Còn Hoa Trứ Vũ, sau cái đêm du ngoạn Thanh hồ, Hoàng Phủ Vô Song đã thăng nàng lên thành thái giám tùy thân, cũng coi như được thăng chức. Tuy mỗi ngày vẫn phải làm những việc vụn vặt như bưng trà rót nước, nhưng vẫn có thể nghe ngóng được những việc trong triều.
Có một ngày, Hoàng Phủ Vô Song vừa ra khỏi ngự thư phòng, chắc do đã bị nhóm Thái Phó lải nhải phát phiền, nên kéo Hoa Trứ Vũ với vài tên tiểu thái giám đi đến ngự hoa viên giải sầu. Mới đi được nửa đường, liền nhìn đến phía trước có mấy tiểu thái giám vây quanh một con ngựa cao lớn, đang đi về phía này.
Hoàng Phủ Vô Song vừa thấy tình cảnh này, cuống quít dẫn mấy tên tiểu thái giám đứng gọn vào một bên đường, cúi đầu yên lặng. Chưa đầy một nén hương sau, đã nghe thấy tiếng vó ngựa càng lúc càng gần, còn có một giọng nói nhẹ nhàng, trong trẻo: “Thái Tử ca ca, sao huynh lại ở đây!”
Hoa Trứ Vũ ngước mắt, chỉ thấy phía trên con ngựa màu tuyết trắng đang đi tới kia là một thiếu niên, thiếu niên kia cùng lắm mới có mười lăm, mười sáu tuổi, bộ dáng cũng không thể coi là đẹp, nhưng không có sự kiêu căng như Hoàng Phủ Vô Song, rất dễ gần. Nhưng, có vẻ như thiếu niên này từ nhỏ đã luôn ốm yếu, bệnh tật, sắc mặt tái nhợt, trong mắt cũng đầy vẻ hư nhược.
“Ta còn đang không hiểu, phụ hoàng vốn luôn ngồi xe ngựa đi lại trong cung, chưa bao giờ cưỡi ngựa, sao hôm nay lại cưỡi ngựa như vậy, chẳng lẽ là muốn đi săn bắn? Nhưng ta chưa từng nghe ai nhắc tới chuyện đó! Thì ra là tên tiểu tử nhà ngươi, còn không xuống mau!” Hoàng Phủ Vô Song bước đến trước mặt thiếu niên, một tay ghì chặt lấy đầu con ngựa trắng.
Thiếu niên kia cũng không ngờ Hoàng Phủ Vô Song lại giữ ngựa của hắn lại, gương mặt vốn đang tái nhợt càng thêm trắng bệch, hắn nhìn Hoàng Phủ Vô Song, khẽ hỏi: “Thái Tử ca ca, huynh định làm gì vậy?!”
“Vô Thương, lá gan của ngươi bắt đầu lớn từ khi nào vậy, ngươi nghĩ ai cũng có thể tùy tiện cưỡi ngựa trong cung sao? Ngoài bản Thái Tử với phụ hoàng, ngươi được phép cưỡi ngựa sao, còn không xuống mau.” Hoàng Phủ Vô Song vừa nói, vừa giơ tay áo lên, ra vẻ như sắp túm Hoàng Phủ Vô Thương lôi xuống. Hoàng Phủ Vô Song bị đám Thái Phó làm cho bực bội, đang không có chỗ phát tiết, đủ có thể thấy, Hoàng Phủ Vô Thương sẽ gặp xui xẻo.
Những thị vệ đi theo sợ hãi, cuống quít xông lên ngăn lại, có người thận trọng bẩm báo: “Thái Tử điện hạ, chân Nhị điện hạ đi lại không tiện, là Hoàng Thượng đặc chuẩn cho Nhị điện hạ cưỡi ngựa trong cung!”
“Đi lại không tiện, không phải còn có kiệu sao?……” Hắn chưa nói hết câu, liền sững sờ đứng yên tại chỗ.
Cẩn thận suy nghĩ, cảm thấy đầu óc muốn nổ tung.
Cưỡi ngựa trong cung, là đặc quyền các hoàng đế triều đại trước ban cho Thái tử, các hoàng tử không có đặc quyền này. Nhưng cũng không phải không có ngoại lệ, và những ngoại lệ kia đều xảy ra biến cố.
Vĩnh đế tiền triều từng ban cho Tam hoàng tử của mình đặc quyền này, sau đó không lâu, Thái Tử bị phế, lập Tam hoàng tử kia lên làm tân Thái Tử. Cho nên, có thể nói việc ban cho hoàng tử đặc quyền cưỡi ngựa trong cung là đại diện cho việc phế bỏ Thái Tử, cũng là tuyên bố ngầm của hoàng đế.
Hoàng Phủ Vô Song sững sờ đứng ở nơi đó, ánh nắng đầu hạ tuy không có mãnh liệt, còn có cả một tầng lá cây dày đặc che kín, nhưng khi chiếu lên khuôn mặt hắn, có thể nhìn thấy trên trán hắn đang chảy mồ hôi lạnh.
“Được, được lắm, nếu phụ hoàng đặc biệt ân chuẩn, vậy ngươi đi đi!” Hắn phất phất tay, trên môi nở nụ cười lạnh, trong mắt có một tia lạnh lẽo. Không chờ Hoàng Phủ Vô Thương rời đi, hắn đã đi trước một bước.
Hoa Trứ Vũ và mấy tiểu thái giám cuống quít chạy theo sau, trước khi rời đi, Hoa Trứ Vũ còn lặng lẽ nhìn qua Nhị hoàng tử Hoàng Phủ Vô Thương không được sủng ái này, chỉ thấy hắn ngồi ngay ngắn trên ngựa, nhìn về phía Hoàng Phủ Vô Song vừa rời đi, con ngươi màu đen của hắn, lộ ra một cỗ khí thế xuất trần.
Đông cung.
Toàn bộ cửa sổ chạm trổ bằng gỗ hoa lê đang mở rộng, tuy đang là đầu hạ, nhưng gió đêm vẫn có phần lành lạnh, mỗi lần phần phật thổi qua, đều làm những cánh cửa sổ kia phát ra âm thanh kẽo kẹt.
Hoàng Phủ Vô Song ngồi gần bên một khung cửa sổ, nhìn về phía dãy phòng sau hoa viên, trên đầu không mang ngọc quan, một mái tóc đen rơi xuống, nhẹ nhàng phiêu đãng theo gió đêm.
Từ sau khi trở về, đến bữa tối hắn cũng không dùng, chỉ yên lặng ngồi ở đó, tính ra, cũng đã gần hai canh giờ. Hai canh giờ liền ngồi yên không nhúc nhích cũng không khó, nhưng đối với Hoàng Phủ Vô Song thì lại có phần kỳ quái.
Thường thường, nếu như gặp chuyện không vui, Hoàng Phủ Vô Song sẽ đến bãi đất trống sau hoa viên đánh bao cát, hoặc coi các tiểu thái giám như bao cát mà đánh đấm một trận. Khiến trong cung gà bay chó sủa, nhưng hắn lại không làm gì, chỉ yên lặng ngồi ở nơi đó, không tức giận, không ra oai, nhưng lại khiến những cung nữ, thái giám nơm nớp lo sợ. Giống như bầu trời âm u, không biết lúc nào sẽ nổ sấm.
Hoa Trứ Vũ là thái giám tùy thân của Hoàng Phủ Vô Song, chủ giận không ăn cơm, nàng cũng không thể ăn cơm. Chủ giận ngồi ngẩn người, nàng cũng phải ngẩn người theo.
Nhưng nàng có thể hiểu được, vì sao Hoàng Phủ Vô Song lại trở nên như vậy.
Mọi chuyện hôm này nàng cũng đã nhìn thấy, nếu là nàng, cũng sẽ cảm thấy khổ sở.
Nếu Viêm Đế sớm làm như vậy, thì Hoàng Phủ Vô Song đã cảm nhận được mối nguy hiểm cận kề, nhưng trước nay hắn chỉ nghĩ mẫu thân mình là hoàng hậu, nghĩ tới huynh đệ của mình là người tàn tật, thiên hạ này sớm muộn gì cũng sẽ là hắn.
Ánh trăng thản nhiên trèo lên trên cao, tỏa ra vô số sợi bạc quấn quít quanh cửa sổ. Những nhánh dây hoa trắng bò quanh gốc cây, càng hắt lên ánh sáng tịch mịch, như đồng cảm với khuôn mặt giá rét của Hoàng Phủ Vô Song.
Có một tiểu thái giám không biết tâm trạng Hoàng Phủ Vô Song đang cực xấu, trên đầu đầy mồ hôi vội vã chạy tới, trên cánh tay còn có một con chim ưng, mở miệng tranh công: “Điện hạ, mấy hôm trước ngài bảo nhóm nô tài hầm ưng, quả thật là rất vất vả, điện hạ nhìn xem, nhất định con này sẽ vượt qua con của Cao công tử.”
Bọn công tử quý tộc Nam Triều, rảnh rỗi không có việc gì làm, đều tự đi tìm thú vui cho mình, thí dụ như: Xúc cúc, hầm ưng……
Việc hầm ưng đòi hỏi phải có kỹ thuật cao, sau khi chọn được con ưng tốt, ngay từ đầu phải thuần phục dã tính của nó, phải bỏ đói nó. Đem ưng đặt lên trên cánh tay, mấy ngày liền không được cho con ưng kia ăn gì, cũng không cho nó ngủ. Chỉ cần vừa mơ màng, là phải lay cho con ưng tỉnh lại. Quá trình ‘hầm’ này xảy ra trong vòng mấy ngày, nên một người không thể làm được, mà phải có vài người thay phiên nhau.
Hầm ưng như vậy, thì khi đến ngày phóng ưng, mọi người sẽ đến ngoại ô. Lúc thả ra, nó sẽ rất dũng mãnh, dù là con thỏ hay con báo nào, cũng không thoát khỏi cặp mắt nhạy bén của nó.
Lúc đầu Hoàng Phủ Vô Song còn cảm thấy mới lạ, còn tự mình hầm, nhịn ăn hai ngày đã không chịu nổi, liền giao cho mấy tên tiểu thái giám làm thay.
Bây giờ, tiểu thái giám này đã nhịn ăn liên tục mấy ngày, cảm thấy đã có kết quả, liền chạy tới tranh công với Hoàng Phủ Vô Song.
Hoàng Phủ Vô Song nghe thấy lời của tiểu thái giám, chỉ thở hắt ra một hơi, mệt mỏi quay người lại, đôi mắt ảm đạm đột ngột trở nên lợi hại, giống hệt như con chim ưng đang đậu trên tay tiểu thái giám.
“Thả nó đi!” Hoàng Phủ Vô Song xoay người nhảy ra khỏi lan can cửa sổ.
Tiểu thái giám nhất thời cảm thấy choáng váng, tay chân luống cuống thả con ưng trên cánh tay ra ngoài, con ưng kia được tự do, lập tức vỗ cánh bay xa.
Hoa Trứ Vũ khẽ nhíu mày, xem ra, Hoàng Phủ Vô Song cũng không định làm một người xúc cúc hầm ưng sống qua ngày nữa.
Vào trong điện, Hoàng Phủ Vô Song đang ra lệnh bày thức ăn, làm mấy tiểu thái giám cuống quít bưng món ăn lên. Hoàng Phủ Vô Song ngồi gẩy gẩy hạt cơm, vừa hỏi: “Giang Bắc không mưa, khiến hạn hán kéo dài, một hạt thóc cũng không thu được, phụ hoàng đang muốn mở quốc khố cứu giúp nạn dân, hôm nay Thái Phó hỏi bản điện hạ có thể làm được việc này không, các ngươi cảm thấy bản điện hạ có nên đi không?”
Hoa Trứ Vũ trầm mặc, Hoàng Phủ Vô Song làm Thái Tử nhiều năm, nhưng chỉ giúp Hoàng Thượng xử lý một số việc vụn vặt, những chuyện đại sự, vẫn chưa cho hắn nhúng tay vào. Nếu lần này hắn có thể hoàn thành việc phát chẩn, tin rằng Viêm Đế sẽ không coi hắn chỉ là một đứa bé ngỗ nghịch như trước. Nhưng, việc phát chẩn, không hề đơn giản, bởi một khi có hạn hán hay nạn úng, thường đi kèm với sự bạo loạn của nạn dân.
Hoa Trứ Vũ ở Tây Cương nhiều năm, những chuyện như vậy đã nhìn thấy không ít.
Nhưng, những chuyện kiểu này, cần phải có một đại thần trong triều tiến cử, Hoàng Thượng không thể đích thân tuần du, nhưng Thái Tử thì có thể.
“Mặc kệ, lần này không đi không được.” Hoàng Phủ Vô Song không đợi mấy tiểu thái giám kia đáp lời, liền buông đũa xuống, kiên định nói. Hôm nay ở ngự thư phòng, có vài vị Thái Phó nhắc nhở hắn chuyện này, nhưng hắn chỉ cảm thấy họ thật phiền phức. Còn bây giờ, hắn lại cảm thấy vô cùng quan trọng. Có lẽ, hắn bị hình ảnh Hoàng Phủ Vô Thương cưỡi ngựa trong cung kích thích, khiến hắn cảm thấy, mình cũng nên làm chuyện gì đó!
“Không biết nô tài có thể đi cùng điện hạ không?” Hoa Trứ Vũ lẳng lặng hỏi.
Hoàng Phủ Vô Song ngẩng đầu, nheo mắt nhìn Hoa Trứ Vũ, lại chỉ nhìn thấy một đôi mắt trong suốt như dòng nước mát, còn có vẻ trầm tĩnh mà cứng cỏi, khiến tâm trạng đang rối bời của hắn dần ổn định trở lại.
Hắn xiết chặt hai hàng lông mày, liếc nhìn Hoa Trứ Vũ nói: “Đương nhiên là phải dẫn theo ngươi, có tội cũng phải để ngươi chịu trước tiên!”
Ngày thứ hai, lúc lâm triều, Viêm Đế hạ chỉ, ra lệnh cho Bộ Hộ chuẩn bị hàng hóa và tiền bạc, giao cho thống lĩnh cấm quân Trương Nham hộ tống, Thái Tử Hoàng Phủ Vô Song làm khâm sai, đi tới Giang Bắc phát chẩn.
Từ kinh thành tới Giang Bắc, nếu đi thẳng một mạch, cũng mất khoảng mười ngày đi đường.
Riêng thị vệ đi theo Hoàng Phủ Vô Song đã rất đông, chậm chạp như thế, lúc tới được Giang Bắc, cũng mất tới nửa tháng. Tới ngày thứ mười hành trình, đã nhìn thấy hoa màu hai bên đều đang khô cạn, héo úa, xem ra đã sắp tới Giang Bắc, tình hình càng lúc càng nghiêm trọng.
Buổi chiều, bọn họ ở lại trong dịch trạm, những hàng hóa và ba mươi vạn lượng phát chẩn được hơn một trăm quan binh canh giữ.
Dịch trạm này là nơi hẻo lánh, ngày thường cũng ít người lui tới, nằm ngay vị trí ngoại ô. Dưới ánh trăng u ám, không ngừng có tiếng ve truyền tới, tiếng động cũng có phần ghê người.
Dùng xong bữa tối, Hoàng Phủ Vô Song nằm bẹp xuống giường ngủ thiếp đi, tuy được ngồi xe ngựa, nhưng đi liên tục trong vòng mấy ngày, cũng khiến hắn mệt chết đi.
Hoa Trứ Vũ cũng rất mệt, huống hồ, nàng còn không được ngồi xe ngựa. Thái giám tùy thân đi theo lần này chỉ có nàng và Cát Tường, đãi ngộ hoàn toàn giống với những quan binh và thị vệ khác, được cưỡi ngựa đi theo.
Nhưng, dù Hoa Trứ Vũ đã rất mệt, lại không hề buồn ngủ chút nào, càng đến gần Giang Bắc, nàng càng lo lắng về số ngân lượng phát chẩn kia hơn, không biết có thể bị cướp đoạt hay không. Tuy nàng đã tìm hiểu ở đây không có thổ phỉ, nhưng, nhiều ngân lượng như vậy, làm người ta không thể yên tâm.
Bóng đêm càng lúc càng tĩnh mịch, nàng bước ra khỏi phòng, đi tuần tra hậu viện trạm dịch một phen.
Tình hình còn tốt hơn so với tưởng tượng của nàng, có một nửa quan binh đang nghỉ ngơi, một nửa khác cầm theo đao kiếm cẩn thận tuần tra. Những người vừa hết phiên chưa ngủ lại được, đang túm năm tụm ba nói chuyện dưới gốc cây.
Trương Nham nhìn thấy nàng đến, liền đứng dậy hỏi: “Bảo công công, không biết điện hạ đã nghỉ ngơi chưa?”
Hoa Trứ Vũ thanh thanh nói: “Đã ngủ được rồi, trước khi ngủ còn ra lệnh cho bản công công tới nói với Trương tướng quân một tiếng, ban đêm phải tăng cường cảnh giới!”
Trương Nham vuốt cằm nói: “Bản tướng hiểu, mong điện hạ yên tâm.”
Hoa Trứ Vũ gật đầu, Trương Nham này, nhìn qua võ công cũng không tệ, thuộc hạ của hắn, cũng là những binh sĩ nổi bật trong quân đội, nếu là những thổ phỉ bình thường, sợ là cũng không dám mơ tưởng tới những ngân lượng này.
Nhưng, Hoa Trứ Vũ không ngờ, đêm đó, ba mươi vạn ngân lượng đã không cánh mà bay.
Lúc Hoàng Phủ Vô Song nghe được tin tức, vội vàng bật dậy, cũng không rửa mặt chải đầu, liền xông ra ngoài.
Mặt trời vừa mới dâng lên phía đường chân trời, soi sáng mọi chỗ trong sân. Nhưng trong sân lúc này lại rất trống trải, ngay cả mấy chiếc xe ngựa chở hàng hóa và ngân lượng cũng không thấy. Các quan binh nằm rạp trên mặt đất, không biết đã trúng khói mê, hay là Mông Hãn dược, hôn mê bất tỉnh. Hoàn toàn không phải do thổ phỉ quá lợi hại.
Cát Tường bưng tới một chậu nước, hắt vào người Trương Nham cho tỉnh lại.
Hắn mở mắt ra, nhìn thấy khoảng sân trống rỗng và vẻ mặt tức giận của Hoàng Phủ Vô Song, cuống quít quỳ rạp xuống đất, dập đầu cầu xin tha thứ.
Nhưng cầu xin có ích lợi gì đây?
Hoa Trứ Vũ nhìn quanh một vòng, vẫn chưa nhìn thấy dấu vết gì, còn nếu có tiếng đánh nhau, thì nàng đã nghe được.
“Các ngươi đều là lũ ngu ngốc, không mau chia ra tìm, đi theo vết bánh xe tìm cho ta, có đào sâu ba thước cũng phải lôi được bạc ra.” Hoàng Phủ Vô Song lạnh lùng nói, giọng nói thô ráp tràn đầy sát khí.
Bọn quan binh vừa được hắt tỉnh, vác theo cả người ẩm ướt vội vàng chạy ra ngoài tìm kiếm.
Vết bánh xe đi theo rất nhiều hướng, khi đuổi tới điểm cuối cùng, chỉ tìm được mấy chiếc xe ngựa, còn ngân lượng thì không tìm ra. Chỗ này là nơi rừng núi hoang vu, ở gần đây chỉ có ba trấn nhỏ, trong vòng một đêm, cũng đủ để đi đến một trong ba trấn đó. Mấy chiếc xe ngựa chỉ là thứ dùng để đánh lạc hướng, thổ phỉ bình thường không thể làm được như vậy.
Bọn họ ở lại dịch quán hai ngày, nhưng vẫn không có tin tức gì.
Ba mươi vạn ngân lượng.
Đã hai ngày liền, Hoàng Phủ Vô Song ăn không ngon ngủ không yên, giống như muốn biến đám quan binh này thành bạc ngay lập tức. Đến phút cuối cùng, Hoàng Phủ Vô Song chỉ có thể cam chịu số mệnh viết một lá thư, gửi về xin Viêm Đế phát chẩn ngân lượng lần nữa.
Nhưng nếu làm như vậy, Viêm Đế sẽ rất tức giận.
“Điện hạ, hay là che giấu chuyện này lại!” Tuy Hoa Trứ Vũ còn đầy nghi vấn việc ngân lượng bị mất tích, nhưng, cho dù thế nào, nếu chuyện này mà để Viêm Đế biết được, thì hoàn toàn bất lợi với Hoàng Phủ Vô Song.
“Che giấu, ngươi nói thật dễ nghe, người bảo bản điện hạ biết đào đâu ra ba mươi vạn lượng bạc?” Hoàng Phủ Vô Song nắm chặt tay, ảo não nói.
“Điện hạ, chúng ta có thể đi mượn!”
“Mượn?” Hai mắt Hoàng Phủ Vô Song sáng ngời, nhưng lập tức lại trở nên ảm đạm, “Có thể đi đâu mượn đây, đừng nói người ta có chịu hay không, mà làm gì có ai có nhiều ngân lượng tới mức đó!”
“Thật ra, có một người, chúng ta có thể tới xin hắn giúp đỡ.” Hoa Trứ Vũ suy tư một lát, chậm rãi nói, “Không biết ngài đã nghe qua cái tên Nam Bạch Phượng Dung Lạc chưa?”
Hoàng Phủ Vô Song hừ lạnh một tiếng: “Không phải chỉ là một tên chuyên dùng danh tiếng mua chuộc người khác sao, ngươi nhắc tới hắn làm gì?”
“Điện hạ, nô tài có nghe một người huynh đệ kể qua, người này rất có danh tiếng trên giang hồ, nghe nói hắn chính là người phú khả địch quốc đấy.” Cát Tường vừa nghe thấy Hoa Trứ Vũ nhắc tới Dung Lạc, liền hăng hái nói, “Còn nghe nói người này có một khu nhà ở – Tây Giang Nguyệt. Đúng rồi, Tây Giang Nguyệt cách nơi này cũng không xa, Nguyên Bảo nói rất đúng, điện hạ có thể tìm hắn giúp đỡ.”
“Tây Giang Nguyệt, là thanh lâu, đổ phường (chỗ bài bạc), hay là tửu lâu?” Hoàng Phủ Vô Song nghi ngờ hỏi.
“Không không, chỉ là một lầu các, nằm bên bờ sông Tùng Giang, nghe nói sáu ngày đầu tiên của tháng, sẽ có rất nhiều người cần giúp đỡ cầm bái thiếp đến Tây Giang Nguyệt, mỗi ngày, hắn sẽ phái thuộc hạ thu nhận bái thiếp. Cho dù là bất kỳ ai cầm bái thiếp tới, chỉ cần có khó khăn hay gặp phải những chuyện không thể làm được, đều có thể viết vào đó. Chỉ cần là việc hắn có thể làm, hắn sẽ tiếp nhận bái thiếp của người đó.” Cát Tường chậm rãi nói.
Những lời của Cát Tường, Hoa Trứ Vũ cũng từng nghe Đan Hoằng nói qua, đó là lần đầu tiên Đan Hoằng kể về tứ đại tuyệt thế nam tử với nàng, nàng còn nhớ rõ mình đã gượng gạo cười hỏi: “Nam Bạch Phượng, dựa vào cái gì hắn có thể xếp ở vị trí thứ nhất, tuy bản tướng quân không có tài cán gì, nhưng cũng là vì nước vì dân, trấn thủ biên quan, anh dũng giết địch. Tại sao lại xếp hạng sau hắn? Thật không công bằng!”
Đan Hoằng cười nói: “Nam Bạch Phượng tuy không trấn thủ biên quan, nhưng cũng đã làm rất nhiều chuyện tốt cho dân chúng.”
Lúc ấy Đan Hoằng từng nhắc tới Nam Bạch Phượng Dung Lạc ở Tây Giang Nguyệt, phàm là người có oan ức hay tai họa gì, mà tự mình không thể giải quyết, đều có thể tới xin hắn giúp đỡ, mà hắn, chỉ cần là việc có thể làm, thì đều nhận lấy bái thiếp, giúp người đó hoàn thành. Giúp đỡ cho một gia đình, chính là giúp cho nhân dân trăm họ, giúp đỡ nhân dân trăm họ, còn thực tế hơn việc trấn thủ biên quan của nàng nhiều.
“Điện hạ, nô tài cảm thấy có thể thử một lần, Nam Bạch Phượng này, nếu đã có danh phú khả địch quốc. Ba mươi vạn lượng đối với hắn có lẽ chỉ là chuyện nhỏ.” Hoa Trứ Vũ ngân nga nói.
“Chúng ta mượn ngân lượng thì phải trả lại thế nào? Đến lúc đó không có khả năng hoàn trả, thì chẳng phải phụ hoàng cũng sẽ biết sao, thế không bằng trực tiếp viết thư gửi về cho phụ hoàng mở quốc khố mang ngân lượng tới.” Hoàng Phủ Vô Song cau mày nói.
Hoàng Phủ Vô Song nói không sai, tuy mượn ngân lượng để phát chẩn thiên tai, nhưng, đến lúc đó cũng phải mang bạc trong quốc khố đi trả nợ, đến lúc đó, Viêm Đế vẫn sẽ biết chuyện Hoàng Phủ Vô Song làm mất ba mươi vạn lượng tiền phát chẩn.
Kết quả hai việc này hoàn toàn giống nhau.
Nhưng, nếu không dùng tới bạc trong quốc khố, thì vẫn có thể che giấu được chuyện này.
“Điện hạ, chúng ta cứ đi mượn trước, nếu thật sự có thể mượn được, giải quyết việc quan trọng trước mắt. Đến lúc đó, sẽ nghĩ cách khác kiếm ngân lượng, cũng có thể tìm ra số ngân lượng bị mất không biết chừng.” Hoa Trứ Vũ mơ hồ nhận ra chuyện mất ngân lượng lần này không hề đơn giản, hoàn toàn không giống như do những thổ phỉ bình thường làm.
Chuyện này khơi dậy sự hiếu thắng trong lòng nàng, nàng nhất định phải giải quyết chuyện này cho gọn gàng, sạch sẽ.
Hoàng Phủ Vô Song cảm thấy Cát Tường và Hoa Trứ Vũ nói cũng có lý, liền đồng ý tới Tây Giang Nguyệt mượn bạc. Lại hai ngày nữa trôi qua, đã sang ngày mùng sáu, mấy người bọn họ hỏi thăm dân chúng địa phương, giục ngựa chạy về hướng “Tây Giang Nguyệt”.
“Tây Giang Nguyệt” nằm ở một trấn nhỏ vùng ngoại ô, cách đó không xa chính là sông Tùng Giang, bởi vì năm nay có đại hạn, lòng sông sớm đã khô cạn.
Lúc đoàn người Hoa Trứ Vũ đến “Tây Giang Nguyệt”, trời đã gần tối.
Ánh mặt trời phía tây như thiêu như đốt, có một lầu các ba tầng tọa lạc ngay dưới ráng chiều, trông yên tĩnh mà thanh thản.
Thủ vệ nghe nói bọn họ là người tới đưa bái thiếp, không nói gì nhiều, lập tức cho bọn họ vào trong. Hoa Trứ Vũ vừa đi vào liền nhìn thấy, bên trong không phải chỉ có mấy người bọn họ đến đưa bái thiếp, mà có tới hơn mười mấy người.
Mười mấy người này, có già, có trẻ, có nam, có nữ, có người mặc lăng la tơ lụa, cũng có người mặc bố y đi giầy rơm, có thể nói dạng người gì cũng có.
Những người này đều yên lặng xếp hàng, từng người bước vào trong đưa bái thiếp, những người đứng trong xem qua một chút, phán đoán xem chủ nhân của họ có thể làm được hay không. Nếu có thể làm được, sẽ nhận lấy bái thiếp kia, còn không sẽ trực tiếp từ chối.
Đợi đến phiên Hoa Trứ Vũ, ánh chiều tà đã hoàn toàn chìm sâu vào đường chân trời, ráng chiều đỏ hồng đã biến thành một tấm màn đen mông lung.
Một tên sai vặt tới dẫn bọn họ vào một căn phòng trên lầu hai Tây Giang Nguyệt.
Căn phòng rất lớn, ở giữa có một chiếc bàn đá cẩm thạch, trên mặt bàn có một ngọn nến đang cháy, ánh sáng ảm đạm. Ánh nến nhảy nhót liên hồi, chiếu về phía một người đang ngồi ngay ngắn phía sau bàn.
Người kia mặc một bộ quần áo màu xám, tấm lưng còng xuống, trông qua đã rất già. Trước mặt ông ta có một chiếc túi lớn, còn ông ta đang cầm bái thiếp trên mặt bàn nhét vào túi lớn đó.
“Mấy người, mang bái thiếp qua đây đi!” Ông ta ngẩng đầu, mỉm cười với bọn họ, khuôn mặt đầy nếp nhăn nở rộ giống như hoa cúc.
Ánh nến chiếu sáng gương mặt ông ta, khiến Hoa Trứ Vũ nhìn thấy rất rõ, trong lòng khẽ rung động, bởi vì, nàng nhận ra ông ta, đó là người đã cứu nàng ở ngoài thành Lương Châu ngày đó. Nàng còn nhớ rất rõ, vị chủ nhân thần bí ngồi trong xe ngựa kia gọi ông ta là A Quý.
Cho dù thế nào nàng cũng không ngờ được, A Quý lại là người phụ trách thu nhận bái thiếp.
Nói vậy, chủ nhân của ông ta chính là Dung Lạc?
Trong lòng Hoa Trứ Vũ ngập tràn nghi ngờ, nhưng, nàng cũng không thể tới chào hỏi ông ta. Bởi vì thân phận của nàng bây giờ đã không còn giống như hôm đó, thân phận hôm đó, nàng không thể tiết lộ cho ai biết, nếu không, sẽ dẫn tới họa sát thân.
Cho nên, nàng chỉ có thể tạm thời chôn sâu sự cảm kích của mình vào trong lòng.