Trận đánh đã khiến Vân Tiêu cổ lâu tổn thất mất hơn ba trăm đệ tử, mà những người giữ được toàn thây chỉ có chưa đầy một trăm, còn đại đa số đều thi thể tan nát, không thể nhận ra được mặt mũi nữa. Hạ Thiên Thu lần tìm trên tuyết, khắp nơi chỉ toàn thấy những mảnh thi thể chân tay, chứ chẳng có một cái xác nguyên lành nào. Chàng trai xưa nay vốn luôn tươi cười hòa nhã, chẳng sợ xông pha chiến trận, dù đầy người máu đỏ cũng không hề chau mày, vậy mà giờ đây phải cắn chặt hai hàm răng. Nhưng dù chàng đã cố gắng gồng mình đến mức nào, cũng vẫn không ngăn nổi hai hàng lệ nóng lăn trên gò má, rơi xuống nền tuyết đã nhuộm đỏ máu.
Tuyết lớn bời bời sa xuống, dần chôn vùi hết những kiếm khách trẻ tuổi. Nhưng những hòm gỗ trên xe ngựa thì vẫn im lìm dừng lại ở đó. Hơn hai trăm kiếm khách còn lại lặng lẽ buộc những sợ dây thừng lớn, tiếp tục kéo những cỗ xe nặng nề ấy, những cỗ xe với hai vạn cây binh khí mà các sư huynh đệ của họ đã phải bỏ cả tính mạng ra để hộ tống, từng bước từng bước tiếp tục tiến về phương Bắc.
Gió bấc thổi điên cuồng, cuốn tung những bông tuyết trắng như lông ngỗng, bay bời bời giữa đất trời. Dấu chân, vết bánh xe và cả bãi chiến trường máu đỏ dần dần chìm khuất trong tuyết rơi, không còn trông thấy đâu nữa!
Theo như Hà Nhân nói, trận đánh ở kẽm Hồng Thạch hôm ấy, trừ Khương Hằng và Tùy Vân Hy ra, hơn mười người khác ở cứ điểm Dung An đều rút lui an toàn, và hộ tống được Dược Vương Lạc Dương ra ngoài ải. Vốn muốn rời xa khỏi Trung Nguyên, lánh đời tránh họa, nhưng Lạc Dương không hề nghĩ được rằng ngoại tộc phương Bắc từ lâu đã như con hổ đói nhòm ngó Trung Nguyên. Khi mọi người vừa ra khỏi cửa ải, liền gặp ngay phải quân Bắc Nhung đang cử đại binh xuất phát, đánh chiếm vào các cửa ải trấn thành ở biên ải, chỉ trong vòng hơn một tháng trời, chúng đã hạ liền ba thành, ầm ầm khí thế xâm phạm xuống phía nam.
“Những nơi bọn giặc phương Bắc đi qua, đốt nhà giết người cướp bóc, chúng chẳng từ một việc ác gì. Ba thành Ngọc Bình, Sơn Hạ, Xã An đều hóa thành đống tro tàn. Dân chúng trong ba tòa thành đều phiêu bạt lưu lạc, lũ lượt chạy đến cửa ải Dương Sơn ở phía nam, trong khi quân Bắc Nhung vẫn đuổi sát sau lưng, truy sát họ dọc đường. Hiện giờ nạn dân ở ba thành đều chạy trốn đến dưới thành Trấn Xuyên, ai ngờ tên quan thủ thành ở đó lại cự tuyệt không mở cửa thành, để mặc cho nạn dân bị lũ cẩu tặc Bắc Nhung tàn sát...”
Hà Nhân nói đến đó thì Cố Lương “hừ” một tiếng, cắt ngang lời ông ta, giận dữ mắng bảo: “Ta phỉ nhổ vào! Hắn có là quan gì thì cũng là tên súc sinh mặt người dạ thú! Ông đây đã cho một đao chém cái đầu chó của hắn rồi!”
Hạ Thiên Thu nghe vậy, giật mình. “Các hạ đã giết quan thủ thành?”
Nghe Hạ Thiên Thu nói thế, Cố Lương vẻ mặt tự đắc. “Tất nhiên là thế rồi! Ai để cho tên súc sinh ấy đứng trên thành lâu, mở mắt trâng trâng nhìn nạn dân bị giết mà chẳng làm gì như thế chứ? Một tên quan như vậy, cần hắn làm gì? Ông đây tuy khinh công chẳng tài cán gì, nhưng may nhờ có Khương lão đệ giúp sức, nên mượn lực nhảy lên thành lâu, vung một đao, hừ... Thế là cái đầu chó ấy liền lăn lông lốc dưới đất!”
Cố Lương vung bàn tay phải, theo thế chém một nhát, nói rồi cười vang ha hả. Nhưng Hạ Thiên Thu thì hơi nhíu hai mày, lặng thầm suy nghĩ.
Khi ấy, mọi người đang trên đường đi đến thành Trấn Xuyên. Các võ nhân Thương Thiên cùng Hạ Thiên Thu đi phía trước đoàn quân, mở đường hộ vệ. A Chước dẫn theo các môn nhân của Vân Tiêu cổ lâu, vận chuyển đao kiếm binh khí, theo sát phía sau. Trước tiên, Vân Hy kể lại cho bọn Hà Nhân nghe chuyện ở kẽm Hồng Thạch cô bị rơi xuống sông Lăng Giang, rồi ẩn nấp vào trong rừng cây bên sông. Vốn là cô ẩn vào rừng để tránh không cho Khương Hằng giết Lạc Tử Tuyền, nhưng lại ngại vì Lạc Tử Tuyền đang có mặt ở đó, nên còn băn khoăn không biết nói tiếp như thế nào. Đang khi cô do dự, thì Lạc Tử Tuyền đã tiếp lời:
“Tùy tỷ tỷ, đa tạ tỷ tỷ và Khương đại ca, nếu không có hai người giúp cho thì muội đã bị người của Thái Bình minh bắt để gây sức ép với phụ thân từ lâu rồi.”
Biết Tử Tuyền cố ý che giấu giúp nên Vân Hy cũng nói qua loa cho xong đoạn ấy, chỉ kể sau khi cô và Khương Hằng lạc nhau, Thực Tâm Cổ phát tác, phải ẩn mình trên cây, nhưng lại bị lộ dấu vết. Khi ấy Hạ Thiên Thu và những người của Thái Bình minh truy đuổi tới nơi, phát hiện ra người đang ẩn nấp, nhưng Hạ Thiên Thu vốn mến mộ lòng nghĩa hiệp của võ nhân Thương Thiên nên đã lẳng lặng điều động mọi người đi nơi khác, không những che giấu tung tích, mà còn chỉ đường trốn an toàn cho cô. Nhưng sau khi cổ độc phát tác, Vân Hy bị rơi từ trên cây xuống đất, Hạ Thiên Thu mới nhận ra người quen cũ, vì vậy mà chữa trị cổ độc cho cô.
Nghe Vân Hy kể lại mọi chuyện, ấn tượng của võ nhân Thương Thiên với Hạ Thiên Thu đã thay đổi hẳn, ngay cả Cố Lương cũng không còn có ý đối địch nữa. Con người Cố Lương tính khí cũng dễ thay đổi, lập tức xưng hô huynh đệ với Hạ Thiên Thu, trò chuyện vô cùng vui vẻ. Cố Lương hớn hở kể lại chuyện hôm trước mình đã giết quan thủ thành Trấn Xuyên, nhưng đến khi kể xong, vẫn lấy làm nuối tiếc. “Khó khăn lắm mới lên được trên thành, ta vốn muốn bắt bọn con cháu nhà rùa rụt cổ ấy phải mở cửa thành, nhưng đúng lúc đó thì đám Triệu gia quân đáng chết ấy đã tiến vào trong thành. Công phu của tên Triệu Hãn kia cũng không phải tầm thường, tí xíu nữa thì ta đã sa vào tay hắn, hừ!”
Cố Lương tức giận nói vẻ bất bình. Nghe vậy, trên nét mặt tuấn tú của Hạ Thiên Thu chợt lộ vẻ lo lắng, đôi mày kiếm hơi nhíu lại. Thấy mặt chàng đổi sắc, Hà Nhân nghi hoặc hỏi: “Hạ thiếu hiệp có cao kiến gì?”
Hạ Thiên Thu suy nghĩ hồi lâu rồi trầm giọng nói: “Không dám gọi là cao kiến, chỉ là liên quan đến chuyện cửa thành, bản thân tại hạ thấy quan thủ thành hoàn toàn không phải là máu lạnh vô tình, không đáng phải giết ông ta.”
Cố Lương nhảy dựng lên, giận dữ nói: “Sao? Như ý tứ của đệ thì ông đây đã giết lầm người ư? Hắn ta thân là quan triều đình, trông thấy dân chúng phải chết dưới lưỡi đao của ngoại tộc, mà coi như không thấy không hỏi. Loại cẩu tặc như vậy, sao lại không phải là máu lạnh vô tình?”
Thấy Cố Lương giận dữ, Hạ Thiên Thu khẽ thở dài, chậm rãi nói: “Khu vực phía bắc địa thế tương đối bằng phẳng, tất cả chỉ có thể dựa vào hai vành phòng tuyến để chống lại giặc ngoài. Một là Vạn Lý Trường Thành, thì cửa ải Ngọc Bình đã bị phá, đại quân Bắc Nhung đã công phá tường thành, xâm phạm vào trong địa phận. Phía trong Trường Thành trong vòng vài trăm dặm đều là bình nguyên, cho nên quân Bắc Nhung đã đuổi đến tận đây, có thể phá liền ba thành...”
“Đệ đúng là nói toàn những câu vô ích.” Cố Lương chau mày nói. “Thế thì có liên can gì đến chuyện ông đây giết hắn?”
“Cố huynh cứ bình tĩnh nghe ta nói.” Hạ Thiên Thu trấn tĩnh ông ta rồi mới nói tiếp: “Quân Bắc Nhung sinh sống ở vùng lạnh, tính dã man còn chưa thuần, rất kiêu dũng thiện chiến. Vì nhiều năm sinh sống ở nơi hoang vu thiếu thốn vật dụng, cho nên những nơi chúng đi qua đều giết sạch cướp sạch, chỉ quan tâm đến của cải lương thực, còn tù binh và cư dân thì nhất loạt đều không để cho được sống. Trong mắt người Bắc Nhung, trước nay chưa từng có ý niệm phải đối xử tốt với tù binh, thêm một mạng sống là phải nuôi thêm một miệng ăn. Một dân tộc cực đoan như vậy, sao lần này công thành lại để cho nhiền nạn dân chạy đi như vậy, đồng thời còn để cho họ mang theo cả gia tài cùng lương thực, kéo nhau chạy xuống phía nam như thế?”
Vân Hy lập tức hiểu ý. “Ý của Hạ đại ca là, quân Bắc Nhung đã cố ý làm như vậy?”
Hạ Thiên Thu khẽ gật đầu, nói: “Không sai! Lớp phòng tuyến thứ hai với phương Bắc chính là dãy núi Tùng Dương. Dãy núi ấy vắt ngang mạn bắc nước nhà, tựa như sống lưng của Trung Hoa. Thế núi rất cao, chỉ những võ nhân võ công thâm hậu mới có thể chống lại gió lạnh mà vượt qua được dãy núi ấy. Chớ nói đến người bình thường, ngay cả quân đội được huấn luyện kỹ càng cũng đừng mơ vượt qua được. Quân Bắc Nhung có mạnh đến đâu cũng phải chịu khuất phục dưới núi non hiểm trở ấy. Vì vậy, muốn tiến quân vào nội địa Trung Nguyên, Bắc Nhung chỉ có một con đường duy nhất là kẽm núi trong dãy núi Tùng Dương, chính là nơi mà chúng ta gọi là ải Dương Sơn.
Thành Trấn Xuyên tọa lạc giữa kẽm núi ải Dương Sơn, tường thành rất cao, chiếm cứ được lợi thế về địa thế, dễ thủ khó công. Nếu như quan thủ thành lo cho an nguy của nạn dân, mở cửa thành, mà quân Bắc Nhung lại có mưu đồ từ trước, thì tất đại quân giặc đang ở phía sau, sẽ nhân thời cơ đó công thành. Một khi thành Trấn Xuyên đã bị phá, ải Dương Sơn không giữ được, thì đại quân Bắc Nhung sẽ có thể vung gươm tiến xuống phía nam, xâm phạm vào vùng bình nguyên mấy ngàn dặm phía trong. Khi ấy, thì chẳng phải là nạn dân ba thành nữa, mà sẽ là hàng ngàn hàng vạn lê dân trăm họ phải chết dưới đao quân giặc.”
Hạ Thiên Thu giải thích như vậy, Cố Lương càng nghe càng giật mình, đến câu cuối thì không ngăn được đứng sững người, hồi lâu mới nói: “Lẽ nào... ta đúng là giết lầm người?”
Thấy ông ta tự trách mình, Vân Hy cũng nhẹ nhàng an ủi: “Cố đại ca, huynh có lòng nghĩa hiệp không thể đứng nhìn nạn dân bị giết, càng không thể chấp nhận việc quan lại triều đình bỏ mặc không quan tâm đến tính mạng của dân chúng, nên trong lòng phẫn hận, cũng không thể tránh khỏi...”
“Ôi!” Cố Lương vung tay tự vả vào má mình một vả. Chẳng những là ông ta, ngay cả mấy người Hà Nhân, Sái Tiểu Xà, Tần Lão Ưng cũng đứng lặng im không nói được câu nào.
Người trên giang hồ có hào tình và nghĩa hiệp của người giang hồ, trông thấy những kẻ làm quan coi dân chúng như cá thịt trên thớt, lập tức vung đao hành xử. Việc diệt trừ cái ác, tuyên dương cái thiện ấy cũng là những việc thích chí của võ nhân giang hồ. Hôm ấy, chính mắt nhìn thấy mấy ngàn nạn dân thi nhau gõ cửa thành Trấn Xuyên, gào khóc xin cứu viện, từng câu từng từ “Quan lớn lão gia”, từng câu từng từ “Làm ơn làm phúc, xin mở cửa thành” đều khiến những hiệp sĩ giang hồ ấy sôi máu nóng. Đến khi thấy viên quan thủ thành vẫn đóng cửa không đáp lời, lạnh lùng đứng nhìn, các hiệp khách không thể nhẫn nhịn nổi nữa, chỉ muốn vung đao giết ngay tên cẩu quan ấy, chứ chưa từng nghĩ rằng sau vẻ lạnh lùng ấy lại ẩn giấu một hàm nghĩa sâu xa hơn thế.
“Nghe một lời của đệ còn hơn đọc sách mười năm, Hạ huynh đệ, Cố mỗ phục rồi, ta đây nhận lỗi! Nếu như quan thủ thành ấy đúng như lời Hạ huynh đệ nói, thì ta sẽ đền mạng cho ông ta!”
Nghe câu ấy của Cố Lương, Hạ Thiên Thu không ngăn được cười cay đắng. “Trung can nghĩa đảm của võ nhân Thương Thiên, hôm nay được thấy, quả nhiên là danh bất hư truyền. Cố huynh, chuyện này không cần nhắc lại nữa, trước mắt việc quan trọng hơn là đem hai vạn binh khí này đến thành Trấn Xuyên và giúp Lý Tướng quân giữ thành mới đúng.”
Lời đề nghị của chàng chính là suy nghĩ của mấy người bọn Cố Lương. Hà Nhân gật đầu nói: “Triệu Hãn và Lý Bá Phong trước sau dẫn quân vào thành. Mấy ngày nay, các huynh đệ đều quanh quẩn bên ngoài thành Trấn Xuyên, trông thấy bọn chó Bắc Nhung có động tĩnh khác lạ nào là sẽ giúp sức giết mấy tên. Chỉ có Lạc thần y nghe được tin con trai đã chết, tâm lực đều tổn thương, lại thêm thời tiết quá lạnh, nhất thời không chịu đựng được, đã cưỡi hạc quy tiên rồi. Ôi... Lần này là nhờ đứa con cưng của Tần Lão Ưng phát hiện ra động tĩnh của bọn Bắc Nhung nên chúng ta mới biết là người của Vân Tiêu cổ lâu rốt cuộc cũng đã ra ngoài biên ải.”
Hà Nhân nói đến đó thì con chim ưng đang đậu trên vai của Tần Thiếu Trực tựa như cũng hiểu được tiếng người, cất lên mấy tiếng kêu dài, đôi mắt màu vàng kim quay ra nhìn mọi người. Tần Thiếu Trực vừa cười vừa vỗ vỗ lên diều nó, bảo: “Ngoan nào nhóc.”
Bỗng nhiên, con chim ưng lại vỗ cánh, bay lên không trung. Thân hình thon khỏe của nó bay vút lên cao, lướt thẳng lên phía bắc, rồi bỗng lại kêu rít lên mấy tiếng. Tần Thiếu Trực vẻ mặt chợt lo lắng, nói: “Chư vị, có đội binh mã năm trăm người đang tiến đến gần!”
“Có năm trăm người thôi? Sợ cái gì chứ!”
Các võ nhân Thương Thiên thốt lên những lời thật hào tráng, ai nấy đều cầm chắc binh khí trong tay, khí thế sẵn sàng. “Đến đúng lúc lắm! Ta lại đánh một trận nữa!”
Hạ Thiên Thu lui về chỗ đội ngũ của Vân Tiêu cổ lâu ở phía sau, bàn bạc với A Chước. A Chước quay đầu truyền lệnh, nhắc hơn hai trăm kiếm khách của Vân Tiêu cổ lâu cẩn trọng, bảo vệ số vũ khí mang theo.