đựng đồ,” Charlie chui ra với cái hộp trong tay và sáu chiếc bánh quy trong túi áo ngủ.
“Đựng gì? Thằng kia!” Nội Bone đớp hụt và một trái mận rớt xuống khăn trải bàn.
“Bụp!” Charlie giả tiếng trái mận rớt.
“Mày cất gì trong cái hộp đó?”
“Một con quỷ sáu mắt, bốn đuôi và hơi thở hôi hám,” Charlie nói, chạy ra khỏi phòng.
“Đừng có xấc láo,” nội Bone gào.
Nội nhảy đỏng ra ngoài hành lang, định thét lác cái gì đó nữa, nhưng thình lình lại đổi ý và nói ngọt xớt.
“Chúc thằng bé đó ngủ ngon cho ta nhé.”
Charlie ớn lạnh vì giọng nói ấy của bà nội, tới độ sém đánh rớt cái hộp. Phải chăng bà nội nghĩ bà có thể dùng Billy để chống lại nó?
“Phùùù, nội thích em đó,” nó nói, đưa cho Billy cái hộp. “Cái này cho Rembrandt. Anh lấy vài cái cho nó ăn tối. Billy? Billy?”
Đôi lông mày Billy nhíu lại gần như giao nhau.
“Em sao vậy?” Charlie hỏi.
“Em đang nói chuyện với Rembrandt,”. Billy nói với giọng hoang mang.
“Nhìn bộ điệu nó thì có vẻ nó đang báo cho em tin xấu,” Charlie nhận xét.
“Nó nói có mùi kinh lắm trong nhà tắm.”
“Lúc nào mà chẳng có mùi kinh khủng,” Charlie bảo. “Đó là nội Bone.”
“Không phải, Charlie. Cái này khác.” Billy nói rành rọt. “Rembrandt nói, nó ngửi thấy mùi ma thuật hắc ám và những thứ lẽ ra đã chết rồi.”
Charlie cố cưỡng lại để khỏi phun ra câu, “Anh cũng tính nói thế.” Nó thận trọng đi vô nhà tắm, có Billy đi theo, tay vẫn nắm chặt Rembrandt.
“Chẳng ngửi thấy gì cả,” Charlie nói, mở cửa ra.
“Nhìn kìa!” Billy thì thầm. “Dưới bồn tắm ấy.”
Charlie nhìn. Ngồi bên dưới bồn tắm là một con chuột màu nâu. Con chuột bắt đầu kêu chít chít, hoảng loạn, và trong khi con chuột kêu, Rembrandt hòa theo, chít lên thậm chí còn lớn hơn con chuột nâu.
Billy liền diễn dịch những từ rin rít của con Rembrandt cho Charlie nghe, nếu có thể gọi đó là từ.
“Nó nói… con chuột này rất sợ… vì nó không biết… nó ở đâu… hoặc làm sao nó ở đây. Rembrandt nói mùi của con chuột đó là từ xưa, rất xưa, xưa tới nỗi làm đầu óc nó rối loạn.”
“Xưa rất xưa?” Charlie nhìn Billy, mắt thằng bé chứa đầy nỗi hoang mang pha lẫn nghi ngờ.
“Skarpo có một con chuột ở trong túi,” Charlie chậm rãi nói.
“Vậy, Skarpo đâu?” Billy thì thào.