Bỗng dưng quá nhiều nghi vấn đổ dồn lại, quá phức tạp. Đầu óc Mã Như Long rối loạn cả lên, ngay cả câu hỏi đơn giản nhất y cũng không suy nghĩ được ra đầu đuôi. Bây giờ điều đáng làm nhất là mau chóng rời khỏi nơi này. Những việc xảy ra tại đây rất có thể cũng là một âm mưu, hay nói trắng ra là một cạm bẫy. Mã Như Long đã nghĩ đến điều này, nhưng rất tiếc khi nghĩ ra thì chính mình đã lọt vào bẫy. Quả là một cạm bẫy được thiết kế quá tinh vi, không chút sơ hở, bất kể là ai đã lọt vào thì chớ hòng mong thoát ra được.
Trong phòng có bốn cây đèn, loại đèn thủy tinh của Ba Tư cực kỳ quý giá. Vật quý thường là đồ tốt, loại đèn này dù có bị rớt xuống đất từ trên cao, thì chụp đèn cũng không bể.
Lúc này bốn cây đèn đều được đặt trên bàn, lửa cháy đều đều, không gian tĩnh lặng. Đột nhiên, “bụp” một tiếng, cả bốn cái chụp đèn bằng thủy tinh rất tinh xảo đồng loạt vỡ nát, lửa đèn gần sắp tắt nhưng lại không tắt.
Ngay trong khoảnh khắc ấy, Mã Như Long bỗng cảm thấy có một sức ép cực lớn từ bốn phía dồn lại như sóng bủa vây. Nhịp tim y lập tức đập nhanh hơn, hơi thở cơ hồ ngưng lại, máu mũi y ứa ra, cổ họng lại cảm thấy có vị ngọt. Mắt như muốn nổ ra, y gần như ngất đi. Đến lúc cơn chóng mặt qua đi, thì sức ép kỳ dị và đáng sợ kia đã tan biến, nhưng trong phòng thì có thêm bốn người. Người đầu tiên Mã Như Long nhìn thấy là Tuyệt đại sư. Vị Tuyệt đại sư tâm tuyệt, tình tuyệt, truy tận sát tuyệt.
Có Tuyệt đại sư, dĩ nhiên là có Bằng Siêu Phàm. Ngoài ra, còn một vị khổ hành tăng gầy guộc trơ xương, mặt mũi tái đen, mình mặc tăng bào màu xám tuy bị vá không biết bao nhiêu chỗ, nhưng trong tay nhà sư lại cầm một chuỗi thúy ngọc Phật châu trị giá liên thành.
Người còn lại mặc áo bào rộng, bắp chân để trần nhưng bàn chân mang giày vải gai, tóc vấn theo lối đạo sĩ. Toàn thân y da thịt trắng sáng như ngọc, tựa như một tượng người được khắc bằng ngọc, so với khổ hành tăng quả là hai thái cực.
Bốn người đến từ bốn phía, lúc chưa vào thì họ đã dùng chân khí của mấy mươi năm công lực ép vào, khiến Mã Như Long không có đường thoái lui, cũng không có cơ hội xuất thủ. Đối với Mã Như Long, họ rất đề cao cảnh giác vì họ đã cho là chuyện gì y cũng dám làm cả.
Lúc nãy khi sức ép dồn vào, lực từ hai phía đông tây mạnh hơn phía nam bắc rất nhiều.
Khổ hành tăng trấn phía Đông, Ngọc đạo nhân bước vào từ phía tây, nội công của hai người này còn cao hơn cả Tuyệt đại sư danh mãn thiên hạ. Mã Như Long chưa từng gặp hai người này, nhưng y đã đoán ra họ là ai.
Vị khổ hành tăng kia có pháp hiệu là “Thực Khổ”. Ông đã nếm đủ trăm ngàn khổ cực đến tận Thiên Trúc, chẳng phải để thỉnh kinh Phật, song để tìm cho được môn võ công bí ẩn sâu xa của Phật môn do đức Đạt Ma truyền ra khi đi đông du, một thứ mà tất cả mọi người học võ đều mơ tưởng ao ước có được.
Ngọc đạo nhân thì chính là vị Ngọc Lang Quân năm xưa từng một kiếm tung hoành, chấn động giang hồ, và cũng từng là một đối tượng khiến bao thiếu nữ mê say. Nhìn thấy bốn người này, Mã Như Long than thầm, trái tim như rớt xuống tận sâu. Dưới gầm trời này, không ai có thể trốn thoát khỏi tay bốn người này, cũng tuyệt đối chưa có ai có thể cứu được người trong tay họ.
Lửa đèn không bị tắt, bởi vì cả bốn người không muốn tắt đèn. Họ muốn làm gì thì nhất định sẽ làm được, không muốn làm thì nhất định chuyện đó sẽ không xảy ra. Dường như họ không thấy Mã Như Long, trong mắt họ chỉ có Khưu Phụng Thành.
Hơi thở của Khưu Phụng Thành chừng như đã ngưng lại. Cả bình rượu lẫn chén rượu đều đổ xuống đất. Thực Khổ hòa thượng cầm chén lên ngửi thử, đôi mắt sâu hoắm ngời lên ánh sắc lạnh như dao bén. Ông đã đi theo con đường ngày xưa Đường Tam Tạng tây du đến Thiên Trúc thỉnh kinh, con đường này không dễ đi, qua nhiều rừng núi đầm lầy đầy dãy những côn trùng, rắn rết, dã thú, hoa cỏ độc chết người. Ông đã gặp qua hầu hết tất cả những thứ độc trong thiên hạ, về phương diện này kinh nghiệm của ông gần như có thể sánh cùng vua Thần Nông ngày xưa.
Tuyệt đại sư tuy đã xuất gia nhiều năm nhưng tính tình vẫn nóng nảy chẳng chút thay đổi, ông không dằn được đã hỏi :
- Thế nào?
Thực Khổ hòa thượng không đáp, nhắm mắt lại.
Tuyệt đại sư càng sốt ruột, nếu như cả Thực Khổ hòa thượng cũng không dò ra được Khưu Phụng Thành trúng phải loại độc gì, thì trong thiên hạ chẳng còn người nào tìm ra được.
Thực Khổ hòa thượng lên tiếng :
- Trong bình rượu không có độc.
- Thế độc nằm ở đâu?
- Ở trong chén rượu sau cùng mà thí chủ này uống.
- Độc loại gì?
- Một thứ “Thu Trùng tán” do ba loại độc Khiên Cơ, Đoạn Trường, Tiêu Hồn luyện thành.
- Đại sư xác định được à?
- Loại độc tán này không màu nhưng có mùi, rất thích hợp hòa với rượu, nhờ rượu mà chất độc phát tác càng mau chóng.
- Mau cỡ nào?
- Rượu vừa qua khỏi cổ, độc đã phát tác, rượu vào đến ruột thì tiêu mạng.
- Chất độc đã phát tác trong người y.
- Cho nên độc chỉ có trong chén rượu y uống sau cùng.
- Độc này giải được chăng?
- Trúng Thu Trùng tán không hẳn phải chết, chỉ cần giải độc kịp thời thì cứu được.
- Đại sư giải được chăng?
- Lão nạp không giải được, nhưng y làm được.
Thực Khổ hòa thượng quay qua nhìn Ngọc đạo nhân nói :
- Trong thiên hạ không ai nhận biết độc bằng lão nạp, nhưng về giải độc thì lão nạp không bằng thí chủ.
Ngọc đạo nhân hỏi :
- Tại sao đại sư biết mình không bằng tại hạ?
- Bởi do thí chủ là kẻ phụ tâm, còn lão nạp chẳng phải.
Ngọc đạo nhân bật cười, y không khỏi thừa nhận điểm này. Bắt đầu từ năm y mười sáu tuổi, đã có không biết bao nhiêu nữ nhân muốn hạ độc giết chết y, bởi vì y quá đa tình, không chuyên tâm vào một người nào cả. Y rất hấp dẫn, các nữ nhân chẳng ai muốn mất y, nhưng họ đều biết trừ phi hạ độc giết y, bằng không sớm muộn gì y cũng sẽ phụ tình. Con bệnh lâu năm cũng có thể trở thành lương y, một kẻ thường bị hạ độc làm sao mà không biết cách giải độc?
Thực Khổ hòa thượng nói :
- Nếu thí chủ không biết cách giải độc thì đã chết từ lâu rồi.
Tuyệt đại sư hỏi :
- Nếu Ngọc đạo huynh cũng không giải được chất độc của Thu Trùng tán, thì không còn ai giải được sao?
Ngọc đạo nhân đáp :
- Không.
Mã Như Long cuối cùng đã hiểu. Đây không chỉ là một cái bẫy, mà là một sợi dây thừng rất có thể thắt cổ giết chết y. Chất độc nằm trong chén rượu sau cùng, lúc ấy Tiểu Uyển đã chết, đương nhiên cô không phải là kẻ hạ độc. Nếu bảo Khưu Phụng Thành tự hạ độc thì có ai tin được hắn tự giết chết mình bao giờ.
Do đó kẻ hạ độc dĩ nhiên phải là Mã Như Long. Khưu Phụng Thành bị chất độc phát tác hành hạ cũng y hệt như lúc Thẩm Hồng Diệp, Đỗ Thanh Liên trúng độc chết. Bình rượu độc tại Hàn Mai cốc hẳn cũng chứa Thu Trùng tán, do đó kẻ hạ độc lần trước dĩ nhiên cũng là Mã Như Long.
Khưu Phụng Thành đã biết trước nhóm Tuyệt đại sư sắp đến, hắn tính trước thế nào hắn cũng được cứu, nên hắn không sợ hạ độc trong rượu. Tuy hắn đã thừa nhận là hung thủ trước mặt Mã Như Long, nhưng trừ Mã Như Long ra chẳng có ai khác nghe được lời thú nhận của hắn. Bởi thế cũng sẽ chẳng ai tin rằng hắn dám tự nhận tội trước mặt người khác, dù Mã Như Long có nói ra cũng không ai tin.
Nếu Khưu Phụng Thành bị Mã Như Long hạ độc chết, thì Tiểu Uyển đương nhiên cũng bị Mã Như Long siết cổ chết. Sẽ chẳng ai xét kỹ tại sao y phải giết chết Tiểu Uyển, một hung thủ như y thì có chuyện gì mà chẳng dám làm?
Kẻ giết người phải đền mạng. Mã Như Long chắc chắn sắp bị xử tử hình.