Gia đình vợ ông là hoa kiều Tây Á, cha vợ lúc còn trẻ đã từng làm chủ một nhà máy gia công lớn ở Penang, cổ đông lớn nhất của nhà máy là một gia đình người Hoa có danh tiếng ở địa phương. Nhờ vào quan hệ này, mười bốn năm trước do sự tiến cử của cha vợ, Lục Ninh Hải vốn là người phụ trách pháp luật tuổi trẻ tài cao trở thành đại diện pháp lý của gia đình này ở trong nước, hết thảy các công việc hành chính luật pháp đều thay mặt họ phụ trách xử lý, đương nhiên, bao gồm tất cả những việc mà thân chủ không đích thân làm được.
Hơn trăm năm trước, vì phong trào ở Nam Dương khiến cho dân bản địa có không ít người giàu có phải ở lại nước ngoài, trong số đó có những người từ Qua Âm Châu ra đi, trong quá trình làm việc ông đã đặc biệt chú ý gia đình này. Ngày nay hậu nhân của Phó Học Trình ở Mã Đại tuy đã không còn cường thịnh kêu mây gọi gió như lúc trước, nhưng trải qua bốn đời gia nghiệp vẫn không tàn lụi là rất đáng nể rồi. Phó gia năm đó di cư kịp lúc, lại liên tục làm ăn ở Nam Dương, có quan hệ thông gia với gia đình danh giá của địa phương, có thể nói tạo được căn cơ thâm hậu ở Tây Á, huống chi trong gia tộc hiện giờ cũng còn có người chủ kiến, không đến nỗi ly tan, nên việc bảo tồn gia nghiệp sự sản cũng kéo dài. Gia đình như vậy, trừ khi gặp phải biến cố trọng đại hay phá gia chi tử, nếu không bình thường trong thời gian ngắn sẽ khó lòng sụp đổ.
Một nửa số thành viên trong gia đình họ Phó chủ yếu sống ở nước ngoài, sản nghiệp trong nước cũng không nhiều, nên ủy thác cho Lục Ninh Hải xử lý, bình thường ngoài những việc như nhận gia sản do chính phủ từ từ trả lại, đôi khi cũng để ông thay mặt để thu xếp công việc ở bản địa với hậu nhân. Qua Âm Châu những năm gần đây có chút thành công khi đi theo đường lối mở rộng thắng cảnh du lịch, khoảng cách vào thành phố cũng chỉ qua một vịnh nhỏ, nên mỗi lần Lục Ninh Hải lên đảo đều trở về vội vàng. Kể từ khi ông và bạn bè hùn hạp mở văn phòng Luật sư đến nay, công việc liên miên, cũng thích thưởng ngoạn phong cảnh, mà những căn nhà cũ, biệt thự xưa trên đảo được người ta gọi là danh lam thắng cảnh đó, ông thấy chẳng qua chỉ là sự nhầm lẫn của quyền sở hữu và các thủ tục rắc rối lung tung. Vậy mà hôm nay không biết là vì nhớ người vợ đã qua đời, hay bởi vì mùa đông khiến Qua Âm Châu lộ rõ sự cũ kỹ mà trầm tĩnh, mưa gió trăm năm làm xói mòn các ngôi nhà cổ nép mình trong bóng cây xanh biếc, tiếng chuông leng keng tình cờ vọng ra từ những chiếc xe đạp trong ngõ hẻm, âm thanh văng vẳng của thánh ca từ giáo đường xa xa vọng tới, người nước ngoài đi bộ trên đường, mang hơi hướm của một bức bích họa cổ xưa. Ông không kềm chế được nên để bước chân chậm lại.
Hôm nay Lục Ninh Hải vì việc hành chính mà đến Phó gia Hoa viên, chủ nhân trẻ tuổi có thân phận khó nói cùng với lão làm vườn trung thành đã chờ ông từ lâu. Ông còn nhớ mùa đông của mười hai năm, ông cũng mang theo sứ mạng giống như bây giờ đến gặp người sống trên nhà tổ của Phó gia, lúc ấy đón tiếp ông cũng là hai người, chỉ khác là bây giờ lưng của lão làm vườn đã còng xuống hơn một chút, mà khuôn mặt người đứng cạnh lão ta cũng đã đổi khác rồi.
Mười hai năm trước, Phó Duy Nhẫn với gương mặt tái nhợt, ánh mắt đầy vẻ bất an và nóng lòng chờ đợi. Lục Ninh Hải mang di chúc của cha ông đến, chỉ vài lời khó có thể diễn tả được sự phức tạp trên gương mặt mãn nguyện đó, Lục Ninh Hải làm xong thủ tục cho ông rất nhanh, còn đích thân đưa ông đi. Sau đó ông ta cũng không có liên lạc với Lục Ninh Hải, vậy mà trí nhớ của Lục Ninh Hải về ông ta vẫn rất sống động. Không ngờ những ngày tháng đó thoáng chốc đã trôi qua, lần này lên đảo, Lục Ninh Hải lại đem tin Phó Duy Nhẫn qua đời cho con trai ông ấy, số kiếp tuần hoàn của con người lại giống nhau một cách đáng sợ đến vậy khiến ột luật sư lâu năm cũng không khỏi cảm thán thế sự vô thường.
Dựa theo trình tự pháp luật, Lục Ninh Hải cẩn thận đưa cho đời thứ tư của Phó gia giấy chứng tử của Phó Duy Nhẫn, đồng thời báo rằng tro cốt đã an táng tại nghĩa trang ở địa phương. Ông còn đem về một vài món đồ thuộc sở hữu của Phó Duy Nhẫn lúc sinh thời, chẳng qua chỉ là một số vật phẩm tùy thân không có gì quan trọng. Vì đột ngột ra đi, Phó Duy Nhẫn cũng không để lại di chúc, Phó gia Tam phòng lại chưa chia của nên có thể nói tài sản cá nhân của ông tương đối hạn chế, trừ một số ít tiền mặt và tiền gửi ngân hàng, còn một số tiền ký gửi làm ăn của ông lúc còn sống, hôm nay theo an bài của bà chủ Trịnh, giao người chuyển lại cho con trai ông ta. Nói cách khác, đến trước khi con trai ông hai mươi tuổi, mỗi tháng có thể từ quỹ làm ăn đó lấy ra một số tiền lời, dù không đủ để tiêu xài hoang phí, nhưng đủ sống dư dả qua ngày, sau hai mươi tuổi anh sẽ có quyền quản lý toàn bộ số quỹ kinh doanh đó. Sau này Phó gia cũng không gánh chịu phí sinh hoạt cho anh nữa, ngay cả sản nghiệp ở Tây Á anh cũng không có quyền thừa kế.
Trong quá trình tiếp xúc, con trai trẻ tuổi của Phó Duy Nhẫn đều thể hiện sự kềm chế tương đối. Anh đọc kỹ càng từng văn bản pháp lý, gặp thuật ngữ nào không biết rõ sẽ lịch sự hướng về phía Lục Ninh Hải mà đặt câu hỏi, không nói lời phản đối với bất kỳ điều khoản nào viết trong đó, cũng chẳng tỏ ra buồn rầu về phương diện phân chia tài sản, sau đó bình tĩnh ký tên mình vào giấy tờ. Làm những chuyện này cùng lúc, thậm chí anh còn để ý mời Lục Ninh Hải uống trà trong thời gian chờ đợi ngắn ngủi. Khách vừa đến, lão làm vườn liền đi pha trà nóng, nhưng do thời tiết lạnh, nước cũng nguội nhanh hơn, dạ dày Lục Ninh Hải không tốt, nước trà lạnh như băng này khiến ông không thể nuốt, cơ bản chỉ theo phép lịch sự đưa lên môi hớp một ngụm chiếu lệ.
Người thanh niên liền tự tay pha cho Lục Ninh Hải ly trà nóng, khi Lục Ninh Hải vén nắp lên, thấy màu sắc trà vàng đậm, hơi nóng của mùi hương trà Trân Mi thượng hạng tỏa vào mặt, điều này khiến cho ông vừa mừng vừa ngại. Loại trà này là đặc sản của quê ông, chỉ là người ta thường chuộng Thiết Quan Âm hay Bạch Hào trà hơn, không biết tại sao cậu thanh niên tuổi còn trẻ trước mắt lại biết ông thích loại trà này. Mặc dù thay Phó gia làm việc nhiều năm, nhưng thân chủ nói trắng ra chỉ có một người là bà chủ Trịnh, với đứa trẻ mồ côi lại ở lại trong nước này rất ít khi liên hệ, chẳng lẽ đối phương là từ cách nói năng của ông toát ra hương âm mà đoán được manh mối? Nếu thật là vậy, không thể không gọi là người có óc quan sát, trí tuệ sáng như gương.
Việc chính làm xong, trà lại mới uống một nửa. Lục Ninh Hải không giống thường ngày vội vã từ giã, ngược lại còn ngồi xuống thưởng trà, cùng người thanh niên hàn huyên một dịp. Con trai của Phó Duy Nhẫn dáng dấp cũng không quá giống cha, hoặc có khi lại giống mẹ nhiều hơn. Lục Ninh Hải biết Phó gia, tự nhiên cũng đã nghe qua lời đồn đãi về mẹ anh, nên cẩn thận không lên tiếng.
Tuy tiếp xúc trong thời gian ngắn, Lục Ninh Hải cảm thấy cậu bé này mặc dù tướng mạo và tính cách đều không giống Phó Duy Nhẫn, ngược lại trong lòng ông thấy dáng vẻ cậu ta đích thị giống như người của Phó gia: suy nghĩ nhạy bén không nóng nảy, nói năng cẩn trọng không kiêu ngạo, thái độ dè dặt nhưng lời nói thì lưu loát. Người thông minh có thể thấy cậu ta từ nhỏ bị bỏ lại trong ngôi nhà này, lớn lên đơn độc, khó tránh có không ít ấm ức, Lục Ninh Hải coi như người truyền tin với phía Mã Đại, nhưng cậu tuyệt đối không nói một lời than khổ, ngược lại còn cùng Lục Ninh Hải trò chuyện vui vẻ về hội họa và thư pháp, vừa hợp ý nhau, vừa có chừng có mực, cách tiếp đãi khiến cho người khác cảm thấy vô cùng thỏa đáng nhưng lại không có chút cảm giác nịnh hót nào. Hai người trò chuyện với nhau rất vui vẻ. Trước khi Lục Ninh Hải cáo từ, vì trước đó có mạn đàm về nơi sản xuất bút mực nổi tiếng trong nước, người thanh niên còn bảo lão Thôi lên phòng cầm xuống một nghiên mực cổ, cười nói mình không am hiểu thư pháp, vật này tuy không tốt lắm, nhưng cuối cùng cũng đã tìm ra chủ nhân thích hợp.
Lục Ninh Hải biết lúc Phó gia tam phòng dời đi nước ngoài, mọi vật dụng đáng giá đều đã mang đi, căn nhà cũ này sau đó lại gặp không biết bao nhiêu lần lục soát, chẳng thể so bì với bên Mã Đại, những thứ đồ xài được còn lại cũng không nhiều. Đối phương lại rất có lòng, vật đưa ra nhất định nói là “không được tốt lắm” nhưng thái độ rất thành khẩn, nếu ông cự tuyệt thì hóa ra kiểu cách, trong lòng lại thấy rất thích, từ chối thì bất kính, nên vui vẻ mà cầm. Sau khi nói lời từ biệt, Lục Ninh Hải nhìn lại khu nhà tổ Phó gia vắng lạnh không ra hình dáng, cúi đầu lật xem xấp văn thư vừa mới ký, ở phần chữ ký ghi là hó Kính Thù.
Xem thái độ của bà chủ Trịnh bên kia, đoán chừng không tính tham dự vào cuộc sống của cậu thanh niên này quá nhiều. Lục Ninh Hải cũng không biết sau này mình còn có dịp giao thiệp với đời thứ tư của Phó gia – Phó Kính Thù này nữa không, là người ngoài, ông chỉ cảm thấy có một điều đáng phải suy nghĩ – tuy Phó Kính Thù là hậu nhân của con riêng Phó Truyền Thanh, cùng với bà chủ Trịnh không có liên hệ máu mủ gì, nhưng theo như ông tiếp xúc với tất cả những người của Phó gia, Phó Kính Thù và bà chủ Trịnh ở một phương diện nào đó rất giống nhau.
Rời khỏi Phó gia Hoa viên, công việc của Lục Ninh Hải vẫn chưa kết thúc. Nhiều năm qua Phó gia vẫn là một trong những người quyên góp tư nhân không thuộc chính phủ lớn nhất Cô nhi viện Thánh Ân trên đảo, làm người đại diện Phó gia, đem một khoản tài trợ nhỏ của Phó gia đến cô nhi viện cũng là một trong những mục đích trong chuyến đi này của Lục Ninh Hải.
Cách đón tiếp của cô nhi viện Thánh Ân so với Hoa viên Phó gia nồng nhiệt hơn rất nhiều, viện trưởng cùng người quản lý đã nhận được thông báo trước, từ sớm đã cho bọn trẻ xếp hàng chỉnh tề hoan nghênh người quyên góp đến. Viện trưởng dẫn đường Lục Ninh Hải, đi qua tiếng vỗ tay hoan hô của các cô nhi, sự khó chịu trong lòng lúc đầu dễ dàng bị cảm giác vinh dự thay thế. Mặc dù ông chỉ là người đại diện, cũng không phải là chân chính quyên góp, hưởng thụ sự đãi ngộ này có vẻ như “Cáo mượn oai hùm”, nhưng nhìn cơ thể gầy gò nhỏ bé cùng với gương mặt đỏ lên vì lạnh giá của từng đứa trẻ, liền có một niềm an ủi khó lòng miêu tả, thánh ca khởi xướng, dường như ông được tôn vinh chẳng khác Thượng Đế. Ông nghĩ đây có thể là nguyên nhân để những người có tiền nhiệt tình với công việc từ thiện, ít nhất cũng là một trong các nguyên nhân. Rất nhiều người nói kim tiền không mua được hạnh phúc, ông nghĩ ngoài nó ra không biết còn thứ gì có thể mua được.
Viện trưởng cô nhi viện là một nữ tu lớn tuổi, với sự có mặt của Lục Ninh Hải bà dùng lời nhiệt tình nhất để ca ngợi. Lục Ninh Hải đem chi phiếu của Phó gia đặt vào trong bàn tay già nua như vỏ cây của bà, cũng là lần đầu tiên nói với bà những suy nghĩ riêng của mình.
Sau khi Lục Ninh Hải trưởng thành không lâu thì cha mẹ liên tiếp qua đời, ông không có anh chị em gì, sau khi lập gia đình tình cảm với vợ rất tốt, nhưng năm năm trước vợ ông mất đi do tai nạn giao thông ngoài ý muốn, chỉ để lại cho ông một đứa con trai. Lần tái hôn sau, ngoài Lục Ninh Hải với người vợ hiện tại chẳng còn ai, gia đình rất đơn chiếc, luôn hâm mộ không khí náo nhiệt trong nhà người khác. Ông và vợ cố gắng mấy năm, muốn sinh thêm em bé nhưng trông đợi mấy lần đều vô vọng, bác sĩ nói nguyên nhân lớn nhất là từ cơ thể của ông. Mấy năm nay, Lục Ninh Hải tuổi đã trung niên, công việc lại bận rộn, càng ngày càng lực bất tòng tâm, nguyện vọng muốn có em bé chỉ sợ là tan theo bọt nước. Cách đây không lâu, ông đã ngồi bàn với người vợ hiện tại, nếu như bây giờ không sinh con được, chi bằng thừa dịp này sớm nhận một đứa con nuôi, coi như hoàn thành tâm nguyện. Vợ ông còn trẻ chỉ chưa quá ba mươi tuổi lúc đầu không đồng ý, nhưng sau khi nghe Lục Ninh Hải liên tục khuyên giải, nghĩ đến cảnh mình dưới gối trống không, lại chẳng cần khổ sở mang thai chín mười tháng mà có được đứa con, cũng không ảnh hưởng đến sự nghiệp thành công của chồng, lúc này mới ưng thuận. Vì vậy, hai vợ chồng chính thức đem chuyện này trình lên nghị sự, còn sai người dò hỏi khắp nơi xem có đối tượng nào thích hợp để nhận nuôi không, cô nhi viện cũng là một trong các mục tiêu của Lục Ninh Hải, trẻ con trong đây đa số là bị bỏ rơi rất đáng thương, nếu có thể thành công nhận nuôi một đứa thì cũng là làm được việc thiện.
Viện trưởng nghe ý định này của Lục Ninh Hải, dĩ nhiên là gật đầu không dứt, nguyện ý giúp đỡ. Bà lấy danh sách trẻ con trong viện ra, nói với ông nếu thích đứa trẻ nào, chỉ cần phù hợp điều kiện nhận nuôi, đều có thể để ông dẫn nó về nhà.
Lục Ninh Hải lật mấy cái liền khép danh sách lại, đối với ông mà nói, trẻ con phải hoạt bát lanh lợi, không phải là mấy gương mặt trơ trơ như đá trong quyển danh sách đó. Ông nói có thể nhìn quanh cô nhi viện một lượt, có thể làm người một nhà không dựa vào duyên phận, nhìn bằng mắt cũng là một trong số đó.
Lão viện trưởng vui lòng giúp đỡ, giờ trực buổi trưa, theo truyền thống cũ của cô nhi viện, hằng năm đến đêm giáng sinh trong viện sẽ vì bọn trẻ, các giáo đồ cùng các nhà hảo tâm quyên góp làm một bữa cơm Thánh. Kinh phí của bọn họ có hạn, món ăn năm nào cũng như năm đó, chỉ có cá với khoai tây, nhưng đối với bọn trẻ mà nói chính là đồ ăn ngon nhất. Dường như tất cả cô nhi đều kéo đến hội trường trước giờ ăn bữa cơm Thánh, chờ nhận lấy phần mình, đó chính là cơ hội tốt cho Lục Ninh Hải.
“Nói chung, chúng tôi đều đề nghị người nhận nuôi thu nhận các trẻ em càng nhỏ tuổi càng tốt, bọn trẻ con không hiểu chuyện nhiều, đối với cha mẹ nuôi cũng sẽ thân thiết hơn, như đứa đó… năm nay hơi lớn tuổi…” Viện trưởng chỉ đứa bé trai đứng trước mặt cách đó không xa mà nói.
Lục Ninh Hải lắc đầu.
“Mấy tháng trước có người bồng tới một đứa bé gái, chưa đầy một tuổi, chẳng qua là.. nó có hơi gầy yếu”. Viện trưởng quan sát vẻ mặt của Lục Ninh Hải, thử thăm dò.
Lục Ninh Hải đúng là muốn một đứa con gái, xinh đẹp như thiên thần, đây là mơ ước lâu nay của ông. Nhưng rõ ràng viện trưởng nói bé gái đó có điều thiếu sót, ông còn do dự.
“Đứa trẻ quá nhỏ, tôi bận rộn công việc, bà nhà lại không có kinh nghiệm chăm sóc trẻ con, chỉ sợ là không thích hợp”.
Viện trưởng làm sao không hiểu ông đang từ chối khéo, vừa định kiên nhẫn thay ông tiếp tục quan sát, đột nhiên từ chỗ mọi người đang dùng bữa cơm Thánh truyền tới âm thanh xôn xao không lớn không nhỏ. Chỉ nghe được tiếng một cậu bé cao giọng: “Mày chạy vào đây làm gì?”
Sau đó có hai người bị đám người đó ép ra ngoài, một đứa trước một đứa sau co chân chạy, phía sau là một đứa bé vóc dáng cao lớn mập mạp đuổi theo, nhất định không buông tha, hét lên: “Chính là mày, giả mạo vào đây ăn uống, không ày chạy”.
Phía sau cậu bé mập mạp còn có vài đứa bé lớn tuổi hơn, náo loạn đuổi theo hai đứa phía trước.
“Mấy con khỉ này…” Viện trưởng không giấu được sự xấu hổ trên mặt, cười giải thích với Lục Ninh Hải, “Đây là…”
Trong lúc đó, cậu bé đuổi theo đã vượt qua mấy người bạn cùng trang lứa chạy về hướng cửa chính của cô nhi viện, cố gắng bao vây. Người chạy phía trước là một cô gái, thấy cửa lớn bị chặn, nhanh như sóc quay người chạy về một phía khác trong hội trường, không quên kéo theo cậu bé vóc dáng nhỏ thó bên cạnh. Vì chạy quá nhanh, lại phải đối phó với đám người cao to đuổi theo sau, cô gái cứ né hết bên phải rồi bên trái, suýt nữa thì đụng vào Lục Ninh Hải cùng Viện trưởng đang đứng một bên hội trường.
Lục Ninh Hải né người tránh, mới có thể đứng vững mà không ngã.
“Loạn, loạn thật mà!!!” Viện trưởng dậm chân hướng về phía bọn nhóc kia khiển trách.
Cô gái quay đầu nhìn hai người lớn một cái, ánh mắt hiện rõ sự dửng dưng hài hước. Cậu bé nhỏ thó sau lưng cô nghe Viện trưởng la thì hoảng sợ, làm rơi túi đồ trên tay xuống, mấy con cá chiên vàng ươm từ trong túi giấy rơi ra tán loạn. Cô bé thấy vậy lập tức quay trở lại, đi vòng vèo mấy bước, cúi người muốn nhặt lên nhưng cậu bé mập mạp to lớn đã đuổi theo sau sát nút.
Lúc này, Lục Ninh Hải mỉm cười cản cậu bé đuổi theo lại, dù không dùng sức nhiều nhưng vẫn đủ để cô bé kia có cơ hội thoát thân. Cô nhanh chóng vọt tới tường rào bên cạnh hội trường Cô nhi viện, dùng gốc cây hoa quế bên tường làm điểm tựa ba chân bốn cẳng phóng lên trên tường, quay lại nhìn kẻ đang đuổi theo cười lớn.
“Ăn trộm! Nó dựa vào cái gì mà đến đây ăn chứ?” Bị Lục Ninh Hải cản lại, cậu bé mập mạp ấm ức hất tay ông ra, lớn tiếng: “Ông chặn tôi làm gì? Tôi đang giúp mọi người bắt ăn trộm mà!’
Cậu bé vóc dáng nhỏ bé đi cùng cô bé khi nãy thấy bạn mình thoát thân thuận lợi, cũng không chạy theo mà đứng ở chân tường cãi lại cậu bé to con đang đứng cạnh Lục Ninh Hải: “Vậy mày cũng không phải người trong viện này, cũng đều là ăn trộm như nhau thôi, ăn trộm!”. Cậu ta dùng sức hít mũi một cái, làm mặt quỷ hù dọa.
“Tao với nó không giống nhau, nhà chúng tao đều là giáo đồ, có quyên tiền cho Cô nhi viện. Nó là ăn mày ở đâu chứ?” Cậu bé to con hất hàm lên, sau đó nhìn về phía sơ Viện trưởng, như đang tìm sự đồng cảm.
Viện trưởng lắc đầu không nói.
“Đừng nói gì khác, con trai mà đuổi theo con gái thì có ra gì.” Lục Ninh Hải cười nói.
Cậu bé dĩ nhiên không phục, nhưng cũng sợ vì đối phương là người lớn đáng tuổi cha mẹ mình, lại có mặt sơ Viện trưởng ở đây, không dám hỗn hào quá đáng, chỉ biết hậm hực đi ra, bọn nhỏ theo đuôi cậu ta cũng giải tán một cách ồn ào.
Lục Ninh Hải nói với Viện trưởng: “Tôi còn tưởng bữa cơm Thánh hôm nay là mở cửa cho tất cả mọi người, nhất là trẻ em”.
“Thành thật mà nói đồ ăn của chúng tôi là chuẩn bị cho các tín đồ và trẻ em trong viện..”. Sơ Viện trưởng ngập ngừng, dừng lại một chút rồi nói: “Đứa trẻ mới vừa rồi cũng là Phó.. là Phó gia trên đảo…”
“Tôi muốn biết đứa bé bị rượt chạy khi nãy tên gì?” Viện trưởng vừa nói ra, Lục Ninh Hải đã hiểu cậu bé khi chắc chắn là con cháu của Đại phòng Phó gia, nhưng ông không bận tâm lắm đến điều này.
“À, đó cũng là một đứa bé đáng thương, nó tên là Tô Quang Chiếu, năm nay mười hai tuổi”. Thấy Lục Ninh Hải có hứng thú, Viện trưởng vội vàng hướng về hàng rào ngoắc đứa bé trai: “A Chiếu, mau tới đây”.
Mười hai tuổi, Lục Ninh Hải kinh ngạc, ông nghĩ rằng đứa bé gầy gò đang hít mũi đó cao lắm là tám chín tuổi mà thôi. Hơn phân nửa trẻ em trong cô nhi viện Thánh Ân mang họ Tô, nghe nói là vì kỷ niệm vị thánh đã lập nên Cô nhi viện.
Tô Quang Chiếu nghe Viện trưởng gọi, bối rối không biết làm sao.
“Tới đây, đồ ngốc!” Viện trưởng nóng nảy, sợ A Chiếu bỏ qua cơ hội ngàn vàng này, vội vàng giục.
Lục Ninh Hải lịch sự cắt đứt sự nhiệt tình của Lão viện trưởng, nói thẳng: “Thưa sơ, tôi muốn hỏi cô bé trèo tường khi nãy”.
“Con bé đó…” Mặt Viện trưởng không giấu được kinh ngạc. “Nhưng con bé đó không phải là trẻ em trong Viện của chúng tôi”.