Vào các ngày thứ Bảy, cha của Jimmy thường ghé qua nhà Devine để uống bia với cha Sean. Ông thường mang Jimmy đi cùng và rồi từ một chai bia sẽ nhẩn nha thành sáu, cộng với hai, ba quắn whisky Dewar, trong khi ấy Jimmy và Sean chơi ngoài sân, đôi khi có thêm Dave Boyle, một thằng bé có đôi mắt ủy mị, tay chân lẻo khoẻo như con gái, suốt ngày kể những truyện cười nghe được từ các ông chú của nó. Từ bên kia cửa sổ bếp, chúng có thể nghe thấy tiếng mở nút bia xì xoẹt, tiếng cười chốc chốc lại rộ lên, tiếng nắp bật lửa Zippo kêu tanh tách mỗi khi ông Devine và ông Marcus châm thuốc Lucky Strike.
Cha Sean là người có công việc tốt hơn, vì ông là đốc công. Ông có vẻ ngoài cao lớn, nước da trắng, và một nụ cười dễ dãi, phóng khoáng mà Sean đã không ít lần chứng kiến, có thể dập tắt ngay mọi cơn giận dữ của mẹ cậu, cứ đơn giản như là tắt đi một chiếc công tắc. Còn cha của Jimmy là người bốc hàng lên xe tải. Đó là một người nhỏ thó với mái tóc màu sẫm lúc nào cũng rủ trên trán một cách lộn xộn nhưng đôi mắt của ông lại vô cùng sống động. Ông vô cùng hoạt bát, chỉ trong nháy mắt là đã thấy biến sang một góc khác ở trong phòng. Dave Boyle thì có rất nhiều chú, nhưng không có cha và lý do duy nhất khiến thằng bé xuất hiện ở đây vào những ngày thứ Bảy như thế này là nhờ biết cách dính như keo vào Jimmy: nó để ý lúc cha con Jimmy rời khỏi nhà để xuất hiện bên cạnh xe ô tô của họ và hổn hển gọi, “Cậu đi đâu đấy, Jimmy?” với một vẻ hy vọng não nề.
Tất cả bọn họ đều sống ở khu East Buckingham, ngay phía Tây của trung tâm thành phố, một khu dân cư với những cửa hàng chật chội nơi góc phố, những sân chơi nhỏ xíu và những cửa hàng thịt treo bán những tảng thịt còn đỏ máu. Các quán bar ở đây đều có tên gốc Ailen với những chiếc xe Dodge Dart đỗ bên ngoài. Phụ nữ thường dùng khăn mùi soa cột tóc lại sau gáy và mang những chiếc bóp giả da để đựng thuốc lá. Cho tới vài năm trước đây, hầu như mọi thanh niên trong khu phố đều bị túm đi lính, cứ như là có tàu vũ trụ tới hớt họ đi và ném thẳng ra chiến trường. Họ trở về cứ như người mất hồn, mặt mũi sưng sỉa hàng năm trời, có khi lâu hơn và cũng có những người không bao giờ trở lại. Ban ngày, các bà mẹ lục báo tìm tem phiếu giảm giá. Ban đêm, các ông bố tìm tới các quán bar. Tất cả mọi người đều biết nhau, chả người nào nỡ bỏ chốn này mà đi, trừ những cậu thanh niên ra trận mà không trở về.
Jimmy và Dave ở khu phố Hạ, dưới con kênh Penitentiary, phía Nam đại lộ Buckingham, chỉ cách phố nhà Sean mười hai khu nhà nhưng nhà Devine lại nằm ở phía Bắc của đại lộ, thuộc về khu phố Thượng mà khu Thượng và khu Hạ vốn không thể đánh đồng.
Nói thế không phải là khu Thượng có những đường phố dát vàng lấp lánh và thìa bạc rải khắp nơi. Người ở khu Thượng cũng là giai cấp lao động, công nhân cổ xanh sống trong những ngôi nhà khung chữ A đơn giản thi thoảng lại xen kẽ một biệt thự nhỏ kiểu Victoria với những chiếc xe Chevy, Ford hay Dodge đỗ bên ngoài. Nhưng người ở khu Thượng sở hữu nhà. Còn người ở khu Hạ ở nhà thuê. Các gia đình ở khu Thượng đều đều đi lễ nhà thờ, sống co cụm lại với nhau, dựng lên những biển hiệu ở góc phố trong mùa bầu cử. Người ở khu Hạ, chả ai biết họ làm gì, đôi khi sống như súc vật, mười người nhét trong một căn hộ, xả rác ra đường phố. Dân Xóm Welliveville, Sean và các bạn học của cậu ở trường Saint Mike vẫn dùng từ đó để chỉ các gia đình sống nhờ vào trợ cấp xã hội, bố mẹ thì ly dị, con cái thì gửi vào các trường công lập. Thế cho nên trong khi Sean đi học ở trường cấp hai Saint Mike trong đồng phục quần trắng, sơ mi xanh, cà vạt đen thì Jimmy và Dave phải học ở trường Lewis M.Dewey trên phố Blaxston. Trẻ con ở trường này có thể ăn mặc thoải mái, nghe thì có vẻ hấp dẫn nhưng sự thực là chúng thường mặc nguyên một bộ trong suốt ba hay năm ngày liền không thay đổi. Cả người chúng trông nhờn nhờn, từ tóc tai, da dẻ, cho tới cổ và tay áo. Rất nhiều cậu trai mặt rỗ mụn đã bỏ học từ rất sớm và vài cô gái mặc váy bầu tới dự lễ tốt nghiệp.
Như vậy nếu không phải là do cha chúng thì có lẽ bọn trẻ sẽ chẳng bao giờ chơi với nhau. Trong tuần chúng cũng không qua lại với nhau trừ những ngày thứ Bảy, những ngày thứ Bảy đặc biệt, chúng cùng chơi ở sân sau hoặc đi lang thang qua những bãi sỏi dưới phố Harvest, bắt tàu điện ngầm vào trung tâm thành phố, chả để thăm thú gì mà chỉ để tận hưởng cảm giác được xuyên qua những đường hầm tối om giữa âm thanh rung chuyển của đường ray, của tiếng phanh nghiến khi những toa tàu quẹo góc, dưới những ánh đèn lóe lên rồi lại chợt tắt mà đối với Sean giống như cả thế giới đang nín thở. Bất cứ chuyện gì cũng có thể xảy đến khi ở cùng với Jimmy. Nếu thằng bé có nhận thức được rằng luật lệ tồn tại ở khắp nơi, dưới tàu điện ngầm, trên phố hay trong rạp chiếu phim thì nó cũng giả vờ như không biết.
Một lần bọn chúng đang chơi ở ga phía Nam, ném qua ném lại một trái banh hockey màu cam trên sân ga thì Jimmy đỡ trượt cú liệng của Sean khiến quả bóng rơi xuống đường ray. Trước khi Sean kịp nghĩ tới việc Jimmy có thể nảy ra ý định đó thì cậu ta đã nhảy khỏi sân ga xuống giữa hai đường ray với đám chuột cống, chuột nhắt và thanh ray cấp điện. Mọi người trên sân ga dường như muốn phát điên. Họ gào thét sau lưng Jimmy. Một người phụ nữ mặt trở nên xám ngoét như tàn thuốc lá khuỵu gối xuống la lớn, Quay lại ngay, quay lại đây ngay, đồ chiết tiệt! Sean nghe thấy một âm thanh chuyển động rùng rùng, có thể là của chuyến tàu đang vào tới đường hầm ở phố Washington hay của những chiếc xe tải chạy ở phía trên mặt đất, những người ở trong sân ga cũng vậy. Họ khua chân múa tay, nghiêng ngó khắp nơi tìm bóng dáng cảnh sát. Một người đàn ông còn lấy tay che mắt con gái mình lại.
Jimmy vẫn cúi đầu, nhìn chăm chú vào khoảng tối dưới sân ga để tìm quả bóng. Cuối cùng nó cũng tìm được và nhẩn nha dùng tay áo lau đi vết bụi bẩn bám trên đó, phớt lờ đám người đang quỳ trước vệt vôi màu vàng an toàn trên sân ga, thò tay xuống phía đường ray vẫy nó.
Dave huých vai Sean kêu lên, “Kinh quá nhỉ?”
Jimmy vẫn thản nhiên đi giữa các đường ray về phía cầu thang cuối sân ga nơi đường hầm há miệng tối om và rồi một âm thanh lớn vang lên, làm rung chuyển cả sân ga khiến hết thảy mọi người đều nhảy chồm lên vì sốt ruột, tay đấm thình thịch vào hai bên mạng sườn. Jimmy vẫn nhẩn nha, cứ như là đang đi dạo mát, rồi quay đầu lại nhìn, bắt gặp ánh mắt của Sean liền toét miệng ra cười.
“Cậu lại còn cười được chứ. Đúng là thằng điên.”
Khi Jimmy đặt chân lên bậc thang xi măng đầu tiên, nhiều cánh tay đã thò xuống lôi nó lên. Sean thấy hai bàn chân của Jimmy đung đưa về phía bên trái, đầu thì gục xuống và ngoẹo sang phải, trông nó nhỏ xíu và nhẹ bẫng trong cánh tay của một người đàn ông lực lưỡng, giống như một con rối làm bằng rơm, nhưng Jimmy vẫn siết chặt quả bóng trước ngực ngay cả khi mọi người tóm lấy khuỷu tay cậu ta mặc cho hai cẳng chân va vào tường. Sean cảm nhận được Dave đang hốt hoảng đi bên cạnh cậu, không nói nên lời. Sean nhìn mặt những người vừa kéo Jimmy lên khỏi đường ray và không tìm thấy bất cứ nét lo âu, sợ hãi nào, không còn bất kỳ dấu vết nào của sự tuyệt vọng mà cậu vừa chứng kiến chỉ một phút trước đó. Cậu chỉ thấy những cơn thịnh nộ, những khuôn mặt hung dữ, cau có, đầy vẻ man rợ như chực cấu xé Jimmy ra từng mảnh nhỏ rồi dần cho thằng bé một trận nhừ tử.
Họ lôi Jimmy lên sân ga, giữ lấy thằng bé, những ngón tay bấu vào vai nó và nhìn quanh quẩn như chờ đợi ai đó nói cho họ biết phải làm gì tiếp theo. Đoàn tàu lao vào đường hầm, ai đó hét lên, rồi sau đó lại có tiếng cười lanh lảnh, cái điệu cười chói tai đó khiến Sean nghĩ tới một đám phù thủy đang vây quanh một cái chảo làm phép vì khi đoàn tàu tiến vào phía bên kia nhà ga và tiếp tục chạy theo hướng Bắc, Jimmy ngẩng lên nhìn vào mặt những người đang giữ lấy cậu như muốn nói, Chả sao cả, thấy chưa?
Cạnh Sean, Dave phá ra cười the thé rồi bưng hai tay lên và nôn ọe vào đó.
Sean nhìn sang chỗ khác và tự hỏi không hiểu vai trò của cậu là ở đâu trong cả câu chuyện này.
Đêm đó, cha Sean bắt cậu ngồi lại trong phòng để đồ ở tầng hầm. Đó là nơi chứa đầy những chiếc mỏ kẹp ê tô màu đen, những vỏ hộp cà phê đựng đinh và ốc vít, những chồng gỗ xếp gọn gàng phía dưới chiếc tủ quầy để đồ nghề sứt sẹo ngăn căn phòng ra làm hai, những chiếc búa gài trên những tấm thắt lưng thợ mộc trông giống súng giắt trong bao, một lưỡi cưa dài lủng lẳng trên móc. Đây là nơi mà cha Sean, thường nhận các công việc sửa chữa vặt trong khu phố dùng để đóng các chuồng chim cho mình và những chiếc kệ để bày hoa trên cửa sổ cho bà vợ. Đây cũng là nơi ông dự định làm lại cánh cổng đằng sau nhà, một ý tưởng mà ông và các bạn ông nghĩ ra vào một mùa hè nóng bỏng khi Sean năm tuổi và đây cũng là nơi ông đến mỗi khi cần được thảnh thơi yên tĩnh một mình, hay khi ông đang giận dữ, điều này Sean cũng biết, hoặc là giận Sean, mẹ cậu hoặc là chính công việc của ông. Những chiếc chuồng chim - mô hình thu nhỏ của các kiểu kiến trúc thời Tudor và thuộc địa, hay kiểu Victoria và nhà gỗ trên núi của Thụy Sĩ - chất đống trong một góc phòng, nhiều tới mức để dùng hết chúng, có lẽ họ phải chuyển tới sống trong rừng Amazon thì mới tìm ra đủ chim để nhốt vào.
Sean ngồi trên chiếc ghế đẩu cũ kỹ màu đỏ, loại thường hay để cạnh quầy bar và thò tay vào bên trong chiếc mỏ kẹp màu đen nặng trịch, chạm vào lớp dầu máy và bụi bám két trong đó cho tới khi cha cậu bảo, “Sean, bố phải nói con bao nhiêu lần nữa hả?”
Nghe thế Sean mới rút tay ra và chùi lớp dầu mỡ vào lòng bàn tay.
Cha cậu nhặt mấy chiếc đinh rơi ra trên nóc quầy, bỏ chúng vào một hộp đựng cà phê màu đen. “Bố biết là con thích Jimmy Marcus nhưng nếu từ giờ trở đi hai đứa muốn chơi cùng với nhau thì sẽ phải chơi ở quanh quẩn gần nhà. Nhà mình chứ không phải nhà cậu ta, nghe chưa?”
Sean gật đầu. Tranh cãi với cha cậu chỉ vô ích khi ông đang nói một cách từ tốn và chậm rãi như lúc này, như thể mỗi từ thoát ra đều đeo thêm một tảng đá nặng.
“Chúng ta hiểu ý nhau chứ?” Cha cậu đặt chiếc hộp cà phê xuống phía bên phải và nhìn Sean.
Sean gật đầu. Cậu nhìn những ngón tay to lớn của cha phủi lớp bụi trên nắp hộp.
“Trong bao lâu ạ?”
Cha cậu với tay lôi một mảng bụi bám trên một chiếc móc ở trần nhà, lấy mấy ngón tay vân vê rồi ném vào thùng rác dưới quầy. “Ôi, cũng phải một thời gian, bố nghĩ vậy. Mà Sean này?”
“Vâng, thưa bố?”
“Đừng có nghĩ tới việc nịnh nọt mẹ con về chuyện này. Bà ấy chẳng bao giờ muốn con gặp lại Jimmy nữa sau pha mạo hiểm ngày hôm nay.”
“Cậu ấy cũng không tệ tới mức đó. Cậu ấy…”
“Bố không nói nó là một đứa tệ. Nó chỉ là một đứa ngông cuồng, mà mẹ con thì rất ớn mấy thứ đó.”
Sean nhìn thấy mặt cha cậu bỗng dưng lóe sáng khi ông nhắc tới từ “ngông cuồng” và cậu hiểu rằng lúc đó cậu đang đối diện với một Billy Devine khác, một Billy Devine mà cậu hình dung ra từ những mẩu đối thoại cóp nhặt, nghe được từ cô dì chú bác. Billy của ngày xưa, họ gọi ông như thế, họ đặt cho ông một biệt hiệu là “cậu chàng thích gây sự”, chú Colm có lần vừa cười vừa nhắc lại, cái gã Billy Devine ấy đã biến mất không lâu trước khi Sean ra đời và thay vào đó là người đàn ông trầm lặng, cẩn thận với những ngón tay to lớn và nhanh nhẹn đã làm không biết bao nhiêu cái chuồng chim này.
“Hãy nhớ những gì chúng ta vừa nói,” cha cậu nói và vỗ lên vai Sean, ra hiệu câu chuyện đã kết thúc.
Sean rời khỏi phòng để đồ, vừa đi trong tầng hầm lạnh lẽo vừa tự hỏi không hiểu điều khiến cậu thích thú làm bạn với Jimmy có giống như việc cha cậu thích giao du với ông Marcus, cùng nhậu nhẹt từ thứ Bảy sang Chủ nhật, rồi cứ đột nhiên cười phá lên một cách ầm ĩ, và phải chăng đó cũng chính là điều khiến mẹ cậu lo sợ.
Vài tuần trôi qua, một hôm thứ Bảy, Jimmy và Dave Boyle tới nhà Devine mà không có cha của Jimmy đi cùng. Hai đứa gõ cửa sau đúng lúc Sean vừa kết thúc bữa sáng. Sean nghe tiếng mẹ cậu ra mở cửa và nói, “Chào buổi sáng Jimmy, chào buổi sáng Dave” bằng cái giọng lịch sự rất xã giao bà thường hay dùng với những người mà bà thường phân vân không biết có nên qua lại hay không.
Hôm nay Jimmy có vẻ trầm lặng. Nguồn năng lượng hừng hực thường ngày dường như bị phong kín. Sean gần như có thể nhận thấy thứ năng lượng ấy đang giãy giụa giữa những bức tường thành bên trong lồng ngực Jimmy và cậu ta đang cố phong tỏa chúng. Trông cậu ta nhỏ bé và rầu rĩ hẳn đi như một thằng nhóc đang bị gai chích. Sean đã từng chứng kiến cảnh này trước đây. Ở Jimmy luôn có cái gì đó rất tâm trạng khiến Sean vẫn thường tự hỏi không biết cậu ta có khả năng điều chỉnh sự u uất đó hay không, hay là nó lại giống như một cơn đau họng và những người họ hàng của mẹ, cứ đột ngột xuất hiện mà không cần biết liệu chủ nhà có muốn đón tiếp.
Những lúc Jimmy như thế thì Dave Boyle lại càng chứng tỏ khả năng thêm dầu vào lửa của mình. Có vẻ như cậu ta tự nhận mình có nhiệm vụ làm cho người khác vui vẻ nhưng hậu quả lại thường chỉ khiến đối tượng thêm bực bội.
Trong lúc chúng đứng đó trên vỉa hè chưa biết phải làm gì thì Jimmy vẫn chìm đắm trong thế giới của riêng cậu ta còn Sean thì chưa tỉnh ngủ. Cả ba đứa đều uể oải nghĩ tới viễn cảnh cả một ngày chỉ được phép chơi bời trong phạm vi khu phố của Sean. Dave lên tiếng trước, bảo, “Này, tại sao chó lại liếm hai hòn bi của nó?”
Cả Sean và Jimmy đều chẳng buồn trả lời. Chúng đã nghe câu hỏi này có lẽ đến lần thứ một nghìn rồi cũng nên.
“Vì nó có thể!” Dave Boyle cười ré lên rồi ôm lấy bụng cứ như thể cậu ta buồn cười tới đau cả ruột.
Jimmy bước về phía các cột trụ chắn đường mà người ta đặt xung quanh khu vực vỉa hè đang được thay gạch lát. Đội thi công đã căng dải băng màu vàng cấm xâm phạm quanh bốn cột trụ chắn tạo thành một hình chữ nhật để bảo vệ những tấm gạch lát mới nhưng Jimmy vẫn thản nhiên đi qua khiến dải băng đứt phựt. Rồi cậu ta ngồi xổm xuống mép đường, đôi giày vải hiệu Ked đặt lên phần vỉa hè cũ, và dùng một cái que vẽ lên lớp xi măng còn mềm xốp những đường thanh thanh khiến Sean liên tưởng tới những ngón tay của người già.
“Bố tớ không còn làm chung với bố cậu nữa.”
“Sao thế?” Sean ngồi xổm xuống bên cạnh Jimmy. Cậu không có cái que nào dù cậu rất muốn. Cậu những mong làm giống như Jimmy mà không hiểu tại sao mình lại có ý định đó trong khi thừa biết nếu làm vậy thì cha cậu sẽ quật cho cậu quắn đít.
Jimmy chỉ nhún vai nói, “Vì ông ấy thông minh hơn họ. Ông ấy làm cho họ sợ vì ông ấy biết quá nhiều thứ.”
“Những thứ rất hoành tráng!” Dave Boyle chen vào. “Phải không, Jimmy?”
Phải không, Jimmy? Phải không, Jimmy? Đôi khi Dave giống hệt một con vẹt.
Sean tự hỏi không hiểu một người có thể hiểu biết về bánh kẹo tới mức độ nào và tại sao điều đó lại được coi là quan trọng. “Là thứ gì mới được chứ?”
“Như làm sao điều hành công việc tốt hơn.” Jimmy nói, vẻ không được chắc chắn cho lắm rồi nhún vai kết luận. “Nói chung là nhiều thứ, những thứ quan trọng.”
“Ồ.”
“Làm sao điều hành công việc tốt hơn. Phải thế không, Jimmy?”
Jimmy tiếp tục vẽ lên nền xi măng. Dave Boyle đã tìm được một cái que và chúi đầu xuống xi măng để vẽ một hình tròn. Jimmy nhíu mày, vứt cái que của mình sang một bên. Dave ngừng vẽ, nhìn sang Jimmy như muốn hỏi, Tớ phải làm gì đây?
“Biết có trò gì hay không?” Giọng nói chợt trở nên phấn khích của Jimmy khiến máu trong người Sean như sôi lên vì cái gọi là “hay” của Jimmy thường rất khác người.
“Trò gì cơ?”
“Lái xe ô tô.”
“Cũng được.” Sean từ tốn trả lời.
“Các cậu biết không,” Jimmy giơ hai tay lên chỉ ra xung quanh, lập tức quên bẵng cái que và những nét vẽ nguệch ngoạc trên lớp xi măng mới và bảo, “chỉ cần đi quanh dãy nhà này thôi.”
“Chỉ cần đi quanh dãy nhà thôi,” Sean nói.
“Hơi bị hay đấy, nhỉ?” Jimmy nói và cười toét miệng.
Sean cảm thấy mặt cậu giãn ra và bừng lên một nụ cười. “Hay đấy!”
“Phải nói là hay chưa từng thấy.” Jimmy nói rồi co một chân nhảy cẫng lên. Cậu ta nhướng mày về phía Sean rồi lại nhảy cẫng lên lần nữa.
“Đúng là sẽ rất hay.” Sean có cảm giác như chiếc vô lăng to sù đã nằm trong tay cậu.
“Chuẩn chuẩn chuẩn.” Jimmy nói và đấm vào vai Sean.
“Chuẩn chuẩn chuẩn.” Sean thụi lại vào vai Jimmy, có cái gì đó đang dâng trào trong người cậu, dồn dập gấp gáp, khiến mọi thứ đều trở nên tươi sáng, hối hả.
“Chuẩn chuẩn chuẩn.” Dave nhại lại nhưng cú đấm của cậu ta không trúng vào vai Jimmy.
Trong chốc lát, Sean quên bẵng mất là Dave cũng đang ở đó. Chuyện này vẫn hay thường xảy ra với Dave. Sean cũng không biết là tại sao nữa.
“Hay đếch chịu được!” Jimmy cười to và lại nhảy cẫng lên.
Còn Sean thì đã lập tức hình dung ra cảnh đó. Hai đứa bọn cậu ngồi ở ghế trước (Dave ngồi phía sau giả sử như cậu ta có mặt ở đó) và chiếc xe chuyển động, hai đứa trẻ mười một tuổi lái xe đi quanh Buckingham, bóp còi inh ỏi khi nhìn thấy bạn, khiêu khích những đứa lớn hơn trên đại lộ Dunboy đua theo, mài lốp xe kin kít trên đường và thải ra những đám khói dày đặc. Cậu còn cảm thấy cả lớp không khí tràn qua cửa xe lùa vào tóc cậu.
Jimmy nhìn ra phố và hỏi, “Cậu biết ai ở phố này để chìa khóa trong xe không?”
Sean biết. Ông Griffin để chìa khóa dưới ghế, Dottie Fiore cất trong hộp đựng găng còn ông già Makowski say xỉn, ngày cũng như đêm lúc nào cũng bật Sinatra ầm ĩ thì đa phần để luôn chìa trong ổ khóa.
Nhưng khi nhìn theo ánh mắt của Jimmy, lựa ra những chiếc xe mà cậu biết là có chìa khóa, cậu chợt thấy một cơn đau mù mịt dâng lên đằng sau mắt và dưới thứ ánh mặt trời gay gắt đang nhảy nhót trên những mũi và thùng xe, cậu có thể cảm nhận được gánh nặng và sự mong đợi của cả dãy phố, của những ngôi nhà, của cả khu Thượng đối với cậu. Cậu sẽ là một đứa đi trộm xe. Cậu là một đứa trẻ tương lai sẽ vào đại học, trở thành một người xuất sắc hơn, quan trọng hơn là một viên đốc công hay một phu bốc dỡ. Kế hoạch đã được sắp sẵn như thế và Sean cũng tin rằng nếu cẩn thận và có ý thức thì kế hoạch sẽ diễn ra suôn sẻ. Giống như phải ngồi xem từ đầu đến cuối một bộ phim cho dù nó có tẻ nhạt hay khó hiểu tới mức nào đi nữa. Vì đôi khi tới cuối phim các nút thắt sẽ được mở ra hay một kết thúc hợp lý sẽ khiến người ta cảm thấy bõ công theo dõi cả một bộ phim.
Cậu ta toan bảo Jimmy điều đó nhưng cậu ta đã đi lên đầu phố và nhòm vào các cửa xe, Dave chạy bên cạnh.
“Chiếc này thì sao?” Jimmy đặt tay lên chiếc Bel Air của ông Carlton, giọng âm vang trong gió.
“Jimmy này,” Sean bước tới và bảo, “có lẽ để lần khác. Được không?”
Mặt Jimmy xị xuống và cau lại. “Ý cậu là sao? Chúng ta sẽ làm ngay bây giờ. Trò này rất hay. Hay đếch chịu được! Nhớ đã nói gì không?”
“Hay đếch chịu được,” Dave nhại lại.
“Chúng ta thậm chí không nhìn được cao hơn bảng điều khiển.”
“Kê danh bạ điện thoại dưới mông.” Jimmy cười tươi trong nắng. “Lấy chúng ở nhà cậu ấy.”
“Danh bạ điện thoại,” Dave nói, “Ừ đúng!”
Sean giơ cả hai tay lên để phản đối. “Thôi mà. Không được.”
Nụ cười tắt ngấm trên mặt Jimmy. Cậu ta nhìn hai cánh tay đang giơ lên của Sean như muốn cắt cụt chúng từ khuỷu trở xuống. “Sao cậu không thử làm chuyện gì đó hay ho nhỉ?” Cậu ta nói và xoay nắm cửa chiếc Bel Air nhưng nó đã bị khóa. Hai má Jimmy khẽ giật giật, môi dưới của cậu ta rung lên và cậu ta quay sang nhìn Sean với một vẻ cô đơn hoang dại khiến Sean cảm thấy thương hại.
Dave nhìn Jimmy rồi quay sang nhìn Sean. Tay cậu ta lóng ngóng vung lên đập trúng vai của Sean. “Đúng thế, sao mà cậu lại không muốn làm những trò hay ho chứ?”
Sean không tin nổi rằng Dave vừa giơ tay đánh cậu. Chính là Dave.
Cậu liền thụi một phát vào giữa ngực Dave khiến cậu ta ngã ngửa ra.
Jimmy đẩy Sean một phát. “Cậu đang làm cái quái gì thế?”
“Cậu ta đánh tớ trước,” Sean nói.
“Cậu ấy không đánh cậu,” Jimmy bảo.
Mắt Sean mở to vì kinh ngạc trong khi Jimmy nhại lại những lời cậu vừa nói.
“Cậu ta đánh tớ trước.”
“Cậu ta đánh tớ trước,” Jimmy giả giọng con gái nhại lại rồi xô Sean thêm một cái nữa và bảo, “Cậu ấy là bạn của thằng này đấy nhé!”
“Tớ cũng vậy, tớ cũng là bạn cậu đấy thôi,” Sean nói.
“Tớ cũng vậy,” Jimmy tiếp tục lải nhải. “Tớ cũng vậy, tớ cũng vậy, tớ cũng vậy.”
Dave Boyle đứng dậy, cười ầm lên. “Thôi đi,” Sean nói.
“Thôi đi, thôi đi, thôi đi.” Jimmy lại đẩy Sean một lần nữa, cùi chỏ của cậu ta tì vào sườn Sean. “Cậu muốn gây sự với tớ đấy hả? Cậu muốn gây sự với tớ phải không?”
“Cậu muốn gây sự với cậu ấy hả?” Giờ tới lượt Dave xô Sean một cái.
Sean không hiểu tại sao mọi chuyện lại ra nông nỗi này. Cậu không thể nhớ nổi điều gì đã khiến Jimmy trở nên giận dữ hay vì nguyên cớ nào mà Dave lại ngốc đến nỗi ra tay với cậu trước. Một giây trước ba đứa cùng đứng cạnh chiếc xe hơi. Giờ thì cả ba đã ra tới giữa phố, Jimmy liên tục xô đẩy cậu, mặt hằm hằm, cau có, hai mắt tối sầm lại, nhỏ xíu, Dave cũng đã bắt đầu vào cuộc.
“Tiếp tục đi. Gây sự xem nào.”
“Tớ không…”
Lại một cú xô nữa. “Ra tay đi nào, đồ con gái.”
“Jimmy, chúng ta có thể chỉ…”
“Không. Không được. Sean này, cậu đúng là cái đồ mít ướt! Phải không?”
Cậu ta lại đẩy Sean một cái rồi đột ngột dừng lại và cái vẻ cô đơn hoang dại (đượm cả mệt mỏi mà Sean chợt nhận thấy) hằn rõ trên gương mặt Jimmy khi cậu ta nhìn ra phía đằng sau Sean và phát hiện ra cái gì đó đang tiến lại gần bọn họ.
Đó là một chiếc ô tô màu nâu sẫm, dài và vuông vức như kiểu các thanh tra cảnh sát hay sử dụng, một chiếc Plymouth hay đại loại như thế. Tấm chắn phía trước của chiếc ô tô dừng lại ngay trước chân chúng và hai viên cảnh sát quan sát bọn trẻ qua lớp kính chắn gió, bóng cây phản chiếu trên gương khiến mặt họ trông mờ mờ.
Sean có cảm giác như không khí của buổi sáng hôm đó bỗng nhiên thay đổi một cách đột ngột.
Người tài xế bước ra khỏi xe. Trông ông ta giống như một nhân viên cảnh sát tóc vàng húi cua, mặt đỏ gay, áo sơ mi trắng, cà vạt vải bóng sọc vàng và đen, cái bụng phệ của ông ta phòi ra ngoài thắt lưng như một chồng bánh kếp. Còn người kia trông như đang ốm. Đó là một người gầy gò, dáng vẻ mệt mỏi. Ông ta vẫn ngồi nguyên tại chỗ, một tay ôm đầu, mái tóc dầu đen nhờn và nhìn chằm chằm qua gương chiếu hậu vào ba đứa bé đang tiến lại gần cửa. Bên lái.
Người đàn ông to béo chỉ tay về phía bọn trẻ rồi ngoắc chúng lại gần cho tới khi chúng dừng lại trước mặt ông ta. “Hãy để ta hỏi mấy đứa vài câu nhé?” Ông ta cúi gập người xuống và cái đầu bự của ông ta che hết tầm nhìn của Sean. “Các cậu nghĩ là có thể thoải mái đánh nhau giữa phố hay sao?”
Sean để ý thấy phía bên phải trên thắt lưng của ông ta có cài một chiếc phù hiệu màu vàng.
“Nói xem nào?” Viên cảnh sát lấy một tay chụm lại sau tai như muốn nghe chúng trả lời thật rõ.
“Không ạ!”
“Không ạ!”
“Không ạ!”
“Chúng mày là một đám du côn, phải không?” Ông ta ngoắc ngón tay trỏ mập mạp của mình về phía người đàn ông ngồi trong xe rồi nói tiếp, “Tao và đồng nghiệp của tao đã quá ngán những đám du côn hoành hành ở East Bucky như chúng mày, làm những người tử tế khác sợ không dám ra đường nữa. Biết chưa?”
Sean và Jimmy không nói gì.
“Chúng cháu xin lỗi,” Dave Boyle nói và trông như sắp sửa bật khóc tới nơi.
“Chúng mày là trẻ con ở phố này hả?” viên cảnh sát to béo hỏi. Mắt ông ta săm soi từng căn nhà ở dãy phố bên trái như thể ông ta biết hết người dân ở đây và sẽ bắt cả ba đứa về đồn nếu chúng nói dối.
“Ừm,” Jimmy nói và quay ra nhìn về phía nhà của Sean.
“Vâng ạ,” Sean nói.
Chỉ Dave là không lên tiếng.
Viên cảnh sát nhìn nó và hỏi. “Hả? Chú mày nói gì?”
“Nói gì?” Dave nhìn Jimmy.
“Đừng có nhìn nó. Nhìn tao đây này.”
Viên cảnh sát béo thở hồng hộc qua đường mũi. “Chú mày có sống ở đây không?”
“Hả? Không.”
“Không à?” Viên cảnh sát cúi xuống Dave.
“Thế mày sống ở đâu hả con giai?”
“Phố Rester.” Dave trả lời, mắt vẫn nhìn Jimmy.
“Xóm ổ chuột ở khu Hạ?” Đôi môi đỏ sậm màu sơ ri của viên cảnh sát trề ra như thể ông ta đang ngậm kẹo mút. “Thật chả hay ho chút nào phải không?”
“Gì cơ ạ?”
“Mẹ mày có ở nhà không?”
“Dạ có ạ.” Một dòng nước mắt trào xuống má Dave khiến Sean và Jimmy phải quay mặt đi.
“Thôi được rồi, chúng ta sẽ nói chuyện với bà ấy, bảo cho bà ấy biết đứa con trai lêu lổng của bà định giở trò gì.”
“Cháu không… cháu không…” Dave bắt đầu khóc sướt mướt.
“Lên xe.” Viên cảnh sát mở cánh cửa sau và Sean ngửi thấy sộc lên mùi men táo, một hương vị rất đặc trưng của tháng Mười.
Dave lại nhìn sang Jimmy.
“Lên xe,” viên cảnh sát ra lệnh. “Hay muốn tao còng tay lại?”
“Cháu…”
“Gì nữa?” Viên cảnh sát có vẻ bực mình. Ông ta đập tay lên cửa xe và bảo, “Mày có lên xe ngay không thì bảo.”
Dave rên rỉ trèo vào ghế sau.
Viên cảnh sát giơ một ngón tay ú nần chỉ vào Jimmy và Sean. “Về khai với mẹ hai đứa định giở trò gì. Và đừng có để tao bắt gặp hai đứa du côn chúng mày đánh nhau trong khu vực của tao lần nữa.”
Jimmy và Sean lùi lại để viên cảnh sát chui vào xe và lái đi. Chúng nhìn theo cho tới khi chiếc xe đi tới góc phố và rẽ phải, gương mặt của Dave ngày càng xa dần và mờ đi, vẫn không thôi nhìn về phía chúng. Và rồi con phố lại vắng hoe, như thể tiếng sập cửa lúc trước của chiếc xe ô tô đã khiến nó trở nên câm lặng. Jimmy và Sean đứng vào chỗ chiếc xe lúc trước, nhìn xuống chân mình rồi nhìn quanh quẩn, xuôi ngược khắp phố, chỉ không nhìn vào mặt nhau.
Sean lại có cái cảm giác nôn nao lúc trước, thêm vào cái vị lạ lùng trong miệng như thể cậu đang phải ngậm những đồng xu bẩn. Bụng thì cồn cào như có một cái thìa đang nạo hết mọi thứ ở bên trong.
Và rồi Jimmy lên tiếng. “Chính là do cậu gây chuyện trước.”
“Là cậu ta gây chuyện trước.”
“Là cậu thì có. Giờ thì cậu ấy tiêu rồi. Đầu óc mẹ cậu ấy không bình thường. Không hiểu bà ta sẽ làm gì khi thấy cậu ấy bị hai cảnh sát áp giải về nhà.”
“Tớ không phải là người khơi mào.”
Jimmy đẩy Sean nhưng lần này Sean xô lại và rồi cả hai đứa vừa lăn lộn dưới đất vừa đấm đá nhau.
“Này!”
Sean rời khỏi Jimmy, cả hai đứa lật đật đứng dậy, cứ tưởng là lại bị hai viên cảnh sát lúc nãy bắt quả tang nhưng chỉ thấy ông Devine đang tiến về phía chúng.
“Hai đứa đang làm cái quái quỷ gì vậy?”
“Không có gì ạ.”
“Không có gì? Cha Sean cau mày khi bước tới gần vệ đường. “Đừng đứng ở giữa phố như thế.”
Hai đứa liền leo lên vỉa hè bên cạnh ông.
“Không phải là có ba đứa chơi với nhau sao?” Ông Devine nhìn quanh. “Dave đâu rồi?”
“Gì cơ ạ?”
“Dave.” Cha Sean nhìn cậu và Jimmy. “Không phải là Dave chơi với hai đứa sao?”
“Bọn con đánh nhau.”
“Gì cơ?”
“Bọn con đang đánh nhau thì cảnh sát xuất hiện.”
“Khi nào vậy?”
“Khoảng năm phút trước ạ.”
“Thôi được rồi. Vậy là cảnh sát xuất hiện.”
“Và họ mang Dave đi.”
Cha Sean nhìn khắp phố một lần nữa rồi hỏi. “Họ làm gì cơ? Họ mang nó đi á?”
“Mang cậu ấy về nhà. Cháu nói dối. Cháu bảo là cháu sống ở đây. Dave thì bảo là cậu ấy sống ở khu Hạ nên họ…”
“Hai đứa đang nói gì vậy? Sean, hai viên cảnh sát đó trông thế nào?”
“Gì cơ ạ?”
“Họ có mặc đồng phục cảnh sát không?”
“Không. Không ạ, họ…”
“Thế sao hai đứa biết đó là cảnh sát?”
“Con không biết. Nhưng họ…”
“Họ làm sao?”
Ông ta có một cái phù hiệu,” Jimmy lên tiếng. “Cài ở thắt lưng.”
“Phù hiệu gì?”
“Hình như mạ vàng?”
“Thôi được. Nhưng trên phù hiệu ghi gì?”
“Ghi gì ấy ạ?”
“Ghi những chữ gì? Hai đứa có đọc được trên phù hiệu ghi gì không?”
“Không ạ. Con không biết.”
“Billy?”
Tất cả bọn họ đều quay đầu ra nhìn mẹ Sean lúc này đang đứng trên ngưỡng cửa vẻ nghi ngờ và lo lắng.
“Em yêu, gọi tới sở cảnh sát được không? Hỏi xem có thanh tra nào vừa bắt một đứa trẻ vì tội đánh nhau ở trên phố nhà mình không?”
“Một đứa trẻ là sao?”
“Chính là Dave Boyle”
“Ôi Chúa ơi. Mẹ của thằng bé.”
“Đừng nói gì với bà ấy vội. Được không? Chờ xem cảnh sát nói gì đã, phải không?”
Mẹ Sean quay vào trong nhà. Sean nhìn cha mình bối rối tới nỗi không biết để hai tay mình vào đâu nữa. Cậu đút tay tay vào túi rồi lại rút ra, chùi lên quần. “Con thật đáng chết.” Cậu nói khẽ và nhìn về cuối phố như thể Dave đang lẩn quất ở đó, một ảo ảnh đang nhảy múa, bên ngoài tầm nhìn của Sean.
“Nó màu nâu.” Jimmy nói.
“Cái gì cơ?”
“Chiếc xe ô tô đó. Màu nâu sẫm. Giống một chiếc Plymount. Cháu nghĩ là vậy.”
“Gì nữa?”
Sean cố hình dung ra chiếc xe ô tô đó nhưng không thể. Cứ như có cái gì đó đã che khuất tầm mắt của cậu, không để chi tiết nào lọt vào. Mặc dù chiếc xe đó đứng lấp cả chiếc xe Pinto màu da cam và nửa bên dưới hàng rào nhà bà Ryan nhưng Sean không thể nhìn thấy hết chiếc xe.
“Nó có mùi táo,” cậu nói.
“Gì cơ?”
“Giống như mùi táo. Chiếc xe có mùi táo.”
“Chiếc xe có mùi táo,” bố cậu nhắc lại.
Một tiếng đồng hồ sau, trong bếp nhà Sean, hai cảnh sát đặt ra cho Sean và Jimmy một loạt câu hỏi, và rồi một người thứ ba xuất hiện để vẽ phác họa chân dung hai gã đàn ông trong chiếc ô tô màu nâu dựa trên những chi tiết mà bọn trẻ cung cấp. Trên bản vẽ, gã cảnh sát to béo tóc vàng trông nham hiểm hơn, mặt cũng bự hơn nhưng dù sao thì cũng giống với người thật. Còn gã thứ hai, kẻ theo dõi mọi việc qua gương chiếu hậu, trông chả giống chút nào, chỉ là một hình ảnh mờ nhạt có mỗi mái tóc đen là thật vì Sean và Jimmy không nhớ hắn ta rõ lắm.
Cha Jimmy cũng xuất hiện và đứng trong góc bếp, vẻ giận dữ tới quẫn trí, mắt ông ậng nước, người hơi lắc lư như thể các bức tường đang chuyển động phía sau lưng. Ông không chuyện trò với cha Sean và cũng chẳng có ai nói gì với ông. Ông không còn cái vẻ hoạt bát thường lệ nên Sean thấy ông càng có vẻ nhỏ bé và không thực, cứ như thể chỉ cần cậu quay đi chỗ khác là ông sẽ tan biến vào lớp giấy dán tường.
Sau bốn, năm lần nhắc đi nhắc lại các chi tiết của sự việc, mọi người bắt đầu rời đi, đầu tiên là hai viên cảnh sát, người phác họa chân dung tội phạm, rồi tới Jimmy và bố cậu ta. Mẹ Sean bỏ vào trong phòng đóng chặt cửa lại, mấy phút sau Sean nghe thấy những tiếng khóc như nghẹt lại của bà.
Sean ngồi trên ngưỡng cửa và cha cậu nói cậu đã không làm gì sai, rằng cậu và Jimmy đã rất khôn ngoan khi không chui vào chiếc xe đó. Cha cậu vỗ vỗ lên đầu gối của cậu và bảo mọi chuyện sẽ ổn thôi. Rằng Dave sẽ trở về nhà đêm nay. Cậu cứ chờ mà xem.
Rồi ông im bặt. Ông ngồi bên cạnh Sean, nhấm nháp lon bia, nhưng Sean có thể cảm thấy ông đang rời xa khỏi cậu, có lẽ ông đang ở trong phòng ngủ với mẹ cậu, hoặc đi xuống dưới hầm làm mấy cái chuồng chim.
Sean nhìn ra ngoài phố, lên những dãy xe hơi sáng lấp lánh. Cậu tự nhủ rằng toàn bộ câu chuyện này hẳn là một phần của kế hoạch tất yếu nào đó. Giờ thì cậu vẫn chưa nhìn ra kế hoạch ấy là gì. Nhưng hẳn một ngày nào đó cậu sẽ hiểu. Thứ kích thích tố adrenalin chạy giần giật khắp người cậu từ khi Dave bị mang đi và cuộc ẩu đả trên đường phố với Jimmy cuối cùng cũng được gột khỏi cơ thể cậu như một thứ chất thải.
Sean nhìn ra chỗ mình vừa đánh lộn với Jimmy và Dave Boyle lúc trước bên cạnh chiếc Bel Air và đợi cho những lỗ hổng do đám kích thích tố adrenalin rút đi trở nên lành lặn trên người cậu. Cậu đợi cho cái kế hoạch kia thành hình và trở nên có ý nghĩa. Cậu chờ đợi và quan sát con phố, cảm nhận được những rung động của nó và tiếp tục chờ đợi cho tới khi cha cậu đứng dậy và hai cha con cùng bước vào nhà.
Jimmy đi sau cha cậu về khu phố Hạ. Ông già bước đi người hơi lắc lư, hút thuốc cho tới khi chỉ còn sót lại mẩu đầu lọc và lẩm nhẩm nói một mình. Khi về tới nhà ông ấy có thể sẽ đánh cậu một trận, cũng có thể không, cả hai khả năng này đều có thể xảy ra. Sau khi mất việc, ông dặn Jimmy không được tới nhà Devine chơi nữa nên Jimmy đoán rằng hẳn cậu sẽ bị trừng trị vì đã không nghe lời. Nhưng có vẻ không phải hôm nay. Cha cậu có cái vẻ say xỉn lơ mơ thường sẽ khiến ông ngồi lì ra trong bếp và uống cho tới khi khoanh tay ngủ gục xuống bàn.
Jimmy giữ một khoảng cách với cha cậu để đề phòng, và ném trái bóng lên cao rồi chộp lấy bằng chiếc găng tay chơi bóng chày mà cậu lấy trộm ở nhà Sean trong lúc cảnh sát chào từ biệt gia đình Devine mà chẳng ai thèm nói lấy một từ với Jimmy hay cha cậu khi họ đi ra cửa. Cửa phòng ngủ Sean để mở và Jimmy nhìn thấy chiếc găng tay vứt trên sàn với quả bóng cuộn bên trong nên liền đi tới nhặt chúng lên rồi cùng cha cậu đi về bằng cửa trước. Cậu không hiểu tại sao mình lại ăn trộm chiếc găng tay đó. Không phải là vì cái nháy mắt vừa khoái trá vừa ngạc nhiên vủa cha cậu khi ông nhìn thấy hành động này. Cậu đếch thèm quan tâm tới điều đó. Cậu đếch thèm quan tâm tới việc cha cậu nghĩ gì.
Mọi chuyện hẳn có gì liên quan tới việc Sean ra tay với Dave Boyle và từ chối tham gia vụ đánh cắp xe ô tô rồi một loạt những sự việc xảy ra trong suốt thời gian hai đứa chơi với nhau khiến Jimmy có cảm giác như bất cứ vật gì mà Sean đưa cho cậu - từ những chiếc thẻ bóng chày hay một nửa thanh kẹo, mọi thứ - đều giống như một kiểu bố thí.
Lúc mới nhặt chiếc găng tay lên rồi bỏ đi, cậu cảm thấy vô cùng hoan hỉ. Một cảm giác thật là tuyệt vời. Nhưng chỉ ngay sau đó khi cha con họ đi ngang qua đại lộ Buckingham, sự hổ thẹn và bẽ bàng rất đỗi quen thuộc mỗi khi lấy trộm cái gì đó lại ùa về cùng với một cơn thịnh nộ đối với những kẻ đã xô đẩy cậu tới hành động đó. Thế nhưng chỉ cần rẽ xuống phố Crescent và về tới khu Hạ với những khu nhà ba tầng thảm hại thì một niềm tự hào lại trỗi dậy khi cậu nhìn chiếc găng tay chiến lợi phẩm của mình.
Jimmy lấy trộm chiếc găng và cảm thấy áy náy về điều đó. Sean bị mất đồ và sẽ đi tìm khắp nơi. Jimmy lấy trộm chiếc găng đồng thời cảm thấy khoái trá về điều đó. Khi biết rằng Sean bị mất đồ và sẽ đi tìm khắp nơi.
Jimmy nhìn cha cậu loạng choạng ở phía trước, ông già khốn kiếp xem chừng sắp sửa ngã gục bất cứ lúc nào và tan lẫn vào đám bùn đen dưới đất, cậu lại càng cảm thấy ghét Sean.
Cậu ghét Sean và cậu đúng là ngu khi tin rằng họ có thể trở thành bạn bè, cậu biết là cậu sẽ giấu chiếc găng này suốt đời, giữ gìn nó cẩn thận, không cho ai nhìn thấy và không bao giờ dùng thứ khốn kiếp đó, dù chỉ một lần. Thà chết còn hơn là cho phép chuyện đó xảy ra.
Jimmy nhìn khu phố Hạ trải dài trước mắt và ông già đang bước đi dưới bóng tối hun hút, dày đặc của những đường ray tàu hỏa trên cao tới gần đoạn đường nơi phố Crescent kết thúc và những chuyến tàu chở hàng chạy rầm rầm qua khu chiếu bóng xập xệ cũ phía trước kênh đào Penitentiary và biết rằng họ sẽ không bao giờ gặp lại Dave Boyle nữa. Ở phố Rester nơi Jimmy đang sống, trộm cắp xảy ra suốt ngày. Jimmy bị mất chiếc xe đạp ba bánh Big Wheel khi lên bốn và xe đạp khi lên tám. Ông già thì bị mất một chiếc ô tô. Mẹ cậu bắt đầu phải phơi quần áo ở trong nhà sau nhiều lần bị mất đồ ở sân phơi. Cái cảm giác bị đánh cắp và đánh mất hoàn toàn khác hẳn nhau. Người ta có thể cảm nhận được một cách rõ ràng rằng những thứ bị đánh cắp thì sẽ không bao giờ trở lại. Đó là cảm giác của cậu về Dave. Có lẽ vào chính lúc này, Sean cũng đang trải qua thứ cảm giác ấy khi nghĩ tới chiếc găng tay bóng chày, đứng ở chỗ chiếc găng tay lúc trước mà nghĩ, và chẳng cần suy luận gì nhiều cũng hiểu rằng nó sẽ không bao giờ quay trở lại.
Thật tệ vì Jimmy cũng rất thích Dave mặc dù đa phần cậu không cắt nghĩa nổi tại sao.
Có cái gì đó ở cậu nhóc ấy, có lẽ vì cậu ta luôn hiện diện cho dù có tới phân nửa thời gian người ta không thèm để ý tới cậu.