Phải, anh đã hôn cô trước, nhưng cô là người đã nắm chặt bằng cả hai tay và không muốn nó kết thúc. Không phải như thế. Không phải cho đến khi hai người họ đều đã trần truồng.
“Tôi có thể lấy gì cho cô không, cô Duffy?” trợ lý huấn luyện viên hỏi khi anh ta nhét vào một cuộn băng khác.
Một viên an thần. Cô mỉm cười và lắc đầu. “Không. Cảm ơn anh.” Tay cô thả lỏng trên đùi, ra vẻ thư giãn và điềm tĩnh khi các dây thần kinh của cô lọc xọc khắp mạch máu và hạ gục cô mỗi lần có người bước qua cửa phòng của huấn luyện viên Nystrom, nhưng Ty chưa từng xuất hiện và không ai nhắc đến trận đấu rủi ro ở San Jose hết.
Tối ấy, đội Chinooks đã thắng trận đấu thứ hai trong ba trận trước đội Sharks. Faith đã chọn đến dự một bữa tiệc từ thiện và bỏ qua trận đấu. Cô và Virgil đã mua vé tới một sự kiện một-nghìn-đô-la- một-suất từ mùa hè trước. Cô quyết định đến một mình và tham dự vào sự kiện đấu giá ẩn danh để quyên tiền cho tổ chức Bác Sĩ Không Biên Giới.
Cô mặc bộ váy bó hiệu Donna Karan màu đen và đeo một chuỗi ngọc trai dài quanh cổ. Khi cô bước vào phòng vũ hội ở khách sạn Bốn Mùa, cô phát hiện thấy vài phụ nữ mà cô biết khi còn ở Hiệp hội Gloria Thornwell. Họ quay mặt đi như thể không biết cô. Ngọn đèn chùm rực rỡ chiếu xuống giới thượng lưu Seattle khi cô túm lấy một cốc Moet từ khay rượu đi ngang qua. Ở trước phòng, Landon và vợ hắn ta đứng cùng một nhóm bạn thân của Virgil chúc mừng nhau vì một vụ mua bán nào đó. Cô nâng ly champagne lên môi và mắt cô lướt tới các thành viên của dàn giao hưởng Seattle, đang chơi trên bục cao. Cô biết rất nhiều người trong số đó. Giờ đây, khi cô đi về hướng bàn trưng bày các tặng vật đấu giá, cô bắt gặp ánh mắt của vài bà vợ cảnh mà cô đã giao thiệp năm năm qua. Trong mắt họ cô thấy vẻ thương tiếc và sợ hãi khi họ quay đi, sợ phải chạm mắt với số mệnh của họ.
“Xin chào, Faith.”
Cô quay nghiêng nhìn vợ của Bruce Parsons, Jennifer Parsons, một cô vợ cảnh chỉ lớn tuổi hơn cô đôi chút.
“Xin chào, Jennifer. Tôi thấy là cô đã đương đầu với đám đông đấy nhỉ.” Jennifer mỉm cười. “Cô thế nào?”
“Khá hơn đôi chút. Tôi vẫn nhớ Virgil.”
Họ trò chuyện vài phút ngắn ngủi, và đến cuối hứa hẹn những cuộc điện thoại sẽ không bao giờ đến và những bữa trưa sẽ không bao giờ tới.
Khi chuông ăn tối reo, cô thấy mình ngồi ở bàn với ghế trống của Virgil bên cạnh. Nỗi buồn trước sự vắng mặt của ông lắng xuống cạnh tim cô. Ông đã có một ảnh hưởng trấn an mạnh mẽ trong đời cô và cô nhớ ông. Giờ khi ông đã đi, cô phải tự mình mạnh mẽ.
Bên kia bàn, Landon và vợ anh ta, Ester, lờ tịt cô cùng lúc im lặng phát đi sự khinh miệt qua những làn sóng chua cay. Nếu Virgil còn sống, ông hẳn sẽ mong cô dán một nụ cười lên mặt và ép tất cả họ phải lịch sự. Nhưng thẳng thắn thì, cô đã phát chán việc ép Landon và Ester cư xử lịch sự khi sống trong môi trường lịch thiệp rồi. Với vài người trong căn phòng này, cô sẽ luôn là một người phụ nữ cởi quần áo để lấy tiền. Nhưng trong cuộc sống đấy có chút tự do vốn chẳng hề liên quan tới việc trần truồng mà liên quan nhiều tới việc không phải quan tâm người ta nghĩ gì. Cũng chỉ còn vài cấp bậc xã hội nữa thấp hơn nghề vũ nữ thoát y mà thôi.
Khi cô ăn bữa ăn năm món bắt đầu bằng món sườn om và salad cải đỏ, cô nói chuyện phiếm với vài người quanh xung quanh. Đến lúc món ăn thứ tư được dọn khỏi bàn, cô nhận ra mình thực sự không còn quan tâm nữa. Không quan tâm dến Landon và vợ hắn ta, không quan tâm đến những người sẽ chẳng bao giờ chấp nhận cô khi giờ đây Virgil đã ra đi. Từ sau đám tang, cuộc đời cô đã khác. Trong có một tháng ngắn ngủi, nó đã thay đổi triệt để. “Tôi nghe nói đội Chinooks vẫn đang trong vòng tranh giải,” một đối tác làm ăn của Virgil bình luận bên trái Faith. Cô hơi cúi người tới trước và nhìn vào đôi mắt nâu tốt bụng của Robinson. “Đội tuyển thế nào?” ông hỏi.
“Chúng tôi ổn,” cô trả lời, khi món panna cotta với berry tươi được đặt lên bàn trước mặt cô. “Tất nhiên chúng tôi đã rất lo lắng khi mất Bressler, nhưng Savage đã bước vào và làm rất tốt việc giữ cho cả đội tập trung. Mục tiêu của chúng tôi là cho các cầu thủ thêm vài trận đấu nữa trước vòng chung kết để họ quen nhịp đấu và điều chỉnh trước khi chúng tôi bố trí lại thế trận, nhưng họ đang thích nghi rất tốt, nên sẽ không có điều chỉnh gì nhiều.” Hoặc theo lời huấn luyện viên Nystrom đã nói hôm qua thì là thế. Cô nhún vai và nhấc thìa ăn đồ tráng miệng của cô lên. “Hàng tấn công của chúng tôi đến giờ có tổng cộng hai mươi ba bàn thắng và chín mươi tám điểm trong vòng tranh giải. Tôi nghĩ năm nay chúng tôi có cơ hội giành cúp rất khả quan.” Điều đó thì, cô đã tự mình tìm ra.
Jerome mỉm cười. “Virgil sẽ rất tự hào về cô.”
Cô thích được nghĩ thế. Nhưng quan trọng hơn, lần đầu tiên trong đời cô tự hào về bản thân.
“Cha tôi là một ông già mất trí,” Landon nói từ bên kia bàn.
“Cha anh có rất nhiều đức tính.” Jerome quay sang Landon. “Mất trí chưa từng là một trong số đó.”
Faith mỉm cười và uống một ngụm rượu tráng miệng. Khi đĩa đã được dọn sạch, cô ở lại vừa đủ lâu để ẩn danh trả giá vài món. Khi cô đứng ở quầy trả áo, cô nhận ra rằng trong một tháng ngắn ngủi từ sau cái chết của Virgil, cô đã trở nên thoải mái khi ngồi trong một quán bar Ireland với một nhóm cầu thủ khúc côn cầu hơn hẳn lúc ở cùng những người cô đã giao thiệp suốt năm năm qua. Không phải vì tất cả giới thượng lưu Seattle đều là lũ kiêu căng hợm hĩnh. Không phải. Rất nhiều người trong số họ giống Jerome. Những người tử tế tình cờ có nhiều tiền hơn cả Chúa. Mà phần lớn là vì giờ Faith đã khác, cô đang trở thành một con người khác. Một người cô không hề biết. Cô không còn là vũ nữ thoát y, người mẫu Playboy, hay vợ một người đàn ông giàu có nữa. Phần kỳ cục nhất trong chuyện này là dù cho cô còn chưa biết rõ Faith mới, cô đã thích cô ta rồi.
Đến lúc cô về nhà, Valerie đã quay lại từ trận khúc côn cầu, nơi bà và Pavel đã dùng khu quan sát để xem Chinooks thống trị trong chiến thắng 2-0 trước đội Sharks. Trận đấu tối thứ Tư sẽ diễn ra ở San Jose, và nếu đội Chinooks thắng, họ sẽ tiến vào vòng kế tiếp. Nếu không, quay lại Seattle đấu trận Sáu.
“Pavel muốn mẹ cảm ơn con vì đã cho mượn khu quan sát của con.”
“Khi mẹ gặp lại ông ấy, hãy bảo ông ấy là con rất sẵn lòng,” Faith nói và hướng vào phòng ngủ của cô. Cô đi thẳng vào giường với cảm giác mãn nguyện kỳ cục với cuộc đời mình. Cô ngủ say như chết cho đến tầm một giờ sáng, khi Pebbles nhảy lên giường cô và cong tròn sát dạ dày cô.
“Mày đang làm gì đấy?” cô hỏi con chó, giọng cô hơi ngái ngủ. “Ra ngoài.” Qua bóng tối, đôi mắt hạt đậu của Pebbles ngước lên nhìn cô khi một tiếng rên rỉ lọt vào phòng. Faith nhận ra tiếng rên đó và cả tiếng rên kế tiếp nữa. Rõ ràng là, Valerie và Pavel không hề đi tìm khách sạn.
Sáng hôm sau Pavel đã đi, và Valerie hành xử như thể ông chưa từng ở đó. Khi Faith chất vấn mẹ cô, Valerie hứa sẽ “yên tĩnh hơn.”
“Con tưởng mẹ đã nói gì đó về việc ra khách sạn,” cô nhắc nhở mẹ cô.
“Mỗi đêm sao? Thế sẽ đắt đỏ lắm.”
Mỗi đêm sao? “Mẹ có thể tới nhà ông ấy.”
Valerie lắc đầu. “Mẹ không biết, ông ấy đang sống cùng Ty. Có lẽ khi Ty đi thi đấu. Mẹ sẽ nói với ông ấy chuyện đó ngày mai.” Bà rút bộ vòng vuông vức của bà ra. “Con không phiền nếu ông ấy qua đây tối thứ Tư và xem trận đấu cùng chúng ta ở đây chứ? Mẹ ghét phải nghĩ đến cảnh ông ấy ở một mình chẳng có ai ngoài chiếc tivi màn hình lớn.”
Cô tự hỏi sao mẹ cô lại không thể đi tới đó. “Con không phiền đâu. Miễn là hai người không hôn hít như lũ trẻ con và đút băng ‘Chữa bệnh bằng tình dục’ vào đầu đĩa.”
Valerie xua đi nỗi lo của cô. “Pavel quá mê mải vào trận đấu và không thể làm cách nào để rứt mình ra được,” bà nói. Nhưng ngay đêm hôm sau, hai người hướng đến phòng Valerie ngay giữa giờ nghỉ đầu tiên.
“Họ đang làm gì thế?” Jules hỏi khi đi vào bếp và với tay lấy ba chiếc bánh sandwich dài ba mươi centimet mà Faith đã mua ở hàng ăn gần nhà.
Có một tiếng thịch lớn sát tường theo sau bởi tiếng cười sâu và vài tiếng khúc khích.
“Anh không muốn biết đâu.” Faith lắc đầu và cắn một miếng dưa chua. “Mẹ tôi và tôi đã áp dụng chính sách ‘không hỏi, không nói.’” Cô hớp một ngụm margarita và quay vào phòng khách. “Ít nhất tôi cũng đang cố bắt bà làm theo chính sách đó.” Pebbles nằm ở chỗ Faith trên ghế với hai chân chĩa thẳng lên trời. “Nhưng giống con chó của bà, bà không giỏi làm theo lệnh lắm.”
Jules ngồi cạnh Pebbles và gãi bụng con chó bằng bàn tay còn rảnh của anh. “Đêm hôm nọ, cô đã bỏ lỡ một trận đấu tuyệt vời đấy.”
Cô ngồi xuống thành ghế và quay nghiêng nhìn vào đôi mắt màu xanh lục của anh. “Tôi đã đến một buổi tiệc từ thiện.” Cô nghĩ đến Landon và cau mày. “Không may thay, tôi sẽ không đi đến nhiều sự kiện từ thiện nữa. Landon và bạn bè hắn đã biến tôi thành người bị xa lánh.”
“Nếu cô muốn tham dự vào một sự kiện từ thiện,” Jules nói giữa hai miếng sandwich, “cô nên chơi trong trận golf từ thiện của Quỹ từ thiện Chinooks mùa hè này.”
“Tôi chưa từng nghe nói đến Quỹ từ thiện Chinooks.”
“Mỗi năm họ đều có một trận golf từ thiện. Tôi biết họ sẽ chào đón cô và mọi chuyện sẽ vui lắm.”
Ngực bự và golf không đi cùng nhau. “Không cảm ơn. Tôi hợp với các sự kiện bàn giấy và viết séc hơn.”
“Tôi biết quỹ cũng làm những việc khác để quyên tiền. Tôi sẽ xem xét nó nếu cô muốn.”
Cô có thể thực sự thích điều đó đấy. Ít nhất thì đó cũng là thứ mà cô biết. “Được rồi.”
“Darby đã nói chuyện với cô chưa?”
“Chưa.” Faith liếc nhìn tivi và nhìn vài phút cuối của giờ nghỉ thứ hai. Sau hai hiệp đầu trận đấu, đội Chinooks đang dẫn trước một điểm, nhưng họ còn phải đi hết hiệp ba nữa, và bất kỳ điều gì cũng có thể xảy ra.
“Có chuyện gì à?” cô hỏi.
“Anh ấy muốn cô tham gia phỏng vấn với một phóng viên địa phương, Jane Martineau,” anh nói.
Faith đã từng nghe về Jane. Đã từng đọc chuyên mục của cô ấy trong phần Đời sống của tờ Post Intelligencer. “Không phải cô ấy viết về đời sống ở Seattle sao?”
“Ừ, nhưng cô ấy từng là phóng viên thể thao cho tờ Seattle Times. Bằng cách đó cô ấy đã gặp chồng mình, Luc Martineau. Tôi không biết cô còn nhớ không, nhưng Luc là thủ môn đội Chinooks cho tới khi anh ấy nghỉ thi đấu cách đây vài năm.” Faith chỉ có một câu hỏi. “Khi nào?”
“Ngay khi Darby có thể sắp xếp. Chắc là một lúc nào đó tuần sau để khớp với biển quảng cáo mới của cô và Ty.”
“Bức hình nào sẽ được dùng vậy?”
“Tôi không chắc, nhưng chúng ta sẽ biết vào buổi họp PR ngày mai.”
Pavel và Valerie quay lại phòng, và để lấp đầy khoảng im lặng ngượng nghịu, Jules hỏi, “Bác nghĩ gì về Dominik Pisani?”
“Cầu thủ phòng ngự đội Pittsburgh à? Cậu ta nhanh nhẹn và có thể đánh bóng đấy.” Pavel và Valerie ngồi xuống ghế đôi và Pavel vắt tay ngang lưng ghế và vuốt ve tóc Valerie. “Sao cậu lại hỏi thế?”
“Nếu chúng ta đấu với Pittsburgh ở vòng chung kết, anh ta sẽ bám đuổi hàng tấn công của chúng ta rất quyết liệt đấy.”
“Đúng vậy. Cháu thấy sao, Faith?” ông hỏi khi nhìn cô qua đôi mắt xanh vô cùng giống Ty.
“Về Pisani ạ?”
Pavel lắc đầu. “Lần cuối cùng bác gặp cháu, cháu vừa từ San Jose về nhà sớm vì cháu cảm thấy không ổn lắm.”
À phải. Cái ngày cô đã thấy ông khỏa thân. Buổi sáng sau hôm cô hôn hít con trai ông ở khách sạn Marriott. “Cháu khỏe hơn rồi. Cảm ơn bác.”
Bài “Who Let the Dogs Out” rống lên từ hệ thống âm thanh trong sân vận động, và Faith chuyển sự chú ý về với các cầu thủ đang lê ra khỏi đường hầm. Dáng đi vụng về của họ trở nên mượt mà và duyên dáng nhanh nhẹn ngay khoảnh khắc giày trượt của họ chạm băng.
Ty là một trong những cầu thủ cuối cùng bước lên mặt băng. Đây là lần đầu tiên cô thấy anh từ khi anh hôn cô, và cô cảm thấy chút co thắt kỳ lạ trong ngực và nhộn nhạo không ngừng nghỉ trong dạ dày. Trên màn hình thể thao, máy quay quay cận mặt Ty khi anh và đội trưởng đội Sharks đối đầu ở mặt băng trung tâm.
Hai người đàn ông trừng mắt nhìn nhau từ dưới mũ bảo hiểm và vào vị trí với gậy đặt ngang đầu gối. Miệng họ cử động khi họ nói chuyện với nhau. Mỗi bên đều mỉm cười và gật đầu, nhưng không hiểu sao Faith ngờ rằng không phải họ đang nói chuyện thời tiết.
Cô nâng cốc lên môi. “Mọi người nghĩ họ đang nói gì?”
“Chỉ thăm hỏi nhau vài câu thôi,” Pavel trả lời, và Jules cười to.
“Có vấn đề gì thế?” Ty hỏi đội trưởng đội Sharks khi anh nhìn thẳng vào mắt anh ta. “Bị đau bụng khi đến kỳ à?”
Anh ta bật cười. “Ngậm miệng lại và ăn tao đi, Savage.”
“Vui tính đấy. Đó chính xác là những gì em gái mày đã nói lần cuối cùng tao thấy cô ấy.”
Trọng tài trượt vào vòng tròn và Ty chuyển sự chú ý sang quả bóng mà ông ta đang cầm trong tay.
“Tao nghe nói chủ mới của bọn mày đã biến tất cả bọn mày thành mèo con hết,” anh ta châm chọc.
Giờ đến lượt Ty bật cười khi trọng tài thả bóng. Hai đội trưởng tranh cướp nó và hiệp ba khởi đầu với màn tấn công gôn đội Sharks dồn dập.
Ty chơi hết ba phút trước khi trượt về ghế băng và tóm lấy chai nước, và ánh mắt anh nâng lên khu dành cho chủ đội bóng bên trong HP Pavilion. Faith đã không đi du đấu cùng họ. Tạ ơn Chúa.
Anh lấy khăn lau mặt, rồi vắt nó quanh cổ. Đã bốn ngày trôi qua từ khi anh hôn Faith và anh không thể ngừng nghĩ về cô. Không thể ngừng nhớ lại từng chi tiết. Anh nhớ sức ép từ bờ môi mềm mại và mùi vị của cô trong miệng anh. Cô có mùi vị thật ngon lành, như bia và dục vọng cháy bỏng cùng tình dục ngọt ngào. Anh đã kéo cơ thể cô áp vào anh, ấn ngực cô vào lồng ngực anh, và gần như mất trí. Cô hẳn cũng đã mất trí, bởi vì cô không hề phản kháng. Cô đã hôn cổ anh và bảo anh hãy chạm vào khắp người cô, và Chúa ơi, anh đã rất muốn. Mọi thứ trong anh đều hối thúc anh hãy lấy cái chìa khóa thẻ khỏi tay cô và đẩy cô vào phòng. Xô cô lên giường và vùi mặt anh vào khe ngực cô.
“Em muốn liếm hình xăm của anh,” cô đã thì thầm như thế, đầy nóng bỏng và gợi cảm, và quỷ bắt anh đi nếu anh không muốn để cô rê khuôn miệng ấm áp của cô khắp da anh.
Cô thật xinh đẹp và anh đã rất muốn cô. Anh đủ thành thực với bản thân đến mức chịu thú nhận rằng mình vẫn muốn cô, và bỏ đi là một trong những việc gian nan nhất anh từng làm.
Một tiếng còi thổi lên và Ty quay sự chú ý về với trận đấu và lệnh dừng trận đấu do lao bóng. Anh đảm nhận vai trò đội trưởng đội Chinooks của mình một cách nghiêm túc. Hai mươi tư anh chàng trong đội nhìn về phía anh. Anh là một tấm gương và là thủ lĩnh, cả trong lẫn ngoài mặt băng, và anh thậm chí còn không muốn nghĩ tới phản ứng của họ nếu có ngày họ phát hiện ra Faith đã trao cho anh vết mút hồng ấy trên cổ. Anh thậm chí còn không biết nó ở đó cho tới khi Sam chỉ nó ra trong buổi tập sáng Chủ nhật. Anh đã dựng nên một lời nói dối vớ vẩn là đi chơi cùng một nữ bồi bàn ở San Jose, vì lòng kính Chúa. Không phải là điều đó chưa từng xảy ra trước đây, chỉ là chưa từng xảy ra khi anh là đội trưởng và vừa mới thuyết giáo mọi người về việc ăn chơi sa đọa.
Walker Brookes trượt tới vòng tròn đối đầu trong khu phòng thủ đội Chinooks và chờ bóng rơi.
Các cầu thủ đã quấy nhiễu anh vì chuyện say xỉn và chơi bời với một cô bồi bàn, nhưng họ đã tin anh. Tất nhiên là họ tin anh. Bất kỳ ai trong số họ cũng sẽ chẳng bao giờ nảy ra ý nghĩ nghi ngờ rằng bà chủ đội bóng đã đặt miệng lên cổ anh và bỏ lại một dấu ấn. Chính bản thân anh còn khó mà tin nổi chuyện ấy nữa là.
Hôn bà chủ đội bóng có thể tác động nghiêm trọng tới cơ hội giành cúp Stanley của anh, và anh vẫn không thể tin nổi mình đã ngu ngốc kinh khủng như thế vì một phụ nữ. Đặc biệt là người phụ nữ đó. Bất kể anh có muốn hôn và vuốt ve và để cô hôn anh đến bao nhiêu đi nữa.
Bóng rơi và Walker tranh cướp nó cho tới khi bóng lao qua anh ta rơi vào một lưỡi gậy đang chực chờ của hàng tấn công đội Sharks. San Jose đưa bóng ngang mặt băng, và huấn luyện viên Nystrom ra dấu cho Ty tăng tốc từ bên trong. Anh nhét miếng cao su bảo vệ vào miệng và thọc tay vào găng.
Pavel Savage khét tiếng với việc dùng của quý để suy nghĩ và phạm sai lầm. Ông đã hủy hoại cả gia đình và cơ hội đặt tên mình lên cúp.
Ty nắm lấy gậy và nhảy qua thành sân. Anh ngẩng đầu và trượt tới mặt băng trung tâm khi Walker ra ghế băng. Ty không phải cha anh. Hôn cô Duffy đúng là sai lầm nghiêm trọng, nhưng cũng là một sai lầm sẽ không bao giờ xảy ra nữa.
Sẽ không có gì chắn giữa anh và con đường giành cúp của anh. Không phải những đội tuyển khác tranh cướp cùng một giải thưởng. Không phải một hàng phòng thủ cần to con hơn và nhanh hơn, và đặc biệt không phải một cựu người mẫu Playboy với ngực bự và môi mềm.