“Không cần.” Lý Vị thu xếp gói hành lý.
Sau một lúc lâu im lặng, Hạ Đốt nói: “Còn có rất nhiều điều muốn nói với anh, Đôn Hoàng, Cam Châu, quân Mặc Ly, anh, ta, Đột Quyết…”
“Hiện giờ anh đã nắm giữ quyền hành, bên cạnh có người, có chí hướng, cũng coi như suôn sẻ.” Lý Vị nói, “Nhưng giữa chúng ta có khác biệt Hồ Hán, đường đi khác nhau, giờ đây cũng chẳng có gì để nói.”
Hạ Đốt buồn bã gật đầu, nhìn hắn xếp hành lý: “Nói cũng phải.”
Bên kia, Cô Tuyết đang bắt mạch cho Xuân Thiên, bắt xong thì cất cái gối kê tay vào, gật gật đầu: “Vất vả cho em bôn ba suốt cả đường này, thân thể ốm yếu, tuy nhiên xương cốt vẫn tốt lắm. Vết thương năm ngoái bị nặng nhưng phục hồi rất khá. Chỉ là có chứng khí hư thể hàn, sợ lạnh, em hẵng nhỏ tuổi, không thể lao lực quá. Sau khi xong xuôi mọi việc, cần phải điều dưỡng kỹ càng.”
Xuân Thiên gật đầu, vặn cổ tay: “Từ nhỏ em đã không bệnh tật gì, khỏe mạnh lắm.”
Cô Tuyết mỉm cười gật gù, sửa lại ống tay áo cho nàng, ngẫm nghĩ rồi lại sờ mạch tay của nàng, hỏi: “Kinh nguyệt thì sao, vẫn đều chứ, có phải sẽ đau không?”
Xuân Thiên cứng lưỡi, mím môi: “Từ sau khi rời Trường An… từng bị phong hàn một lần… không thấy có nữa…”
“Không có nữa?” Cô Tuyết nhíu mày, cẩn thận sờ cổ tay nàng, “Đã hơn một năm rồi, không có lần nào luôn ư?”
“Lúc ở… ở Cam Châu dưỡng thương, có lần ăn mấy quả long nhãn, ban đêm bụng rất đau, chảy một ít máu…” Xuân Thiên bấm đầu ngón tay, “Một ít.”
Quả long nhãn có tác dụng làm ấm tử cung, Cô Tuyết thấy nàng tuổi nhỏ, vẫn chưa hiểu chuyện nam nữ, lại nghĩ đến cuộc nói chuyện đêm qua của Lý Vị và Hạ Đốt, dịu dàng nói: “Phải lo nghĩ cho ngày sau, nên em cần giữ gìn sức khỏe, không được đi khắp nơi gian khổ nữa. Chị kê cho em một bài thuốc, khi nào em ổn định rồi thì phải uống thuốc đàng hoàng theo đơn, tốt nhất là tạm dưỡng hai ba năm trước.”
“Nghiêm trọng lắm sao ạ?” Xuân Thiên lúng túng, “Không có kinh nguyệt, lại tiện hơn một chút…”
“Em là con gái, về sau… còn lớn nữa chứ.” Cô Tuyết cúi người viết đơn thuốc, “Chuyện này cực kỳ quan trọng với con gái, em nhất định phải nhớ kỹ, bằng không sau này sẽ phải chịu khổ nhiều đấy.”
Xuân Thiên lo sợ nhận đơn thuốc.
Lúc Lý Vị và Xuân Thiên đi, Hạ Đốt tặng ngựa dê cừu, có cả rượu ngon và lương khô. Vẫn bộ điệu vênh mặt hất hàm sai khiến ấy, Hạ Đốt đứng trước quân doanh, nói với hai người: “Tặng ít quà cho hai người đấy.”
Điệt La dẫn theo một đội người ngựa, kéo xe cao từ đằng sau chậm rãi di chuyển ra, ở giữa còn có một người dân chăn nuôi đi theo. Hạ Đốt chỉ vào dân chăn nuôi kia, nói: “Đây là dân chăn nuôi năm đó chăn thả ở vùng lân cận. Năm đó sau khi đội ngũ của đô úy Tiểu Xuân bỏ mạng, hắn ta đã cướp đồ châu báu và dao bào trên thi thể. Xác chết trong trận ấy, hắn ta đã đào hầm chồn. Bây giờ đi lần nữa, chắc vẫn tìm về được nhiều thi cốt. Nhặt thi cốt xong, bảo Điệt La hộ tống các người quay về Cam Lộ Xuyên mà an táng.”
Xuân Thiên nghe vậy, lệ rơi lã chã.
Lý Vị và Cô Tuyết cùng tiến lại an ủi nàng.
Hạ Đốt hai tay chống nạnh, ngước nhìn trời xanh.
Xuân Thiên ngừng nước mắt, thi lễ với Hạ Đốt: “Cảm ơn.”
“Nếu như con dân của Đột Quyết ta cũng có thể có lễ nghi hiếu đạo, thì sao bị người đời coi là hồng thủy mãnh thú chứ.” Hắn thở dài.
Sắp đến lúc xuất phát, hành lý đã sắp xếp ổn thỏa, Hạ Đốt hỏi Lý Vị: “Nếu như mai sau có gặp lại?”
“Mong rằng mãi mãi không gặp.” Lý Vị nói, “Hạ Đốt, có rất nhiều cách để thực hiện được ý chí của anh.”
“Ta vẫn khá hy vọng sẽ gặp anh trên chiến trường.” Hắn vẫy tay với Lý Vị, “Quay về quân Mặc Ly đi.”
Lý Vị lắc đầu.
Hai người lên ngựa, chầm chậm đi ra ngoài.
“Xuân Thiên.” Cô Tuyết gọi Xuân Thiên lại, nhấc váy bước lên.
“Chị Cô.”
Cô Tuyết tháo một chiếc chuông lục lạc ở vòng vàng trên tay rồi nhét vào tay Xuân Thiên: “Đây là vật cũ chị mang từ Trường An tới, nếu một ngày em trở về Trường An, đi ngang qua cầu Bích Ba, phiền em hãy giúp chị ném chuông này xuống nước, xem như hồn chị đã về quê hương.”
“Chị không về thăm ư?”
Cô Tuyết nhíu đầu mày: “Đời này của chị có lẽ chỉ có thể ở lại bên cạnh hắn, sinh con dưỡng cái cho hắn, e là sẽ không bao giờ về nữa.”
“Chị…”
“Em bảo trọng.”
Hạ Đốt đứng sóng vai Cô Tuyết, dõi nhìn hai người dần đi xa. Cỏ cây xanh ngắt trải dài, sắc màu đậm đà như vẩy mực, khắp nơi là sức sống tràn trề. Nhưng biết đâu được, có lẽ ngày mai bất chợt nổi cơn gió rét, sẽ khiến cánh đồng cỏ xanh này nhuốm màu úa tàn.
Hạ Đốt hỏi: “Nàng nói điều gì với Xuân Thiên?”
“Nhờ em ấy khi ngang qua cầu Bích Ba thì xem cây đào giúp ta. Mùa xuân năm sau, liệu hoa đào có nở rộ.”
“Hoa đào đẹp nhất đã nở, vào ngày ta gặp nàng.”
“Ta biết.”
Lý Vị dẫn Xuân Thiên đi về trước dọc theo sông Duệ Hí, phía sau là một nhánh quân Đột Quyết lặng im.
Người luôn chia ra người tốt và người xấu, ngay cả người Đột Quyết cũng thế, Hạ Đốt có phải người xấu hay không, người Đột Quyết và người Hán sẽ viết về hắn thế nào trên sách sử.
“Lý Vị, việc ngài rời quân Mặc Ly, có phải có liên quan tới Hạ Đốt không?” Nàng hỏi hắn.
“Sự việc đúng là do hắn mà ra, nhưng kỳ thực không liên quan tới hắn.”
“Năm thứ hai sau cái chết của đô úy Tiểu Xuân, hai nhánh đại quân của Hà Tây và Y Ngô thống nhất lại ở đường Y Ngô, đối đầu với quân Đột Quyết. Khi đó ta và Hạ Đốt gặp nhau ở sa trường, hắn là lãnh binh dưới trướng của huynh trưởng hắn, ta là doanh trưởng Kha Liễu Doanh trong quân Mặc Ly.”
“Ta phụng mệnh dẫn một nhánh quân đội đi đốt lương thảo của Đột Quyết, nửa đường bị trúng bẫy của người Đột Quyết, rất nhiều binh sĩ thiệt mạng. Sau đó quay trở lại doanh, doanh trướng ta có giữ tín vật của Hạ Đốt, lúc ấy quan trên của ta là người Thổ Dục Hồn, chỉ trích ta rằng thông đồng với người Đột Quyết. Tướng quân Trần Anh làm chứng cho ta, rất nhanh gián điệp thực sự đã bị bắt, hóa ra là một gã người Thổ Dục Hồn rất có uy danh trong quân.”
“Khi đó quân Mặc Ly do người Thổ Dục Hồn và người Hán cầm trịch, binh quyền trong quân tranh đấu gay gắt. Tuy mặt ngoài bình yên vô sự, nhưng thực ra hoạt động ngầm sau lưng đã bắt đầu khởi động. Hạ Đốt đã mượn ta để châm ngòi mâu thuẫn giữa Thổ Dục Hồn và Hán. Vì bảo vệ danh dự của Thổ Dục Hồn trong quân nên quan trên của ta vu khống ta vi phạm quân lệnh, tự tiện hành động. Cuối cùng tướng quân Trần Anh vì muốn cân bằng thế lực trong quân, ta bị phạt giáng chức, tên mật thám kia bị đuổi khỏi quân Mặc Ly một cách lặng lẽ.”
“Sau đó chiến sự lắng xuống, Đột Quyết tháo chạy, ta rời quân Mặc Ly. Chiến tranh chấm dứt, lòng sinh chán nản, thi cốt ở biên cương thực chất hơn nửa là thêm dầu vào lửa, thêm hoa trên gấm cho những kẻ tranh giành quyền lực thôi. Có vô số binh tướng chết trận, ví dụ như cha cô là đô úy Tiểu Xuân. Chết oan đã đành, trên lưng còn mang danh xấu. Chết rồi, ngay cả xác cũng không lấy lại được. Năm đó những đồng bào đi theo ta rồi hy sinh, cũng là như thế.”
Gió lạnh rì rào, Xuân Thiên siết chặt xiêm y, người phải từ bỏ tính mạng song lại chẳng đạt được gì đều là người bình thường. Muốn vượt qua huyết thống và thân phận để công thành danh toại, phải trải qua bao nhiêu rèn luyện cực khổ chứ.
Nàng nhìn Lý Vị, thần sắc hắn bình thản, gió phất qua mặt, hàng lông mày giãn ra. Một người đàn ông như thế, hiểu biết càng nhiều, nàng lại càng thấy xa lạ.
Cô nhi bị vứt bỏ, đứa trẻ bướng bỉnh, thiếu niên vui tươi, thanh niên dạt dào phấn chấn, cho đến người đàn ông chín chắn vững vàng, đã đi qua bao nhiêu câu chuyện.
Nếu ngay từ lúc bắt đầu nàng đã quen biết hắn, là có thể miêu tả tất cả những dáng vẻ của hắn, biết được câu chuyện đằng sau mỗi một vết sẹo trên người hắn, hiểu được hàm ý của mỗi một nét mặt, cảm được quá khứ trong mỗi một câu nói.
Vậy thì nàng với hắn, là kính trọng ư? Là ý lại ư? Là ái mộ ư? Điều chẳng thể nào giấu là gì? Điều ánh nhìn theo đuổi là gì? Trong mơ vì sao lại lưu luyến? Nàng đang chờ đợi, đang khát khao thứ gì?
Thứ ấy có được cho phép hay không? Có được tiếp nhận hay không? Có thể không?
Liệu rằng có ai đó sẽ đến nói cho nàng biết, dạy nàng, dẫn đường cho nàng?
Bờ sông Duệ Hí càng lúc càng mở rộng, mặt nước càng lúc càng mênh mông, đoàn người đi suốt gần mười ngày chẳng khi nào ngơi nghỉ, đi ngang qua vô vàn phong cảnh rung động lòng người. Bao cảnh sắc đó vào trong mắt Xuân Thiên lại tựa như mất đi mọi sắc thái.
Con đường từ Trường An tới cực kỳ dài, cuối cùng đoàn người dừng chân trên một đường sông nước sâu quạnh vắng.
Là nơi này ư.
“Chắc là chỗ này rồi, năm đó nhà tôi chăn nuôi ở vùng núi gần đây. Một ngày nọ tôi cưỡi ngựa đến bờ nước này, xuân sang tuyết tan, tôi thấy trước mắt có gì đó lóe sáng, thì ra là một thanh trường đao vùi trong tuyết. Ban đầu tôi định rút trường đao kia ra, kết quả rút ra được một cái tay đã chuyển màu đen, đáng sợ lắm. Phía dưới tuyết là thi thể bị đông cứng, tôi vốn tính bỏ đi, nhưng thấy mấy vũ khí đó cũng sử dụng được, tôi bèn đi nhặt hết. Cuối cùng lúc đi mới nghĩ lại, trời sắp trở nóng, lỡ như những thi thể này bốc mùi tanh làm bẩn nguồn nước, thế thì dê bò nhà tôi sẽ nhiễm bệnh cả, vì thế tôi bèn tìm cái xẻng, đào hầm chôn hết xác.”
Lý Vị thuật lại lời người chăn nuôi cho Xuân Thiên nghe. Xuân Thiên rưng rưng gật đầu. Người dân kia giạng chân đứng trung bình tấn để đo đạc mặt đất, sau đó dừng lại ở một chỗ mặt cỏ tươi tốt xanh mượt, mũi chân điểm điểm xuống đất: “Chắc ở trong đây.”
Điệt La gọi thuộc hạ tới: “Đào lên.”
Xẻng đào cỏ lên, phía dưới là cỏ mục xám đen, kế đó là bùn lầy đen xì, xuống thêm chút nữa là dòng nước vẩn đục.
Xuân Thiên đứng lặng bên hố.
“Hố chôn xác năm đó anh đào sâu bao nhiêu?” Lý Vị hỏi người chăn nuôi.
“Không sâu, nông lắm.” Người chăn nuôi khua tay múa chân mô tả bề dày, “Đại khái sâu như thế, xẻng đào chỗ này bị kẹt bùn đất, tôi mất nửa ngày trời mới đào lên được, cuối cùng thi thể bị phủ một tầng đất bạc.”
“Chôn tổng cộng bao nhiêu người?”
“Khoảng hai, ba chục người.”
Hai trăm kỵ binh tinh giáp, sau cùng ở bờ sông này chỉ có hai ba chục người. Toàn bộ số người còn lại đều đã rải rác ở chốn đất hoang không người biết đến, bị dã thú ăn thịt, bị mưa tuyết nuốt chửng.
Lý Vị nói với Điệt La: “Thi thể được chôn không sâu, nhấc cả mảnh đất này lên luôn đi.”
Điệt La gật đầu, dùng trường đao phân chia mấy mươi khối đất vuông, chỉ huy mọi người: “Mỗi người đào một khối, tạm thời đừng đào sâu quá, thấy hài cốt là được rồi.”
Rất nhanh đã có binh lính vẫy tay: “Ở đây.”
Người Xuân Thiên run rẩy như lá rụng trong gió, Lý Vị đỡ lấy nàng, dịu giọng bảo: “Cô ngồi bên cạnh, chờ chúng ta tìm được thì cô lại xem thử.”
Nàng lắc đầu, ánh mắt đau khổ, môi run run: “Tôi muốn đích thân nhìn.”
Thứ đầu tiên đào lên được là một chiếc mũ sắt chiến đấu loang lổ vết gỉ sét, rồi tiếp sau là một khúc xương trắng trong bùn đen.
Binh lính xúc đất ra, hố xác hình vuông hoàn chỉnh dài tầm một trượng hiện ra ngay trước mắt.
(còn tiếp)