Katie. Chỉ cần âm thanh của cái tên ấy vang lên trong đầu thôi cũng đủ khiến Brendan cảm thấy như cả người được bơm khí nitơ oxit, có thể đi được trên nước và nhấc bổng một chiếc siêu tải mười tám bánh vứt sang bên kia đường.
Brendan Harris lúc này yêu hết thảy mọi người vì cậu yêu Katie và Katie yêu cậu. Cậu yêu cả cảnh tắc đường, đám sương mù và âm thanh của dàn búa khoan. Cậu yêu cả người cha tồi tệ chưa hề gửi cho cậu lấy một tấm thiệp mừng sinh nhật hay Giáng sinh kể từ khi ông ta bỏ cậu và mẹ cậu ra đi khi Brendan lên sáu. Cậu yêu cả những buổi sáng thứ Hai, những bộ phim sitcom không khiến nổi một thằng ngu bật cười, yêu cả cảnh xếp hàng trước cục cấp phép lái xe. Thậm chí cậu còn yêu cả công việc của mình dù biết rằng sẽ không bao giờ quay trở lại chỗ làm nữa.
Sáng mai, Brendan sẽ rời khỏi nhà, rời khỏi mẹ cậu, ra khỏi cánh cửa tồi tàn đó, bước xuống những bậc cầu thang kẽo kẹt ra ngoài con phố lớn, với những chiếc xe đỗ chồng chéo khắp nơi và những người ngồi tán dóc trước hiên nhà, để mà bước đi như trong một bài hát chết tiệt của Springsteen nhưng không phải của những Nebraska hay Ghost of Tom Joad mà là những bài như Born to Run, Two Hearts Are Better Than One hay Rosalita, Won’t You Come Out Tonight, một hợp ca của Bruce. Đúng thế, hợp ca, cậu chính là một bản hợp ca vào giây phút cậu bước xuống đường giữa những mũi xe san sát phía sau, giữa những tiếng còi phản đối inh ỏi để tới được con phố đó, nằm giữa lòng Buckingham, nắm lấy tay Katie và cùng rời đi, để lại mọi thứ sau lưng, lên máy bay tới Vegas làm đám cưới, những ngón tay đan chặt vào nhau, Elvis sẽ đọc những câu từ Kinh Thánh hỏi cậu có muốn lấy người phụ nữ này và Katie nói rằng cô muốn lấy người đàn ông này và rồi, và rồi, không cần hỏi gì nữa, họ đã kết hôn và rời đi vĩnh viễn, không bao giờ trở lại, không bao giờ nữa, sẽ chỉ có cậu và Katie với một cuộc đời mới sạch sẽ, lương thiện trải ra trước mắt, một cuộc đời mới đã gột sạch quá khứ và những mối ràng buộc cũ.
Cậu nhìn quanh phòng ngủ của mình. Quần áo đã cho vào va li. Séc du lịch American Express đã cất. Giày thể thao đã xếp gọn. Ảnh của cậu và Katie cũng vậy. Máy hát xách tay, đĩa CD, đồ dùng vệ sinh, tất cả đều đã cho vào va li.
Cậu nhìn những thứ cậu sẽ để lại. Áp phích của Bird và Parrish. Bức áp phích Fisk đang thực hiện cú đánh ăn điểm trực tiếp ở phút thứ 75. Áp phích của Sharon Stone trong váy dạ hội màu trắng (đã được cuộn lại và giấu dưới giường kể từ đêm đầu tiên cậu dụ Katie lên đây, nhưng dù sao thì vẫn…) Phân nửa các đĩa hát của cậu. Mẹ kiếp, phần lớn còn chưa được nghe quá hai lần. Chúa ơi lại còn MC Hammer nữa chứ. Rồi Billy Ray Cyrus. My Gawd. Một cặp loa Sony khủng dùng để hỗ trợ dàn âm thanh Jensen, công suất hai trăm watt, mới mua mùa hè năm ngoái khi cậu nhận công việc sửa chữa mái nhà với toán thợ của Bobby O’Donnell.
Đó cũng là lần đầu tiên cậu tiếp cận Katie đủ gần để có thể bắt chuyện. Chúa ơi, mới chỉ một năm trước. Đôi khi nó cứ dài như một thập kỷ, theo hướng tích cực, đôi khi lại ngắn ngủi như mới một phút trước đây. Katie Marcus. Cậu biết cô, dĩ nhiên rồi, tất cả mọi người ở đây đều biết Katie. Cô ấy xinh thế mà lại. Nhưng rất ít người thực sự hiểu rõ cô ấy. Nhan sắc có thể làm được điều đó, nó khiến người ta sợ hãi, khiến người ta giữ khoảng cách. Không giống như trong phim khi các máy quay biến sắc đẹp thành một thứ rất mời gọi. Trên thực tế, sắc đẹp giống như một cái hàng rào chặn người ta ở ngoài, đuổi người ta đi chỗ khác.
Nhưng Katie, Chúa ơi, ngay từ lần gặp gỡ đầu tiên đã là một người con gái giản dị và thuần khiết, lần đầu tiên cô ấy xuất hiện cùng với Bobby O’Donnell và bị hắn bỏ rơi ở công trường để cùng mấy tên đàn em sang đầu bên kia thành phố có việc gấp - hắn thản nhiên bỏ cô lại cứ như không hề nhớ tới sự hiện diện của cô. Cô ở lại với Brendan lúc cậu lắp các tấm rãnh máng trên mái nhà và xử sự một cách thoải mái cứ như giữa những người đàn ông với nhau. Cô biết tên cậu và cô bảo, “Sao mà một người tử tế như cậu, Brendan, lại đi làm việc cho Bobby O’Donnell?” Brendan. Tên cậu phát ra từ miệng cô một cách nhuần nhuyễn cứ như thể ngày nào cô cũng nhắc tới nó. Brendan lúc đó đang quỳ trên rìa mái tưởng như mình suýt ngất. Suýt ngất. Không nói điêu. Cô ấy đã làm cậu suýt ngất.
Và ngày mai, ngay khi cô ấy gọi cho cậu họ sẽ ra đi. Ra đi cùng nhau. Ra đi mãi mãi.
Brendan nằm ngửa trên giường và hình dung ra gương mặt của Katie bồng bềnh trước mắt. Cậu biết là cậu sẽ không tài nào ngủ được. Trong lòng cậu quá phấn khích. Nhưng cậu chẳng quan tâm. Cậu nằm đó, gương mặt Katie bồng bềnh, tươi cười, hai mắt sáng rực trong bóng đêm sau đôi mắt khép lại của cậu.
Sau giờ làm việc tối hôm đó, Jimmy Marcus đi uống bia với anh vợ của mình, Kevin Savage, ở quán Warren Tap, hai người bọn họ ngồi cạnh cửa sổ và quan sát bọn trẻ con chơi khúc côn cầu trên phố. Có sáu đứa cả thảy và chúng đấu với nhau trong bóng tối, không thấy được mặt mũi. Quán Warren Tap nằm trên một ngách nhỏ của bãi rào thả súc vật cũ, là một nơi lý tưởng để chơi khúc côn cầu vì không có nhiều xe cộ qua lại nhưng chơi vào ban đêm thì thật man rợ vì dễ tới chục năm nay rồi chả có ngọn đèn đường nào còn sáng.
Kevin là một người đồng hành dễ chịu vì anh ta nói chung không nhiều lời, Jimmy cũng vậy nên họ chỉ ngồi đó, nhấm nháp bia và lắng nghe tiếng đế giày cao su rượt đuổi nhau thình thịch, tiếng gậy gỗ va vào nhau lách cách và cả những âm thanh chói tai khi một trái bóng cao su rắn đập mạnh vào nắp kim loại chụp trục xe.
Ở tuổi ba mươi sáu, Jimmy Marcus bắt đầu biết quý trọng những buổi tối thứ Bảy yên tĩnh của mình. Hắn không thích những quán bar chật ních, ồn ã, và nghe những lời tâm sự của đám say rượu. Mười ba năm trước hắn ra khỏi tù và mở một cửa hàng tạp hóa ở góc phố, có một vợ và ba đứa con gái. Hắn tin rằng hắn đã thay đổi từ thằng bé ngông cuồng dạo trước thành môt người đàn ông biết trân trọng những giây phút nhàn tản trong đời - chậm rãi nhấm nháp một ly bia, đi dạo buổi sáng và nghe tường thuật một trận bóng chày trên đài phát thanh.
Hắn nhìn ra phố. Bốn đứa trẻ con đã bỏ cuộc và đi về nhà, trên phố chỉ còn lại hai nhóc quờ quạng tranh bóng trong bóng tối dày đặc. Jimmy không nhìn rõ chúng nhưng có thể cảm nhận được thứ năng lượng hừng hực phát ra từ mỗi cú vụt bóng và tiếng chân chạy rầm rập của chúng.
Toàn bộ nguồn năng lượng hừng hực của tuổi trẻ ấy hẳn đã tìm được nơi trú ẩn. Thứ năng lượng đã chi phối mọi hành động của Jimmy từ khi hắn còn bé, mẹ kiếp, cho tới tận khi hắn hai mươi ba tuổi. Và rồi, tự dưng người ta học được cách kiềm chế nó lại, để nó vào một chỗ, hắn đoán thế. Cất nó đi.
Con gái lớn của hắn, Katie, cũng đang ở trong giai đoạn gay cấn đó. Mười chín tuổi lại vô cùng xinh đẹp, tất cả mọi hoóc môn đang nổi loạn trong thời kỳ báo động đỏ. Nhưng gần đây, hắn để ý thấy con gái hắn trở nên đằm thắm hơn. Hắn không biết tại sao, có những người con gái bước sang giai đoạn phụ nữ một cách duyên dáng, có những người suốt đời không lớn lên nhưng ở Katie đột nhiên toát lên một vẻ thanh thản, yên bình.
Chiều nay lúc rời khỏi cửa hàng, con bé hôn lên má Jimmy và bảo, “Lát gặp lại ba sau,” mà cho tới năm phút sau Jimmy vẫn còn cảm thấy giọng nói ấy âm vang trong lòng. Đó là giọng của mẹ nó, hắn chợt nhận ra, giọng con bé đã trầm hơn và tự tin hơn lúc trước và hắn tự hỏi không hiểu con bé đổi giọng từ lúc nào và làm sao mà hắn lại không nhận ra sớm hơn.
Giọng của mẹ nó. Mẹ con bé, người đã mất mười bốn năm trước lại đang hiện về trong con gái họ để nói rằng: Jimmy, con giờ đã trở thành một người đàn bà. Đã lớn thật rồi.
Một người đàn bà. Sao chuyện đó có thể xảy ra được cơ chứ?
Dave Boyle không định ra ngoài tối hôm ấy. Dù là tối thứ Bảy sau một tuần làm việc dài dằng dặc nhưng anh đã tới cái tuổi mà tối thứ Bảy cũng chả còn gì khác so với tối thứ Ba, uống ở bar cũng chả có gì thú hơn ở nhà. Ở nhà ít nhất xem ti vi còn được tự chuyển kênh.
Sau này, khi mọi chuyện đã kết thúc, anh tự nhủ rằng mọi chuyện hẳn là do Số Phận sắp đặt. Số Phận đã nhúng tay vào cuộc đời Dave nhiều bận, mang lại nhiều rủi ro hơn là may mắn như một kẻ cáu bẳn, vì tâm trạng không vui mà muốn hành hạ ai đó nhưng lần này thì không hẳn vậy, một kế hoạch tỉ mỉ đã được vạch ra.
Số Phận đang cưỡi trên một đám mây lang thang, ai đó chợt bảo, hôm nay đang chán không biết làm gì à? Thế là Số Phận trả lời, ờ, đúng là hơi chán. Phải đi hành hạ thằng Dave Boyle một tí mới được, cho đỡ buồn. Làm gì hắn bây giờ nhỉ?
Thế nên khi chuyện đó xảy ra, Dave biết rằng chính là Số Phận đã sắp đặt hết thảy.
Có lẽ buổi tối thứ Bảy ấy, Số Phận đang đi ăn sinh nhật hay tiệc tùng gì đó nên quyết định rốt cuộc cũng thả lỏng Dave một chút, cho anh xả hơi mà không phải gánh chịu hậu quả. Số Phận bảo, Davey này, đi quậy tung đời một tí đi, ta hứa lần này sẽ không tính sổ với nhà ngươi. Như thể Lucy đang giữ bóng cho Charlie Brown và lần này thôi sẽ không làm hỏng cơ hội để cậu ta thực hiện thành công cú sút của mình. Bởi vì nó không được lên kế hoạch trước. Không có trong kế hoạch. Những đêm sau đó, ngồi một mình trong căn bếp vắng, hai tay chụm lại như thể đang trình bày trước bồi thẩm đoàn, Dave khẽ nói: Các ngài phải hiểu rằng điều đó không có trong kế hoạch.
Đêm ấy, vừa xuống khỏi cầu thang sau khi hôn Michael, chúc nó ngủ ngon và định ra tủ lạnh lấy một chai bia thì vợ anh, Celeste, nhắc anh rằng đêm nay là đêm chị em tụ tập.
“Lại nữa?” Dave vừa nói vừa mở tủ lạnh.
“Đã bốn tuần rồi còn gì,” Celeste trả lời bằng cái giọng vui vẻ như khi đang hát đôi khi vẫn khiến Dave lạnh suốt dọc sống lưng.
“Không nói đùa đấy chứ,” Dave đứng dựa vào chiếc máy rửa bát và mở nắp hộp bia. “Thế đêm nay xem phim gì?”
“Mẹ kế,” Celeste vỗ tay trả lời, mắt sáng lên.
Mỗi tháng một lần, Celeste và mấy người bạn làm cùng ở tiệm cắt tóc của Ozma tới căn hộ của Dave và Celeste chơi bài, uống đẫy rượu và thử một công thức nấu ăn mới. Bọn họ sẽ kết thúc buổi tối bằng việc ngồi xem một trong những bộ phim phụ nữ, thường là kể về một cô nàng có tham vọng, có sự nghiệp nhưng cô đơn cuối cùng cũng tìm được tình yêu đích thực với một anh cao bồi già, chim to nhưng hai hòn đã sệ, hay có hai cô nàng vừa phát hiện ra giá trị đích thực của giới nữ và tình bạn sâu nặng của họ trước khi một người lâm bệnh hiểm nghèo ở cảnh quay thứ ba của phim rồi tất cả đều chết một cách xinh đẹp, đầu tóc chỉnh trang trên một chiếc giường rộng như diện tích của Peru.
Trong những buổi tối thế này Dave có ba lựa chọn: ngồi trong phòng Michael ngắm con trai ngủ, trốn vào phòng ngủ phía sau của anh và Celeste, liên tục chuyển kênh trên truyền hình cáp, hay nhón chân chuồn ra khỏi cửa và tìm một chỗ nào đó để khỏi phải nghe cả bốn nàng cùng khóc sụt sịt vì lão Hòn Sệ kia cuối cùng quyết định không để mình bị trói buộc nên đã lên ngựa về núi, an hưởng cuộc sống thanh nhàn.
Dave thường chọn cửa số ba.
Đêm nay cũng vậy. Anh uống hết lon bia, hôn Celeste, cảm thấy bụng khẽ quặn lên khi Celeste siết lấy mông anh và hôn đáp trả một cach mãnh liệt. Rồi anh ra khỏi cửa, xuống cầu thang, qua căn hộ của ông McAllister tới cửa trước, nhập vào không khí đêm thứ Bảy của khu phố Hạ. Anh nghĩ tới việc đi bộ vào trung tâm Bucky hay đi quá tới quán Tab, dùng dằng mất mấy phút trước cửa nhà rồi quyết định chui vào xe ô tô. Có lẽ lượn lên khu phố Thượng, ngắm nghía các nữ sinh viên và đám thanh niên mới, năng động, đang xâm chiếm khu vực này, đông tới mức thậm chí không ít người đã rậm rịch tràn xuống tận khu Hạ.
Người ta sửa chữa những ngôi nhà gạch ba tầng và trong nháy mắt biến chúng thành những tòa nhà mang phong cách kiến trúc thời nữ hoàng Anne của Anh. Họ dựng giàn giáo xung quanh, phá hủy bên trong, công nhân làm việc ngày đêm trong vòng ba tháng cho các chủ nhân mới, toàn dân sành điệu dùng hàng hiệu L.L.Beans dọn tới, đỗ những chiếc xe Volvo của họ trước cửa và khuân vào nhà những thùng đựng đồ nội thất hiệu Pottery Barn. Nhạc Jazz dìu dặt lọt qua tấm màn che cửa sổ, đồ uống của họ toàn những thứ kinh tởm như rượu porto mua ở cửa hàng Eagle Liquor, rồi thói quen dẫn những con chó kệch cỡm đi dạo quanh phố và những thảm cỏ bé tẹo cũng bày đặt cắt tỉa, tạo hình. Giờ mới chỉ có những ngôi nhà ba tầng trên đường Galvin và đại lộ Twoomey thay da đổi thịt nhưng chả bao lâu nữa người ta sẽ nhìn thấy một loạt xe Saab và túi đựng đồ của những cửa hàng thực phẩm chất lượng cao lấn tới tận kênh Penitentiary ngay dưới chân khu Hạ.
Chỉ mới tuần trước, ông McAllister, chủ nhà của Dave, chẳng biết tình cờ hay cố ý bảo anh rằng, “Giá nhà giờ lên rất cao. Cao chót vót ấy.”
“Thì ông cứ chờ thêm tí đã,” Dave nói và nhìn lên ngôi nhà có căn hộ mà anh đã thuê từ mười năm này, “rồi sau này ông hẵng…”
“Sau này hẵng tính á?” McAllister nhìn anh. “Thế thì tôi có mà phá sản vì đóng thuế sở hữu nhà. Thu nhập của tôi là cố định rồi, mẹ kiếp. Tôi mà không bán sớm, hai, hay ba năm nữa có mà bị sở thuế lấy luôn.”
“Thế ông định đi đâu?” Dave hỏi nhưng trong lòng lại nghĩ, thế tôi biết dọn đi đâu?
McAllister nhún vai. “Tôi cũng chẳng biết. Có thể là Weymouth. Tôi có mấy người bạn ở Leominster.”
Dường như ông ta đã hỏi han thông tin từ trước và đi xem một số nhà đang rao bán.
Khi chiếc Accord của Dave lăn bánh vào khu phố Thượng, anh cố nhớ xem những người thế hệ anh hoặc trẻ hơn mà anh quen biết có còn ai ở đây không. Anh chầm chậm dừng lại trước đèn đỏ và nhìn hai thanh niên sành điệu mặc áo polo cổ tròn màu đỏ và quần soóc lửng giống nhau đang ngồi trên vỉa hè cửa hàng pizza Primo lúc trước giờ đã đổi tên thành Café Society. Hai thanh niên sành điệu đó trông khỏe mạnh, khó đoán giới tính, đang ngồi đút từng thìa kem hay sữa chua đóng đá gì đó vào miệng, những đôi chân rám nắng duỗi dài, bàn chân gác lên nhau, hai chiếc xe đạp leo núi long lanh dựng dưới cửa sổ trong ánh đèn nê ông sáng lóa.
Dave tự hỏi anh sẽ phải dọn tới sống ở nơi quái quỷ nào nếu như sự bành trướng này cứ tiếp tục lấn lướt. Nếu các quán bar và pizza lần lượt biến thành các quán cà phê thì với số tiền anh và Celeste kiếm được chắc họ sẽ xin được một suất căn hộ hai phòng ngủ trong dự án khu căn hộ dành cho người có thu nhập thấp Parker Hill. Phải đăng ký và chờ đợi mười tám tháng để được chuyển tới một nơi mà các bậu cầu thang sặc mùi nước tiểu, xác chuột chết ám và các bức tường ẩm mốc, bọn nghiện và các sát thủ dao bấm nhan nhản khắp nơi chỉ chờ cho đám da trắng như anh chìm vào giấc ngủ.
Kể từ khi bị một gã ở Parker Hill suýt trấn lột xe khi đang chở Michael, Dave để một khẩu 22 ly dưới chỗ ngồi. Anh chưa từng sử dụng nó, dù là bắn thử tại trường bắn. Nhưng anh rất hay cầm nó lên và nhìn vào ống ngắm. Anh tự cho mình cái thú được tưởng tượng ra hai thanh niên kia sẽ trông thế nào nếu trở thành mục tiêu sau ống ngắm và mỉm cười khoái trá.
Nhưng đèn xanh đã bật lên mà anh vẫn chưa nhúc nhích, khiến các xe phía sau bấm còi inh ỏi và hai con người sành điệu kia ngước mắt lên nhìn chằm chặp vào chiếc xe sứt sẹo của anh, tò mò quan sát khung cảnh huyên náo ở khu nhà mới của mình.
Dave lái xe qua ngã tư, tức giận tới nghẹt thở trước cái nhìn sửng sốt của bọn họ, sửng sốt và vô lý.
Đêm đó, Katie Marcus ra ngoài với hai người bạn gái thân nhất của mình, Diane Cestra và Eve Pigeon để ăn mừng buổi tối cuối cùng của cô ở khu phố Hạ, và có lẽ cũng là buổi tối cuối cùng ở Buckingham. Ăn mừng như thể những người Di gan vừa rắc vàng lên người họ và tiên đoán rằng tất cả những giấc mơ của họ sẽ trở thành sự thực. Như họ vừa chia nhau một tờ xổ số cào trúng thưởng và đều có kết quả thử thai âm tính trong cùng một ngày.
Họ đặt những bao thuốc lá bạc hà của mình xuống một cái bàn phía trong cùng của quán bar Spires Pub, làm vài ly cocktail Kamikaze và Mich Light rồi cùng rú lên mỗi khi một anh chàng đẹp trai nào đó ném cho một người trong số họ một cái nhìn mang ẩn ý. Họ đã ăn một bữa túy lúy ở quán nướng East Coast Grill một giờ trước đó rồi lái xe về Buckingham và hút chung một điếu cần sa trong bãi đỗ xe trước khi bước vào quán bar. Tất cả đều hết sức vui nhộn, từ những câu chuyện cũ rích mà họ đã kể cho nhau hàng trăm lần, bản tường trình của Diane về những trận đòn mới nhất từ gã bạn trai khốn kiếp của cô, vệt son môi vừa bị lem của Eve hay hai gã béo đang khệnh khạng đi quanh bàn bi-a.
Cho tới khi quán bar chật cứng, người xếp thành ba hàng trước quầy bar và phải mất hai mươi phút mới gọi được đồ uống thì bọn họ chuyển sang quán Curley’s Folly ở khu phố Thượng và hút một điếu cần sa khác trong ô tô. Katie cảm giác có một nỗi sợ hãi hoang tưởng đang gặm nhấm đầu óc cô.
“Cái xe kia cứ đi theo chúng ta.”
Eve nhìn vào ngọn đèn trong gương chiếu hậu. “Không phải đâu.”
“Nó đi theo từ khi chúng ta rời quán bar.
“Katie, chúng ta mới rời khỏi quán bar khoảng ba mươi giây thôi, nàng ơi!”
“Ôi giời.”
“Ôi giời,” Diane nhại lại rồi bưng miệng cười và đưa điếu cần sa cho Katie.
“Chỗ này yên ắng quá.” Eve chợt lên tiếng, giọng trầm xuống.
Katie đoán ngay ra ý đồ của bạn liền bảo, “Im ngay, đừng nói lăng nhăng.”
“Yên ắng quá,” Diane tán đồng rồi phá ra cười.
“Hai con nhóc này,” Katie nói, cố tạo vẻ lo lắng nhưng cuối cùng lại phá lên cười sằng sặc. Cô cười nghiêng ngả đến nỗi ngã vật ra ghế sau, đầu cụng vào chỗ tay dựa, hai má có cảm giác tê tê như kim châm mà cô vẫn hay gặp phải trong những lần hiếm hoi hút cần sa. Tiếng cười dịu dần và cô buông mình trong cảm giác mơ màng, đắm mình trong ánh đèn mờ nhạt tỏa ra từ trần xe và thầm nghĩ ý nghĩa của cuộc sống chính là đây, được vui cười thỏa thích với những người bạn thân thiết nhất vào đêm trước ngày thành hôn với người đàn ông mà mình yêu. (Ở Vegas. Được thôi. Say sưa đến váng vất. Được thôi.) Dù sao, đây cũng chính là mục tiêu của cuộc sống. Là thực hiện giấc mơ của đời mình.
Bốn quán bar, ba quắn cần sa và một vài số điện thoại mới trên bàn, Katie và Diane trở nên hưng phấn tới mức nhảy cả lên quầy bar trong quán McGills mà nhảy nhót theo điệu “Brown Eyed Girl” dù không có nhạc. Eve hát vang, “Slipping a sliding” (trườn và trượt) trong khi Katie và Diane làm các động tác uốn éo như trong bài hát, lắc hông và hất tóc cho tới khi chúng xõa kín mặt. Ở McGills, đàn ông trong quán coi đó như một hành động nổi loạn, thế mà chỉ hai mươi phút sau tại câu lạc bộ Brown họ thậm chí còn không được cho vào cửa.
Diane và Katie phải dìu Eve lúc đó vẫn còn đang gào lên ca khúc “I Will Survive” của Gloria Gaynor chính là nguyên nhân thứ nhất, người cứ lắc lư như điên là nguyên nhân thứ hai.
Thế là họ bị tống cổ khỏi câu lạc bộ Brown ngay cả trước khi kịp đặt chân vào và ba cô gái Buckingham chân nam đá chân xiêu chỉ còn một chỗ duy nhất để lui tới là quán Last Drop, một nơi nhộn nhạo, ẩm thấp ở khu vực tệ nạn nhất của khu Hạ trên một con phố với những tòa nhà ba tầng trải dài, nơi diễn ra đủ các cảnh tượng kinh dị, nơi đám gái điếm nghiện hút truy hoan với khách và những chiếc xe ô tô không trang bị hệ thống báo động không thể thọ được quá phút rưỡi.
Họ đang ở đó thì Roman Fallow xuất hiện cùng với cô bạn gái mới nhất của hắn, vẫn là kiểu con gái để làm cảnh, lúc nào cũng phải nhỏ nhắn, tóc vàng, mắt to. Sự xuất hiện của Roman làm nức lòng đám phục vụ vì hắn luôn boa gấp rưỡi đối với những quán quen. Nhưng lại thật không may cho Katie vì Roman là bạn của Bobby O’Donnell.
Roman bảo, “Cô hơi say rồi phải không Katie?”
Katie chỉ cười vì Roman làm cô sợ. Roman khiến hết thảy mọi người sợ hãi. Một gã điển trai và thông minh, lúc muốn có thể trở nên cực kỳ vui nhộn nhưng đó là một kẻ vô tình đáng sợ, một người hoàn toàn không có cảm xúc với đôi mắt trống trải lạnh lẽo tới ghê người. “Tôi có hơi xỉn thật,” Katie thừa nhận.
Điều đó khiến Roman thấy vui. Hắn bật cười để lộ hàm răng hoàn hảo của mình rồi nhấp một ngụm Tanqueray. “Hơi xỉn tí ư? Được thôi, Katie. Nhưng để tôi hỏi cô câu này,” hắn ta nói, vẻ nhẹ nhàng. “Cô nghĩ là Bobby sẽ hài lòng khi nghe chuyện cô diễn trò ở quán McGills tối nay? Cô nghĩ là anh ta sẽ thích thú khi nghe chuyện đó?”
“Không.”
“Vì tôi cũng sẽ không hài lòng khi nghe chuyện đó, Katie. Cô hiểu ý tôi định nói gì rồi chứ?”
“Vâng ạ.”
Roman chụm một tay lại sau tai, hỏi lại. “Gì cơ?”
“Vâng ạ.”
Roman vẫn để yên tay mình ở đó và cúi đầu về phía Katie. “Xin lỗi, cô định nói gì cơ?”
“Tôi sẽ về nhà ngay bây giờ,” Katie nói.
Roman mỉm cười. “Chắc chứ? Tôi không muốn ép buộc cô bất cứ điều gì mà cô không thấy thoải mái.”
“Không không. Tôi cũng chán rồi.”
“Được thôi. Được thôi. Này để tôi thanh toán cho cô được không?”
“Không, không. Cảm ơn Roman, chúng tôi đã trả tiền rồi.”
Roman choàng tay ôm lấy cô gái tóc vàng bên cạnh và bảo, “Thế để tôi gọi taxi cho cô nhé?”
Katie suýt nữa thì buột miệng nói là cô lái xe tới đây nhưng kiềm lại được và bảo, “Không, không cần. Vào giờ này thì vẫy xe một cái là được, không thành vấn đề.”
“Ừ, chắc thế. Vậy thế đi nhé, Katie, hẹn sớm gặp lại.”
Eve và Diane đã đứng chờ sẵn ngoài cửa, vừa nhìn thấy Roman là họ đã lỉnh ra ngoài.
“Chúa ơi, cậu có nghĩ là hắn sẽ gọi điện cho Bobby không?” Diane nói khi bọn họ đã ra tới lề đường.
Katie lắc đầu dù không chắc chắn lắm. “Không đâu. Roman không phải là kẻ tung tin xấu. Thấy chướng mắt là hắn xử luôn.” Katie nói và đưa tay vuốt mặt một lúc trong bóng tối, cảm thấy rượu đã ngấm vào trong máu như một thứ độc dược và một nỗi cô đơn đè nặng trong lòng. Cô vẫn luôn cảm thấy cô độc, kể từ khi mẹ cô mất, từ rất lâu rồi.
Trong bãi đỗ xe, Eve bắt đầu nôn ọe, bắn cả lên lốp trước chiếc Toyota màu xanh của Katie. Chờ bạn nôn xong, Katie lục trong túi ra một lọ nước xúc miệng đưa cho Eve. Eve bảo cô, “Cậu có lái xe được không đấy?”
Katie gật đầu. “Gì chứ, cách đây có mấy dãy nhà mà. Tớ không sao.”
Khi họ lái xe ra khỏi bãi, Katie bảo, “Lại thêm một lý do nữa để bỏ đi. Một lý do nữa để biến thật nhanh khỏi cái khu chết dẫm này.”
“Ừ,” Diane lên tiếng tán đồng một cách yếu ớt.
Họ lái xe một cách thận trọng. Katie luôn giữ kim trên vạch 25km/giờ, đi đúng làn đường và hết sức tập trung. Họ đi trên phố Dunboy hơn chục dãy nhà thì rẽ xuống phố Crescent, những con phố ở đây tối và tĩnh mịch hơn. Tới cuối khu phố Hạ, họ đi dọc theo phố Sydney tới nhà Eve. Trên đường đi, Diane quyết định thà ngủ trên đi văng ở nhà Eve còn hơn là về nhà bạn trai của mình để nghe chửi vì tội say xỉn. Hai bọn họ ra khỏi xe dưới một ngọn đèn đường bị vỡ trên phố Sydney. Trời bắt đầu mưa, nước mưa quất lên kính chắn gió xe Katie nhưng Diane và Eve dường như không để ý. Bọn họ cúi gập người xuống để nhìn Katie qua cửa xe. Kết cục thảm hại trong những giây phút cuối cùng của buổi tối khiến mặt mũi họ xị ra, vai chùng xuống và Katie có thể cảm thấy sự buồn bã của họ phảng phất bên cạnh khi cô quay ra nhìn những hạt mưa quất trên cửa kính. Cô cảm thấy sức nặng của một cuộc đời chật hẹp, không mang hạnh phúc đang treo trên đầu họ. Hai người bạn thân thiết nhất của cô từ hồi đi nhà trẻ mà có thể cô sẽ không bao giờ gặp lại nữa.
“Cậu sẽ không sao chứ?” Diane cao giọng hỏi, hơi vui vẻ một cách phóng đại.
Katie quay mặt ra nhìn họ mỉm cười với toàn bộ tấm chân thành của mình tới mức miệng cô như muốn nứt ra. “Không sao, tất nhiên rồi. Tới Vegas tớ sẽ gọi cho các cậu. Các cậu sẽ tới thăm tớ mà.”
“Vé máy bay cũng rẻ mà,” Eve nói.
“Rất rẻ.”
“Đúng là rất rẻ,” Diane thừa nhận, giọng nhỏ dần khi cô tránh mặt đi chỗ khác, nhìn xuống vỉa hè lồi lõm.
“Được rồi,” Katie nói nhanh. “Tớ phải đi trước khi có người lại khóc.”
Eve và Diane thò tay qua cửa xe và Katie giữ chặt lấy chúng một lúc rồi buông ra để hai người họ lùi lại phía sau xe. Họ giơ tay lên vẫy. Katie vẫy lại rồi tuýt còi tạm biệt và lái đi.
Họ đứng lại trên vỉa hè và nhìn rất lâu sau khi chiếc đèn hậu của của Katie đã lóe sáng và biến mất sau khúc ngoặt ở giữa phố. Họ cảm thấy còn nhiều điều muốn nói với Katie.
Họ có thể cảm thấy mùi nước mưa và mùi kim loại hăng hắc tỏa ra từ con kênh Penitentiary đang chảy yên lặng trong bóng đêm ở phía bên kia công viên.
Suốt phần đời còn lại của mình Diane vẫn mong là cô không ra khỏi chiếc xe đó. Cô sẽ sinh ra một bé trai trong vài tháng tới và cô sẽ kể cho thằng bé nghe khi nó còn trẻ (còn chưa trở thành một người giống như cha nó, còn chưa trở thành một người đàn ông xấu xa, trước khi trở thành một kẻ say rượu lái xe gây tai nạn cho một người phụ nữ nào đó đang chờ sang đường ở khu Thượng). Cô tin rằng đáng lẽ cô phải ở lại trong xe nhưng tự dưng lại quyết định xuống xe một cách đột ngột và vì thế đã làm thay đổi mọi thứ, khiến mọi chuyện chệch đi khỏi quỹ đạo. Ý nghĩ đó suốt đời theo đuổi cô khiến cô cảm giác mình giống như một kẻ đứng quan sát một cách thụ động những hành động bốc đồng ở người khác, những hành động bốc đồng gây ra kết quả thê thảm mà cô không tài nào ngăn cản được. Cô sẽ nhắc lại những điều này với con trai mình trong những lần tới thăm nó ở nhà tù còn nó sẽ chỉ nhún vai, xê dịch trên ghế và bảo, “Mẹ có mang thuốc lá vào cho con không đấy?”
Eve thì sẽ lấy một người thợ điện và chuyển tới một trang trại ở Braintree. Đôi khi trong đêm khuya, cô sẽ đặt tay mình lên vòm ngực rộng rãi, chở che của anh và kể cho anh về Katie, về cái đêm hôm đó và anh sẽ chỉ im lặng lắng nghe, dịu dàng vuốt tóc cô mà không nói gì nhiều vì anh biết điều đó là không cần thiết. Đôi khi Eve chỉ cần nhắc tới tên người bạn ấy, để nghe âm thanh vang lên và cảm giác của nó trên đầu lưỡi. Họ sẽ có những đứa con. Eve sẽ tới xem những trận bóng của chúng, đứng bên vạch biên, miệng thỉnh thoảng mấp máy tên của Katie, nhẹ nhàng, chỉ cho mình nghe, trên sân cỏ tháng Tư ẩm ướt.
Nhưng đêm đó họ chỉ là hai cô gái East Bucky say khướt, và Katie nhìn khuôn mặt họ khuất dần trong kính chiếu hậu khi cô rẽ ra khỏi phố Sydney đi về nhà.
Đêm tối, một không khí chết chóc bao trùm, phần lớn các ngôi nhà nhìn xuống công viên kênh Penitentiary đã bị thiêu sém trong một trận hỏa hoạn bốn năm về trước khiến chúng trở nên trơ trụi, đen đúa với những cửa sổ đóng ván bịt kín. Katie chỉ muốn mau chóng về tới nhà chui vào giường và thức dậy vào sáng sớm ngày hôm sau rồi biến mất trước khi Bobby hay cha cô để ý tới. Cô những muốn bỏ nơi này đi như người ta muốn giũ bỏ một bộ quần áo mặc trên người trong cơn mưa bão. Vo chúng lại và ném chúng đi, không bao giờ nhìn lại nữa.
Và cô chợt nhớ tới một chuyện mà cô đã quên lãng bấy lâu nay, Cô nhớ lại lần cô đi dạo với mẹ tới sở thú hồi năm tuổi. Cô nhớ tới chuyện này không vì lý do đặc biệt nào mà có lẽ là do ảnh hưởng của rượu và cần sa, khiến dây thần kinh trí nhớ chứa câu chuyện này bị chạm tới. Mẹ nắm tay cô và hai người đi dọc theo phố Columbia đến trước sở thú và Katie cảm thấy xương tay của mẹ chòi cả lên như những mảnh gãy dưới cổ tay. Cô ngẩng lên nhìn gương mặt gầy gò và đôi mắt sầu thảm của mẹ, mũi bà trông nhọn hơn vì sụt cân, cằm cũng nhỏ lại. Cô bé Katie năm tuổi vừa buồn bã vừa hiếu kì hỏi mẹ, “Sao mà lúc nào trông mẹ cũng mệt mỏi thế?”
Gương mặt vừa khô khan vừa mong manh của bà chợt co rúm lại như một miếng giẻ khô. Bà ngồi thụp xuống bên cạnh Katie, áp hai tay lên má con bé và nhìn nó bằng đôi mắt mọng đỏ. Katie nghĩ là mẹ hẳn đang giận nhưng bà lại mỉm cười dù nụ cười không dừng lại lâu, miệng bà trễ xuống, cằm giần giật và bảo, “Ôi con yêu quý,” và kéo Katie lại gần. Bà tựa cằm lên vai con bé và lại bảo, “Ôi con yêu quý,” và Katie cảm thấy nước mắt của bà chảy tràn trên tóc mình.
Cho tới bây giờ cô vẫn nhớ cái cảm giác đó, một cơn mưa nước mắt rơi nhẹ nhàng trên tóc như trận mưa bụi đang phủ trên lớp kính xe lúc này và khi đang cố nhớ lại màu sắc đôi mắt của mẹ thì cô nhìn thấy một xác người nằm giữa phố. Giống như một cái túi rác ngay trước lốp xe của cô khiến cô quẹo gấp sang bên phải và cảm thấy lốp trái phía sau vừa chẹt qua một cái gì đó. Ôi lạy Chúa, ôi không, xin người hãy nói cho con biết là con đã không đâm vào người đó đấy chứ, con xin người, ôi Chúa ơi.
Cô tông mạnh chiếc Toyota vào lề đường bên phải, chân trượt ra khỏi côn, chiếc xe khẽ rùng mình, thở phì phì rồi tắt máy.
Ai đó gọi cô. “Này, cô không sao chứ?”
Katie nhìn thấy hắn ta tiến lại gần, toan thở phào nhẹ nhõm vì trông hắn ta có vẻ quen thuộc và vô hại thì nhìn thấy tay hắn cầm một khẩu súng.
Vào khoảng ba giờ sáng thì Brendan Harris cuối cùng cũng chìm vào giấc ngủ.
Với một nụ cười trên môi và hình ảnh Katie trôi nổi bồng bềnh, nói với cậu rằng cô yêu cậu, thì thầm tên cậu, hơi thở dịu dàng như một nụ hôn bên tai.