Tôi thấy âm đang ngắm bóng mình trong một ô cửa sổ ở sảnh, một ngón tay chọc ngoáy trong miệng. Tôi nghĩ anh đang cố sửa lại mặt mình.
“Chào,” tôi nói, đứng cách một quãng an toàn.
Anh lườm tôi một cái, rồi quay lại nhìn vào cửa sổ. Anh ấn mạnh vào hàm trên, và xương gò má của anh được đẩy về chỗ cũ đánh rắc một cái. Anh quay sang tôi mỉm cười. “Trông… thế nào?”
Tôi phẩy phẩy tay vẻ không chắc chắn. Một nửa mặt anh giờ trông khá bình thường, nhưng nửa kia vẫn còn hơi… lõm xuống.
Anh thở dài và lại nhìn vào cửa sổ. “Tin… xấu… với các quý cô.”
Tôi cười. Mặc dù chúng tôi rất khác nhau, tôi vẫn phải phục âm một vài điểm. Anh là Xác Sống duy nhất tôi biết còn giữu lại được chút tính hài hước rơi rớt. Một điều đáng ghi nhận nữa… bốn âm tiết liền nhau không ngừng. Anh vừa mới đạt được kỷ lục cũ của tôi.
“Xin lỗi,” tôi bảo anh. “Vì… chuyện đó.”
Anh không đáp lại.
“Nói chuyện… một phút nhé?”
Anh chần chừ, rồi lại nhún vai. Anh theo tôi đến dãy ghế gần nhất. Chúng tôi ngồi xuống trong một quán Starbucks tối mò, đã thôi hoạt động từ lâu. Hai ly espresso mốc meo nằm trước mặt chúng tôi, bị bỏ lại từ bao giờ bởi hai người bạn nào đó, hay hai người đồng nghiệp, hay hai kẻ mới gặp nhau trong sân bay và làm thân nhờ cùng có chung sở thích với não người.
“Rất… xin lỗi,” tôi nói. “Dạo này. Dễ… cáu.”
Âm cau mày. “Cậu… làm sao… thế?”
“Không… biết.”
“Đem… cô Người Sống… về?”
“Ừ.”
“Cậu… điên à?”
“Chắc vậy.”
“Nó… như thế nào?”
“Cái gì?”
“Ngủ với… Người Sống.”
Tôi ném cho anh một cái nhìn cảnh cáo.
“Cô ấy… hot đấy. Tôi thì…”
“Im đi.”
Anh cười. “Đùa… cậu thôi.”
“Không… phải thế. Không… như thế.”
“Không thì… là cái gì?”
Tôi ngập ngừng không biết trả lời ra sao. “Hơn thế.”
Mặt anh trở nên nghiêm trang đến phát sợ. “Cái gì. Tình yêu à?”
Tôi nghĩ về điều này, và tôi không tìm được câu trả lời nào ngoài một cái nhún vai đơn giản. Vì vậy tôi nhún vai, cố không mỉm cười.
Âm ngửa đầu về phía sau và phát ra một tiếng cười thành thật nhất mà anh có thể. Anh đấm mạnh vai tôi. “Chú nhóc… của tôi! Đang… yêu đấy! Ha!”
“Tôi sẽ đi… với cô ấy,” tôi bảo anh.
“Đi đâu?”
“Đưa cô ấy… về nhà.”
“Sân vận động?”
Tôi gật đầu. “Bảo vệ… cô ấy.”
Âm ngẫm nghĩ về điều này, vẻ lo lắng ánh lên trên khuôn mặt thâm tím của anh trong khi anh quan sát tôi.
“Tôi… biết,” tôi thở dài.
Âm khoanh tay trước ngực. “Cậu… làm sao… thế?” anh hỏi lại tôi.
Và một lần nữa, tôi lại không biết trả lời như thế nào ngoài nhún vai.
“Cậu… ổn chứ?”
“Đang thay đổi.”
Anh boăn khoăn gật đầu, và cái nhìn tò mò của anh khiến tôi lúng túng. Tôi không quen nói những câu chuyện sâu sắc với M. Hay thực ra là với bất kỳ Người Chết nào khác. Tôi xoay xoay cốc cà phê trong tay, chăm chú ngắm nghía những cục mốc xanh trong lòng cốc.
“Khi nào… hiểu ra…” mãi rồi âm mới lên tiếng, với giọng chân thành mà tôi chưa bao giờ thấy anh dùng đến, “nói cho… tôi biết. Nói cho… chúng tôi biết.”
Tôi đợi anh pha trò, biến nó thành một câu nói đùa, nhưng anh không làm thế. Anh nói thực lòng.
“Được,” tôi đáp. Tôi vỗ vào anh rồi đứng dậy. Khi tôi quay đi, anh nhìn tôi cũng với cái vẻ kỳ lạ mà tôi đã thấy trên mặt những Người Chết khác. Cái vẻ pha trộn giữa bối rối, sợ hãi, và một thoáng chờ đợi.
CẢNH TƯỢNG lúc tôi và Julie ra khỏi sân bay gần giống như một đám rước dâu hay dãy xếp hàng ở một bữa ăn tự chọn. Người Chết đứng thành hàng dọc các hành lang để nhìn chúng tôi đi qua. Tất cả mọi người đều có mặt. Họ có vẻ bị kích động, bồn chồn không yên, và rõ ràng là chỉ muốn được xông vào ngấu nghiến Julie, nhưng họ không nhúc nhích hay phát ra một tiếng động nào. Mặc kệ lời phản đối gay gắt của Julie, tôi đã nhờ âm dẫn chúng tôi ra. Anh đi theo sau chúng tôi vài bước, dáng người khổng lồ đầy cảnh giác, mắt không rời đám đông như một nhân viên Mật vụ.
Sự im lặng không bình thường của một căn phòng đầy những người không còn thở nữa thật là quái gở.
Tôi thề là tôi gần như nghe được tiếng tim Julie đập thình thịch. Nàng cố bước thật bình tĩnh và tỏ ra phớt lạnh, nhưng cặp mắt láo liên đã phản lại nàng.
“Anh có chắc về chuyện này không đấy?” nàng thì thầm.
“Có.”
“Phải có đến… hàng trăm người bọn họ đấy.”
“Bảo vệ cô.”
“Phải rồi, phải rồi, bảo vệ, làm sao mà tôi quên được.” Giọng nàng nhỏ lại. “Nói thật nhé, R… đúng là tôi đã thấy anh hạ gục mấy người, nhưng anh cũng biết thừa là nếu giờ có ai bỗng dưng reo chuông báo giờ ăn thì tôi sẽ biến thành sushi ngay tức khắc cho xem.”
“Không… đâu,” tôi bảo nàng một cách tự tin đến không ngờ. “Chúng ta là… cái mới. Chưa ai… thấy bao giờ. Nhìn họ xem.”
Nàng ngó kĩ hơn những khuôn mặt xung quanh, và tôi hi vọng nàng cũng thấy được điều tôi nhìn thấy. Những phản ứng kì lạ họ dành cho chúng tôi, dành cho sự khác biệt mà chúng tôi là đại diện. Tôi biết họ sẽ để cho chúng tôi qua, nhưng Julie có vẻ không chắc chắn. hơi thở nàng trở nên khò khè. Nàng loay hoay lục trong túi ra một lọ thuốc hít, hít một hơi rồi nín thở, mắt vẫn không ngừng đảo quanh.
“Cô sẽ ổn thôi” âm nói bằng giọng trầm đục.
Nàng thở hắt ra và quay ngoắt lại trừng mắt nhìn anh. “Ai hỏi mày, đồ chó bị thịt? Lẽ ra hôm qua tao phải cắt mày làm đôi mới phải.”
Âm bật cười và nhướng mày với tôi. “Cô nàng mạnh mẽ đấy… ‘R’ ạ.”
Chúng tôi tới được cổng. Đi mà không bị ai quấy rầy. Khi bước ra ngoài trời, tôi cảm thấy một nỗi lo lắng cồn cào trào lên trong bụng. Mới đầu tôi tưởng đó chỉ là nỗi sợ thường trực của tôi đối với bầu trời rộng mở, giờ đang trùm lên chúng tôi với những màu xám và tím như một vết bầm, cuồn cuộn những đám mây dông cao tít. Nhưng không phải là vì bầu trời. Tôi nghe thấy âm thanh ấy. Cái tiếng rung trầm trầm, như những tên điên giọng nam trung đang ngâm nga một khúc đồng dao. Tôi không biết có phải vì tôi đã quên nghe nó hơn hay vì âm thanh ấy đã to lên thật, nhưng tôi đã nghe được nó từ trước khi đám Xương Khô ấy xuất hiện.
“Chết tiệt, trời ơi, chết tiệt” Julie thì thào thốt lên.
Chúng tiến đến cả từ hai góc dành cho xe thả khách và đứng thành một hàng trước mặt chúng tôi. Tôi chưa bao giờ thấy nhiều bộ xương tụ tập cùng một chỗ như thế. Tôi thậm chí còn không biết là bọn chúng đông đến vậy, ít nhất là trong sân bay này.
“Rắc rối rồi,” âm nói. “Trông chúng… cáu đấy.”
Anh nói đúng. Trong dáng vẻ của chúng có gì đó khang khác. Chúng trông cứng nhắc hơn, nếu điều đó là có thể. Hôm qua chúng là một bồi thẩm đoàn bước ra để xem xét vụ việc của chúng tôi. Hôm nay chúng là quan tòa tuyên án. Hoặc cũng có thể là những tên đao phủ thi hành án.
“Đi đây!” tôi hét lên với chúng. “Đưa cô ấy về! Để họ sẽ không… đến đây nữa.”
Những bộ xương không cử động hay đáp lại. Từng khúc xương của chúng vẫn ngân vang nốt nhạc xa lạ chua chát.
“Các người…muốn gì?” tôi hỏi.
Tất cả những bộ xương ở hàng đầu đồng loạt giơ tay lên chỉ vào Julie. Tôi chợt nhận ra rằng điều này không bình thường đến thế nào, rằng bản chất những sinh vật này khác chúng tôi đến thế nào. Người Chết chỉ trôi nổi trên một mặt biển cán nản mờ sương. Họ không làm gì một cách đồng loạt cả.
“Đưa cô ấy về!” tôi hét to hơn, lúng túng không biết phải nói thế nào cho ra lẽ. “Nếu… giết cô ấy… họ sẽ đến đây. Giết… chúng ta!”
Chúng không hề ngần ngừ, không mất lấy một giây nào để suy nghĩ về bất kì điều gì tôi vừa nói, chúng đã định sẵn một loạt câu trả lời và đưa ra câu trả lời ấy ngay lập tức. Đồng loạt, như những thầy tu quỷ sứ tụng bản kinh chiều của Địa Ngục, chúng phát ra thứ âm thanh nọ từ lồng ngực. Chúng là một đám đông kiêu hãnh đưa ra lời kết tội không thể bác bỏ, và mặc dù chúng không nói ra một từ nào, tôi hiểu rõ chúng muôn nói gì:
Không cần nói.
Không cần nghe.
Đã biết tất cả.
Cô ta không được đi.
Chúng ta sẽ giết cô ta.
Mọi việc phải như vậy.
Đã luôn như vậy.
Sẽ luôn như vậy.
Tôi nhìn Julie. Nàng run lẩy bẩy. Tôi nắm lấy tay nàng và nhìn M. Anh gật đầu.
Với hơi ấm từ mạch đập trong tay Julie truyền qua những ngón tay giá băng của mình, tôi chạy.
Chúng tôi chạy về phía trái, hòng lần qua ngách phi đội Xương Khô. Khi chúng lách cách xông tới để chắn đường tôi, âm lao ra trước mặt tôi, đập cả thân hình đồ sộ của anh vào hàng gần nhất, khiến chúng ngã nhào xuống thành một đống tay chân và xương sườn lẫn lộn. Một tiếng còi chói tai vô hình của chúng xé toạc không gian.
“Anh đang làm cái gì thế?” Julie thở hổn hển trong khi tôi đang kéo nàng theo. Tôi đang chạy còn nhanh hơn cả nàng nữa.
“Bảo vệ cô an …”
“Anh đừng có hòng nghĩ đến chuyện nói ‘bảo vệ cô an toàn’ nữa!” nàng hét “Đây là tình thế kém an toàn nhất mà tôi từng…”
Nàng hét lên khi một bàn tay không da túm chặt vai nàng. Sinh vật đó há hoác miệng để cắn ngập hàm răng nhọn vào cổ nàng, nhưng tôi túm lấy xương sống nó kéo giật ra. Tôi quăng nó xuống sàn bê tông, nhưng chẳng ích gì, những khúc xương không hề gãy ra. Tựa hồ bộ xương ấy đang trôi nổi thách thức lại trọng lực, lồng ngực của nó hầu như chưa chạm đất thì đã bật dậy và lao vào mặt tôi, chẳng khác nào một con côn trùng gớm guốc, không thể bị tiêu diệt.
“M!” tôi cố kêu lên khi nó bóp cổ tôi. “Cứu”
Âm cũng đang bận lôi những bộ xương ra khỏi tay, chân và lưng mình, nhưng nhờ vóc dáng to lớn, có vẻ anh có thể đọ lại được chúng. Trong khi tôi đang vật lộn không để những ngón tay của bộ xương nọ móc mắt mình thì âm tiến đến, kéo bộ xương đó ra khỏi tôi và ném nó về phía 3 bộ xương khác đang định tấn công anh từ phía sau.
“Đi đi!” anh quát và đẩy tôi tới trước, rồi quay lại đối mặt với những kẻ đang đuổi theo chúng tôi. Tôi nắm tay Julie lao về phía đích đến của mình. Cuối cùng thì nàng cũng nhìn thấy nó. Chiếc Mercedes. “Ồ” nàng hổn hển. “Được rồi!”
Chúng tôi nhảy vào xe và tôi nổ máy. “Ôi Mercey…” Julie nói, vuốt ve bảng đồng hồ như vuốt thú cưng. “Thật vui vì lại được gặp mày.” Tôi vào số xe rồi thả tay côn cho chiếc xe phóng về phía trước. Không hiểu sao bây giờ tôi lại thấy thật dễ dàng.
Âm đã thôi không đánh nhau nữa và giờ chỉ lo chạy thoát thân, một đám đông những bộ xương đuổi theo sau. Hàng trăm Xác Sống đứng ngoài lối vào cổng Đi, im lặng theo dõi mọi việc. Họ đang nghĩ gì vậy? Liệu họ có đang nghĩ hay không? Liệu họ có thể phản ứng với việc đang diễn ra trước mắt học hay không? Với sự hỗn loạn bất ngờ nổ ra giữa cuộc sống đã được lập trình sẵn của họ?
Âm chạy sang bên kia phố, ngay trước đường thoát của chúng tôi, và tôi nhấn ga. Âm lao qua trước mũi xe, rồi đám xương khô lao qua trước mũi xe, thế rồi công trình kĩ thuật của Đức nặng gần hai nghìn cân lao thẳng vào thân xác khô giòn, cứng đanh của chúng. Chúng vỡ vụn. Các mẩu xương bay khắp nơi. Hai khúc xương đùi, ba bàn tay, và một nửa hộp sọ rơi vào trong xe, vẫn không ngừng rung lên và co giật, phát ra những tiếng khùng khục khô khốc cùng tiếng vo vo như của sâu bọ. Julie vứt chúng ra ngoài rồi cuống cuồng lau tay vào áo, vừa run rẩy vì ghê sợ vừa rên lên, “Ôi chúa ơi ôi chúa ơi”
Nhưng chúng tôi đã thoát. Julie đã thoát, chúng tôi rồ máy phóng qua cửa Đến, lao lên xa lộ, và tiến vào thế giới rộng lớn trong khi đám mây dông cuồn cuộn trên đầu. Tôi nhìn Julie. Nàng nhìn tôi. Cả hai chúng tôi cùng mỉm cười khi những giọt mưa đầu tiên rơi xuống.
MƯỜI PHÚT SAU, cơn dông mở màn bằng trận mưa sầm sập, và cả hai chúng tôi đều ướt sũng. Chiếc xe mui trần quả là lựa chọn tồi tệ trong một ngày như thế này. Chúng tôi không ai biết cách kéo mui xe lên, vì vậy đành lặng lẽ lái xe trong khi màn mưa xối xả đổ xuống đầu. Nhưng chúng tôi cũng không kêu ca. Chúng tôi cố tỏ ra lạc quan.
“Anh có biết mình đang đi đâu không?” khoảng hai mươi phút sau Julie hỏi. Tóc nàng đã dán chặt vào mặt.
“Có” tôi đáp, đưa mắt nhìn con đường ở phía chân trời xám sẫm.
“Anh có chắc không đấy? Vì tôi thì chịu thôi.”
“Rất …. chắc”
Tôi không muốn phải giải thích vì sao tôi rành rọt đường đi giữa thành phố và sân bay đến thế. Đó là đường đi săn của chúng tôi. Phải, nàng biết tôi là cái gì và tôi làm gì, nhưng tôi có nhắc cho nàng nhớ không? Chúng tôi có thể lái xe một cách thoải mái và quên đi một số chuyện được không? Trong trí tưởng tượng đầy nắng ấm của tôi thì chúng tôi không phải là một cô thiếu nữ và một Xác Sống lái xe trong cơn mưa. Chúng tôi là Frank và Ava đang du ngoạn trên những con đường thôn quê giữa hai hàng cây trong lúc một dàn giao hưởng cũ kỹ trên đĩa than êm ái đệm nhạc cho chúng tôi.
“Có lẽ chúng ta nên dừng lại hỏi đường.”
Tôi nhìn nàng. Tôi nhìn những khu nhà đổ nát quanh chúng tôi, gần như đen sì trong bóng chiều chạng vạng.
“Đùa thôi,” nàng nói, nhìn ra phía trước bằng đôi mắt khuất dưới những món tóc ướt dính bết. Nàng ngả người lên ghế và bắt tay ra sau đầu. “Khi nào anh cần nghỉ thì cho tôi biết nhé. Anh lái xe như bà lão ấy.”
* * *