Công việc rất nhẹ nhàng, Tăng Hảo lặng lẽ mở xem tập trang vẽ của Mộ Nhất Tuân.
Lúc mới bắt đầu, anh vẽ một vài bước tranh phong cảnh mô phỏng theo tranh của Levitan, tiếp theo là các bức tranh vẽ người đơn giản hơn, ví dụ như cậu bé trong bức tranh “Trầm tư”, dù lấy tả thực là chính nhưng việc đặc tả cảnh theo hình thức dung nạp và thị giác biến hình, thông qua sức kéo và sự trải rộng của tính kịch đã thể hiện được sự cô đơn của cậu bé, trạng thái khép kín nội tâm.
Tiếp theo nữa là bức “Tây An tìm lại vật đánh mất” đã được đưa vào viện bảo tàng mỹ thuật hội họa Trung Quốc.
Thành cổ ngàn năm biến cố thông qua ngòi bút sắc bén, thủ pháp thể hiện tả thực đã dung nhập vào nét chấm phá truyền thần của nghệ thuật Quốc họa, thể hiện khả năng “tấn công thị giác” mãnh liệt đồng thời không làm mất đi quan điểm nghệ thuật sâu sắc từ thuở xa xưa. Góc dưới bên trái của bức tranh là ông lão ung dung đứng hút thuốc dưới thành cổ, lưng ông lão hơi còng, toàn thân như một vòng tròn lặng lẽ đứng đó, mang lại rất ít cảm giác tồn tại. Rõ ràng, đối lập với thành cổ suy tàn đã trải qua nghìn năm bể dâu, ông lão già nua trông thật nhỏ bé, khiến người ta không khỏi nhớ đến câu nói:
“Quân bất kiến, ngoại châu khách,
Trường An đạo, nhất hồi lai, nhất hồi lão”
(Bài thơ Trường An đạo của Bạch Cư Dị).
Trong bức tranh “Người và đá”, con người và tảng đá đang tiến hành cuộc đọ sức kéo dài, sau khi trải qua do dự, đấu tranh, âu lo, đã đạt được một thứ thỏa thuận, con người từ bỏ giấc mộng anh hùng thể hiện sự nhận thức đối với sinh mệnh mỏng manh dễ tan như tờ giấy, nhận thức như vậy trên thực tế bị coi là một thứ “cảm giác xót xa nực cười”.
“Tượng thần” là sự minh họa đối với tôn giáo, triết học, dùng phương thức mới mẻ độc đáo là đường cong bao quanh để thể hiện dục vọng, nỗi đau khổ ẩn giấu trong loài người, từng bước bị dẫn độ trong cực hình.
Loạt tranh “Hang đá” là tập hợp nhiều bức tranh về tượng phật trong hang đá và tranh phong cảnh về thánh địa của Đạo Phật, hoàn thành bằng 3 hình thức biểu đạt khác nhau là sơn dầu, màu nước và điêu khắc . Tác phẩm không cố truyền đạt một cảm xúc nào, không có nỗi sợ hãi, không có sự phấn khởi, không có dục vọng cố tình thể hiện, hoàn toàn dùng thân phận một người quan sát để hoàn thành bằng tâm trạng kính nể, thể hiện sự chân thực và vẻ đẹp nguyên sơ…
Tác phẩm của Mộ Nhất Tuân không quá nhiều nhưng mỗi bức đều là một tác phẩm nghệ thuật, trong số đó đa số đều được các viện bảo tàng mỹ thuật hội họa trong nước và nước ngoài xếp vào những tác phẩm cần lưu giữ, số ít các tác phẩm còn lại được trưng bày trong các viện bảo tàng hội họa tư nhân.
Tập tranh trong tay Tăng Hảo lúc này không phải là tất cả.
Tuy trên phương diện nghệ thuật, cô chỉ là dân thường nhưng làm một người dân đại chúng, cô vẫn có thể trực tiếp cảm nhận được sức mạnh được thể hiện trong các tác phẩm của Mộ Nhất Tuân.
Chỉ cần nghĩ đến quá trình sáng tác ra các tác phẩm nghệ thuật đỉnh cao này, chỉ với một đôi tay đơn giản như vậy, một bút vẽ một tờ giấy, toàn tâm toàn ý biến thứ tầm thường thành điều kỳ diệu, truyền lại cho khán giả sự tưởng tượng vô hạn, rung động và giác ngộ, đưa khán giả bước vào một thế giới không có điểm dừng, khả năng điều khiển trong vô hình… Từ tận đáy lòng, Tăng Hảo thực sự rất ngưỡng mộ.
Điều quan trọng nhất là cô dường như có thể cảm nhận được phương thức thể hiện trong nghệ thuật của Mộ Nhất Tuân không giống với người khác, ở chỗ đối với vạn vật được miêu tả trong tác phẩm của mình, anh đều có sự tôn trọng và nhu mì với chúng, anh không cố tỏ ra hư ảo, cũng không cố tình dùng phương thức nào đó để truyền đạt tâm trạng cá nhân của mình. Anh sẽ bình thản đưa đến cho bạn một cảm giác sâu sắc, anh sẽ cho bạn một không gian nhất định để bạn tự cảm nhận, tự trải nghiệm. Đây là sự tôn trọng mà anh dành cho khán giả, anh sẽ dẫn đường chỉ lối nhưng không dùng thân phận bậc thầy của mình để chi phối phán đoán của bạn.
Khép lại trang cuối cùng, Tăng Hảo ngồi lặng đi hồi lâu, một suy nghĩ trỗi dậy trong đầu: Dường như cô đã hiểu vì sao mỗi khi nhắc đến Mộ Nhất Tuân, ánh mắt của Hạ Nại lại si mê và nóng bỏng đến vậy, chỉ cần đã thưởng thức qua một lần tác phẩm của anh, hoặc nhiều hoặc ít, bạn đều sẽ bị các tác phẩm đó làm “ảnh hưởng”.
Giờ nghỉ trưa, Tăng Hảo chạy sang “thỉnh giáo”.
“Cánh cửa của tranh sơn dầu có phải ở rất cao không?”
Mộ Nhất Tuân đang rửa tay, nghe thấy câu hỏi của cô, anh khẽ vặn van nước.
“Không, chỉ cần cô có kỹ năng cơ bản về phác thảo hội họa.”
“Vậy à.” Tăng Hảo khẽ gật đầu, “Vậy phải học phác thảo hội họa bao lâu mới có thể học vẽ tranh?”
“Khoảng 3 năm.”
“Lâu vậy sao?” Tăng Hảo nhận ra cho dù chỉ là dân nghiệp dư thì cô cũng không đủ tư cách.
Mộ Nhất Tuân lấy chiếc khăn trắng tinh xuống lau tay rồi quay sang nhìn cô: “Thực ra không phải cứ học phác thảo là vẽ được tranh, vẽ tranh thiên về khả năng nắm bắt và vận dụng màu sắc, nếu chỉ có hứng thú thôi thì bất cứ lúc nào cũng có thể bắt đầu.”
“Vậy anh bắt đầu học từ bao giờ?”
“Từ hồi học mẫu giáo đã thích tô màu rồi, lớp một chính thức học Quốc họa, đến cấp hai mới tiếp xúc với tranh.” Mộ Nhất Tuân để khăn lại vị trí cũ.
“Đúng là nhập môn nghệ thuật phải bắt đầu từ bé.” Tăng Hảo mỉm cười: “Tôi thì muộn mất rồi, sau này có con tôi nhất định phải bồi dưỡng cho nó có hứng thú với nghệ thuật từ nhỏ, mua màu sáp và màu nước cho nó, cùng nó vẽ tranh.”
“Để cho đứa bé tự quyết định.” Mộ Nhất Tuân nói: “Nếu nó không thích cũng không nên bắt ép.”
“Anh vẫn luôn rất thích vẽ tranh đúng không?” Tăng Hảo lỡ miệng rồi hối hận ngay, câu hỏi này quá thừa thãi? Nếu thầy Mộ không thích vẽ tranh thì sao có thể kiên trì được tới giờ? Thực ra cô muốn hỏi lại, trong hoàn cảnh thương mại cạnh tranh khốc liệt ngày nay, dự tính ban đầu về việc vẽ tranh của anh đến giờ đã từng thay đổi chưa?
Kiên trì thích một thứ đồ vật nào đó thực ra không phải chuyện dễ dàng, bất kể là tình cảm gì cũng sẽ biến đổi theo thời gian.
Mộ Nhất Tuân khẽ cười, không đưa ra ý kiến.
Lúc Tăng Hảo nhận ra mình đã hỏi một vấn đề “ngu ngốc”, anh mới lên tiếng:
“Không chỉ là thích, phải nói là tôi vẫn luôn say mê hình thức nghệ thuật hội họa này.”
Tăng Hảo ngước lên nhìn anh, đôi mắt trong trẻo của anh, giữa hai hàng mi cong vô hình trung tỏa ra một luồng sáng rất nhỏ nhưng vô cùng rực rỡ, lúc nói đến “say mê”, nét mặt anh hoàn toàn thay đổi, không có vẻ thanh cao và lạnh lùng như bình thường mà như thể đang tâm tình, anh chìm đắm trong thứ tình cảm của riêng mình, trong ánh rạng rỡ mang theo cả một sự cố chấp, kiên định và dịu dàng khôn xiết.
Đột nhiên cô cảm thấy có thể gặp được một nhân vật như Mộ Nhất Tuân và làm đồng nghiệp của anh quả là một chuyện rất đáng chúc mừng. Anh là người rất có sức hút, bất kể là khi nói chuyện hay khi làm việc.
Anh ấy có thể ảnh hưởng đến bạn.
*
Công việc hôm nay khép lại một cách thuận lợi, vì có buổi liên hoan với mấy người bạn trong giới nên đến giờ hẹn, Mộ Nhất Tuân bỏ lại hết công việc còn dang dở trong tay, không tiếp tục ở lại văn phòng như mọi ngày.
Tăng Hảo cùng anh xuống thang máy.
Sau đó thì xảy ra một sự cố bất ngờ. Thang máy từ từ đi xuống dưới, đến tầng 5 thì buồng thang máy uỳnh một tiếng, kêu to đến nỗi khiến màng nhĩ Tăng Hảo rung lên thế rồi vang lên tiếng ma sát rợn người, đèn tắt ngúm, thang máy bất động tại chỗ.
Phản ứng đầu tiên của Tăng Hảo là thang máy bị trục trặc.
Mộ Nhất Tuân đã lấy ra chiếc đèn pin nhỏ luôn mang bên mình, soi số điện thoại đường dây nóng trên tường thang máy rồi bấm điện thoại.
Quá trình chờ cứu hộ đối với Tăng Hảo kéo dài dằng dặc, vì cô mắc chứng hoảng loạn. Kể từ sau khi cha qua đời, cô rất sợ bóng tối, tối đi ngủ luôn phải bật một bóng đèn nhỏ, có lần tỉnh lại giữa đêm thấy đèn hỏng, trước mắt chỉ có một màu tối đen như mực, tim cô liền đập rất nhanh, trong bàn tay rịn ra một lớp mồ hôi, cổ họng có cảm giác không sao hít thở nổi.
Giây phút này cũng vậy, cảm giác đó lại xuất hiện.
Cô tự nhủ với bản thân, không sao đâu, đèn sẽ sáng lên nhanh thôi, cứu hộ sẽ chạy đến mở cửa là có thể hít thở luồng không khí trong lành… Không sao, cố chịu một chút, chỉ vài phút thôi… nhưng trái tim vẫn đập rất nhanh mà không sao khống chế nổi, lòng bàn tay ngày càng nhiều mồ hôi, cổ họng như bị ai bóp chặt, không thể hít thở, cả người như không ngừng bị dìm xuống biển sâu. Cơn hoảng loạn xa lạ bủa vây lấy cô.
Cô ngồi xổm xuống theo bản năng.
Trong đầu hiện lên cảnh tượng nhà xác cháy hôm đó, thi thể của cha bị cháy không còn gì cả, ngọn lửa hừng hực đó như chạy tới trước mặt cô, cô thấy rất quen, người cha thân thuộc của cô bị ngọn lửa ma quái cắn nuốt đến không còn gì.
“Tăng Hảo.” Trong bóng tối, Mộ Nhất Tuân đưa tay về phía cô: “Cô khó chịu à?”
Cô ôm đầu, cả người cứ run lên bần bật.
Ngón tay anh chạm vào tay cô, cô không thể khống chế tiếng thét lên của mình, giây tiếp theo liền túm lấy tay anh theo bản năng, như thể đó là cọng rơm cứu mạng của cô, cô nắm lấy thật chặt.
Anh ghé sát lại, cúi xuống, khom lưng, nói giọng an ủi: “Hít sâu một hơi, rồi nhìn vào mắt tôi.”
Cô vẫn run rẩy, không ngẩng đầu, chỉ ra sức túm chặt tay anh, như một đứa trẻ chết đuối.
“Chỉ tạm dừng vài phút thôi mà, nhân viên sửa chữa sẽ đến ngay.” Anh vừa nói vừa cầm đèn pin bằng bàn tay không bị cô túm lấy, chiếu về phía cô, giọng kiên định: “Ánh sáng ở đây này.”
“Tôi rất khó chịu… không thở nổi.”
“Làm theo tôi, như thế này.” Anh ghé sát về phía cô thêm nữa, dạy cô hít thở sâu.
Cơ thể mảnh mai của cô co tròn trong một góc, lồng ngực phập phồng dữ dội, lưng vẫn run.
“Từ từ thôi, hít một hơi thật sâu bằng miệng rồi từ từ thở ra.” Vừa nói anh vừa dùng tay vỗ nhẹ vào lưng cô: “Tốt lắm, lại một lần nữa, chúng ta cùng làm.”
“Con… nhớ…” Vừa hít thở cô vừa thốt lên: “Nhớ… bố…”
Luồng sáng mong manh trong bóng tối chiếu lên gương mặt cô, anh thấy đôi mắt cô đỏ sọc, hơi ướt, môi thì liên tục mấp máy, nét mặt đầy hoảng sợ và yếu đuối.
Chẳng bao lâu sau, tiếng hít thở dồn dập khe khẽ của cô lọt vào tai anh, khiến anh nghĩ tới con cá nhỏ mình từng nuôi, trước khi chết nó cũng phát ra tiếng thở như vậy.
Mộ Nhất Tuân rũ mắt, dựng thẳng đèn pin xuống sàn, một tay bị cô túm chặt lấy, tay kia khẽ đặt lên lưng cô, ôm lấy cơ thể cô, tạo thành một tư thế bảo vệ.
“Nhớ cha à?” Anh khẽ nói: “Cha ở đây này.”
Nét mặt cô hơi khựng lại rồi ra sức nắm lấy tay anh.
Sáu phút sau nhân viên cứu trợ đến, mở cửa sổ an toàn trên nóc thang máy, ánh nắng lập tức rọi xuống, họ thả thang cứu hộ vào trong thang máy.
Tăng Hảo lên trước dưới sự giúp đỡ của Mộ Nhất Tuân, cô vẫn chưa hết hoảng loạn nên bước đi không mấy ổn định, không cẩn thận hẫng chân giẫm vào khoảng không, may mà lúc ấy Mộ Nhất Tuân ở đằng sau kịp thời đỡ mông cô: “Không sao, cô cứ lên đi, tôi ở ngay đằng sau.”
Sau khi hai người an toàn đi lên, Tăng Hảo nhận chai nước ấm được nhân viên cứu hộ đưa sang, uống hai ngụm mới thấy cơ thể dễ chịu hơn một chút.
Mộ Nhất Tuân đang tường thuật lại tình hình trục trặc thang máy với các nhân viên.
Cô liếc thấy trên mu bàn tay trái của anh có hai vết cào rớm máu, rất sâu.
Đến khi họ an toàn xuống đến tầng 1, lúc ra khỏi khu nhà, Tăng Hảo nói cảm ơn anh, cũng yêu cầu anh kiểm tra xem mu bàn tay trái có bị cô làm bị thương không.
Bàn tay bị cô cào không nhẹ bình thản lấy chìa khóa ô tô ra, nghe thế anh mới đưa lên xem rồi bình thản bảo: “Không sao.”
“Cho tôi xem một chút.” Cô nhẹ nhàng kéo tay anh sang rồi kiểm tra cẩn thận, phát hiện trên mu bàn tay anh tổng cộng bị móng tay cô cào thành hai vệt, trong đó có một vệt còn rách da.
“Đúng rồi, tôi có mang cái đó.” Cô liền lấy miếng băng dính cá nhân có tẩm thuốc nhãn hiệu OK từ trong túi xách ra, dán lên giúp anh.
Anh không từ chối, nhưng sau khi cô dán xong anh mới nhận ra: “Màu hồng nhạt à? Ồ, cảm ơn.”
Đúng là băng dính cá nhân màu hồng nhạt, bên trên còn có một cái đầu heo rất dễ thương. Cô thường dùng nó để dán lên mắt cá chân, tránh trầy da khi đi giày mới.
“Vừa rồi tôi vô dụng quá.” Tăng Hảo áy náy nói: “Làm anh sợ đúng không?”
Mộ Nhất Tuân ngừng lại một lát, “Tôi có một người bạn cũng mắc chứng sợ hãi khi bị nhốt trong thang máy. Có lần thang máy mất điện, cậu ta liền ngất lịm ở trong đó, so với cậu ta, cô khá hơn rất nhiều, ít nhất còn kiên trì chống đỡ đến phút cuối. Thực ra đây là một chướng ngại tâm lý, cách giải quyết chính là chăm chỉ tham gia các hoạt động ngoài trời, giữ tâm trạng thoải mái, dần dần sẽ tốt lên thôi.”
Tăng Hảo gật đầu.
“Còn có một cách trực tiếp khác nữa.”
“Hửm?”
“Nếu cô sợ còn lần sau thì đổi sang đi cầu thang bộ.” Mộ Nhất Tuân khẽ mỉm cười, đồng tử đen láy rực sáng, chiếu vào dáng vẻ cô lúc này, “22 tầng, một lần lên một lần xuống, đi xong thì đổ mồ hôi toàn thân, coi như một cách rèn luyện cơ thể, tốt hơn là việc cô co quắp như một con thú nhỏ trong thang máy.”
“Thật đấy, hãy suy nghĩ một chút về đề nghị của tôi.” Nói xong anh liền quay người đi về hướng khác.
Tăng Hảo đứng như trời trồng tại chỗ, thầm nghĩ: Thầy Mộ, thầy đang nói đùa hay nói thật thế?
*
Vài ngày sau, có lẽ vì nỗi ám ảnh do “thang máy kinh hãi” để lại, Tăng Hảo chấp nhận cách thức nhanh nhất và trực tiếp nhất để xóa tan nỗi sợ hãi của Mộ Nhất Tuân – đi thang bộ. Vì thế, cô còn tự mang theo một đôi giày thể thao đế bằng.
Nhưng, khi Mộ Nhất Tuân thấy cô đi lên từ cửa cầu thang bộ, anh có vẻ hơi ngạc nhiên: “Cô đi bộ lên à?”
“Phải, coi như rèn luyện cơ thể, đây cũng là cách trực tiếp nhất phòng ngừa chứng sợ hãi khi bị nhốt trong thang máy, hoàn toàn tránh xa thang máy.” Tăng Hảo dùng mu bàn tay lau mồ hôi trên trán, vì vận động nên hai má cô ửng hồng một cách tự nhiên, nụ cười rực rỡ như ánh nắng ngoài cửa sổ.
Mộ Nhất Tuân nghiêng người sang, đi về phía trước, vừa đi vừa nói: “Cô thấy ổn là được. Nhưng hôm đó tôi bảo cô đi thang bộ chỉ là câu nói đùa thôi.”
…
Nắng đẹp, nhiệt độ vọt thẳng lên con số 38. Mộ Nhất Tuân vẫn im lặng, tập trung làm việc, Tăng Hảo cũng rất nghiêm túc, cố gắng phối hợp với anh. Bình thường trong giờ làm việc, ai làm việc của người nấy, họ rất ít trao đổi với nhau.
Nhưng Sở Doanh thường xuyên đến “làm trò cười”.
Trưa hôm nay, Tăng Hảo phải tới phòng trà “Duyên đến là bạn” để xem mắt. Việc này là do Triệu Thiển “tạo ra”, bộ phận kỹ thuật ở công ty mà chị đang làm việc có một chàng trai trẻ tuổi rất được tên là Triệu Lý, người này đã từng giúp chị khiếu nại một khách hàng, chị rất biết ơn anh ta, còn nhận anh ta làm anh kết nghĩa: “Anh Triệu, anh thật là tốt, hơn nữa chúng ta còn cùng họ, về sau em gái sẽ coi anh là anh trai. Anh có gì sai bảo cứ nói với em, việc của anh cũng là việc của em.”
Triệu Lý mới tròn 25 nhưng đã trở thành “người cuồng xem mắt” tiêu chuẩn, duy trì tần suất một tuần xem mắt một lần nhưng lần nào cũng vì lý do hai người không đạt được nhận thức chung về một vấn đề nào đó mà chấm dứt. Liên tục mấy tuần anh ta đều vui vẻ đến “duyên đến là bạn” xem mắt, rồi lại buồn bã ra về một mình.
Làm em gái, tất nhiên Triệu Thiển không quên bày tỏ sự quan tâm sau mỗi lần anh ta xem mắt thất bại. Sau khi biết anh ta có ý định muốn tìm một cô gái không cao không thấp, không béo không gầy, đoan trang, dịu dàng, biết điều, hiểu ý người khác, những phương diện khác không có yêu cầu đặc biệt, chị liền giới thiệu Tăng Hảo.
Mới đầu Tăng Hảo không đồng ý nhưng không chịu được sự khích lệ hàng ngày của Triệu Thiển – chỉ đi gặp một lát thôi. Nhưng trước khi đi cô đã yêu cầu Triệu Thiển phải nói rõ hoàn cảnh gia đình mình cho đối phương biết, nếu đối phương vẫn đồng ý gặp thì cô sẽ đi.
Kết quả, Triệu Lý nói anh ta không để bụng.
“Em gái Hảo Hảo, trưa nay chúng ta cùng đi ăn tôm hùm ở nhà hàng hải sản trong thành phố được không?” Sở Doanh nhướn mày với cô: “Dĩ nhiên điều kiện tiên quyết là Mộ Nhất Tuân mời, anh sẽ nghĩ cách nhưng em phải phối hợp thật tốt mới có thể dễ dàng làm thịt anh ta được.”
“Hôm nay không được, em phải đi ăn với bạn.” Tăng Hảo nhìn đồng hồ, nhắc nhở bản thân phải mau chóng xuất phát, nếu không sẽ muộn.
“Đi cùng ai? Ở đâu?”
Tăng Hảo bỏ qua câu hỏi đi cùng ai, cô chỉ nói địa điểm bữa ăn là phòng trà “duyên đến là bạn”.
“Xem mắt đúng không?” Sở Doanh cười đùa: “Nơi đó tầm thường lắm, có rất nhiều ông già bà lão cầm ảnh con gái lớn của mình, la lối om sòm như bán hàng miễn phí vậy. Anh nói em tốt xấu gì cũng mới 22, sao lại vội vàng đi vào đó thông đồng làm bậy với họ?”
Đúng lúc Mộ Nhất Tuân đi ra, Sở Doanh quay sang nói với anh: “Người đẹp Tiểu Hảo Hảo của chúng ta có hẹn rồi, bỏ rơi anh em mình mà đi ăn bữa cơm xem mắt.”
(Sở đại ca, anh chán sống rồi à, dám đả kích ngay trước mặt thầy Mộ…)
Tăng Hảo hơi ngượng, tầm mắt không khỏi liếc về phía Mộ Nhất Tuân.
Mộ Nhất Tuân hơi cúi đầu, hạt bụi màu vàng múa may trên bả vai rộng lớn rồi xoay quanh gương mặt hoàn mỹ lạnh lùng, cuối cùng đậu lên phần tóc mai gọn gàng. Anh tập trung khóa cửa , nghe vậy chỉ ừm một tiếng bằng giọng khàn khàn, không nói tiếp, nét mặt thản nhiên không nhìn ra có cảm xúc đặc biệt gì.
Lời tác giả:
Các nam chính của Sư Tiểu Trát khi ghen:
Trì Hành: thực ra, Trì Hành là quý công tử tao nhã, khi ghen cùng lắm anh ta chỉ làm vỡ cốc mà thôi (xem kỹ trong truyện).
Chú Phí: Thực ra, chú Phí là nam chính hay ghen nhất trong thế giới truyện của Sư Tiểu Trát, mỗi lần thấy Tiểu Tâm Mộ có xu hướng “hồng hạnh vượt tường”, hai mắt chú như phun ra lửa, một tay bế bổng cô lên rồi đánh mạnh vào mông cô một cách điên cuồng, sau đó bế vào phòng tiến hành dạy dỗ bằng cách trừng phạt cực kỳ tàn ác, không loại trừ đạo cụ đáng sợ (xem kỹ trong truyện) – ai đọc rồi cho tớ hỏi đạo cụ ấy là gì vậy?
Từ Dự OPPA: Thực ra, Từ Dự OPPA tự định nghĩa bản thân là bạn trai hoàn hảo, do đó OPPA sẽ không thể hiện sự ghen tuông mãnh liệt của mình để bị nói là “không phong độ”, trên cơ bản OPPA sẽ hút một điếu thuốc, lặng lẽ nguyền rủa “Nam Tiểu tam” (ý là người thứ ba là đàn ông), sau đó lãnh đạm thốt ra một câu “Em muốn thì cứ đi cùng nó đi, tùy em.” (xem kỹ trong truyện).
Diệp Tư Thừa: Thực ra, là một người cực kỳ kiềm chế, cực kỳ nội tâm, cực kỳ khép kín, khi ghen Diệp Tư Thừa thường không biểu hiện gì, bên ngoài thì mỉm cười nhưng trong lòng thì khác hẳn, sự lạnh lùng và tốt đẹp hoàn toàn biến mất, sau đó anh ta sẽ nấp trong một góc, gục đầu vào đám giấy vẽ tranh, thuận tiện rút mã tấu ra, lẩm bẩm “Úy Tử là người phụ nữ của tao, ai dám tranh giành với tao đều bị %%@@$$**…” với số lần là vô hạn tuần hoàn. (xem kỹ trong truyện).
Phong Thận: Thực ra là nam chính độ lượng nhất, khoan dung nhất, tình thánh nhất, Đại Phong mà ghen thì sẽ bị nội thương, trong các câu thoại bình thường sẽ thể hiện được tâm trạng căng thẳng, phẫn uất của anh, ví dụ như các câu ngắn như “Ồ”, “Được”, “Biết rồi”, “Tùy em” – đó là hình thức từ chối trao đổi, cho đến khi bà xã lại gần tặng cho một nụ hôn, lúc đó băng mới tan (xem kỹ trong truyện).
Tống Vực: Thực ra là một nam chính cục tính, Vực tiên sinh ghen rất không có phong độ, không nghe ai giải thích gì, bình thường sẽ đưa Xán Xán ra ngoại ô, ở khu vực không phủ sóng điện thoại, hoặc là ở trong xe, hoặc là dưới sao trời, triền núi, bờ biển gì gì đó, mục đích của anh là muốn chứng minh mình là duy nhất của cô, là chúa tể tuyệt đối, là sự tồn tại thần thánh (xem kỹ trong truyện).
Trang Phi Dư: Thực ra, là nhà tư bản bụng dạ đen tối, cách ghen của Trang boss chính là phất tay áo ra đi, để Nhiên Nhiên lại một mình đối diện với một đống phiền phức, còn anh thì thong thả uống trà, thong thả chờ đợi, trên mặt viết dòng chữ “Đến cầu xin anh, mau đến cầu xin anh…” Nhưng bình thường kết quả sẽ là anh ta chạy như điên về nhà, nhận sai.
Cuối cùng là hai bạn trong truyện này, xét thấy tình cảm hai người còn khá trong sáng, Trát béo tiến hành phỏng vấn sâu:
Béo: Thầy Mộ, làm phiền thầy một chút, có một vấn đề: Nếu lần này Hảo Hảo xem mắt thành công rồi yêu người ta, thầy sẽ có thái độ gì?
Thầy Mộ bình thản đọc sách một cách khó hiểu.
Béo: Thái độ của thầy là?
Thầy Mộ bình thản đọc sách một cách khó hiểu.
Béo: *Đổ mồ hôi*, rốt cuộc thầy có thái độ gì?
Thầy Mộ bình thản đọc sách một cách khó hiểu, nhìn chằm chằm quyển sách 40 phút, mắt long sòng sọc, vẫn dừng ở trang sách đó, vai bên phải bốc lên một luồng khói trắng…?
Béo: Hóa ra khi bị đả kích thầy sẽ rơi vào trạng thái này.
Nín - nhịn – đến – nội – thương.
Trát béo chăm chỉ lại viết một vở kịch nhỏ có hàm lượng kỹ thuật khá cao, các bạn có thích không? Haha, các bạn xem xong chương này đừng quên tặng hoa. Đi trên đường đột nhiên “Khấu thịt khỏa bố” rơi xuống (Khấu thịt khỏa bố: móc cài của miếng vải quấn quanh người).
Các bạn: Khấu thịt khỏa bố là (⊙-⊙)… tôm?
Béo: Chính là nội y bên trên, chỉ đổi cách gọi thôi, gọi tắt là “bra”…
Hahaha ~~~