Lúc ấy, chú ấy 35 tuổi, một thân một mình, tự do đi lại, vác theo máy ảnh phản xạ ống kính đơn, vào nam ra bắc, chụp ra một tác phẩm rồi lại một tác phẩm được mọi người săn đón.
Tôi cũng học nhiếp ảnh, nghe nói đến một vài huyền thoại của chú ấy, nên ôm lòng ngưỡng mộ, muốn bái chú ấy làm thầy, nhưng lại không dám nói rõ, sợ chú ấy cảm thấy tôi đang dùng tình nghĩa để ràng buộc chú ấy.
Vì thế chỉ đành dùng cách ngu ngốc nhất: Có thời gian là ôm máy ảnh đến tìm chú ấy.
Chú ấy không muốn quan tâm đến tôi, phần lớn đều là tự tôi nói chuyện, tự tìm niềm vui.
Cứ thế qua ba tháng sau, không biết câu nói nào đã lấy lòng đến điểm mấu chốt, cuối cùng chú ấy cũng chịu tán gẫu về phương diện nhiếp ảnh với tôi.
Nhưng mà hôm đó, hình như tâm trạng của chú ấy rất tệ, cứ luôn rủ mí mắt, vẻ mặt lạnh nhạt.
Ánh đèn trắng lạnh trên đỉnh đầu rọi xuống, rơi vào trên gương mặt có đường nét thâm thúy, cả người chú ấy tràn ngập vẻ quyến rũ được mài giũa qua từng năm tháng, giống như câu chuyện ẩn giấu trong quá khứ.
Không biết như thế nào, tôi lại bị thu hút triệt để, từng bước chìm đắm.
Sau đó, tôi thật lòng yêu thích chụp ảnh, chuyên tâm nghiên cứu, đi con đường chú ấy từng đi, ngắm những phong cảnh chú ấy từng ngắm.
Cho dù không có thiên phú, cũng vẫn kiên trì không bỏ cuộc.
Chú ấy chưa từng khen ngợi tôi, cũng không thừa nhận mối quan hệ thầy trò giữa chúng tôi, nhưng đã có thể nói nhiều hơn vài câu với tôi rồi.
Khó lắm mới có chung đề tài nói chuyện, tôi vô cùng quý trọng.
Nhưng chẳng được bao lâu, đột nhiên chú ấy từ bỏ nhiếp ảnh, đổi nghề sang kinh doanh, không rõ nguyên nhân.
“Thật không nỡ để cậu cũng một thân mùi tiền.”
Ba tôi nhận được tin tức, vô cùng bùi ngùi, lải nhải nói với chú ấy rất lâu.
Chú ấy quay đầu nhìn về phía tôi, ánh mắt không chút gợn sóng: “Thiên phú của Tịch Sam rất khá, trên con đường này, chắc hẳn sẽ đi được xa hơn tôi.”
Tôi thụ sủng nhược kinh, tim như đánh trống, độ cong giương lên bên khóe môi làm thế nào cũng không hạ xuống được.
Thực ra lúc ấy, tôi thực sự cho rằng bản thân mình có phần thắng.