Nàng thừa nhận người này thân hình cân đối, dung mạo anh tuấn, mắt sâu mà sáng, đôi môi căng đầy, thần thái nhàn tản, lúc nhìn người thường híp mắt, lộ ra nét cười nhàn nhạt khó đoán.
Trong việc huấn luyện chuyên gia về đồ cổ có huấn luyện về mắt nhìn, bộ trường bào lụa thêu hoa mây ngầm, chiếc áo trong màu bích bằng tơ tằm đó giá trị tuyệt không rẻ. Còn chưa nói đai lưng sừng tê nạm ngọc lam, buộc thêm ngọc ngũ sắc, bên dưới thắt túi thơm tử la, bên cạnh là một đôi ngọc bội song ngư, lúc đi phát ra tiếng tinh tang, hương thơm nức mũi.
Sau khi chào hỏi, Tô Phong Nghi và Thẩm Khinh Thiền ai nấy tự về phòng thu dọn đồ đạc của mình. Qua một hồi, Tô Phong Nghi chợt nghe có người gõ cửa phòng.
Mở cửa nhìn, thấy Đường Hành nở nụ cười đứng trước cửa, nói: “Thứ cho tôi mạo muội, muốn hỏi thăm cô nương một việc, được chăng?”.
“Việc gì thế? Nói đi!”, vừa nghĩ hắn là bạn tốt thuở bé của Tử Hân, Tô Phong Nghi đã chẳng chút do dự mà ưa thích hắn.
“Tôi xem mái tóc của cô nương bóng mượt đen nháy, có lẽ phải dài ba thước ba, phải không?”
“Chưa từng đo thử, nhưng mà sao huynh biết?”, nàng bật cười.
Câu tiếp theo lại kiến nàng cười không nổi.
“Có bán không?”
Nàng nghi hoặc nhìn hắn: “Bán cái gì?”.
“Tóc của cô... Không cần lo lắng, tôi không phải muốn toàn bộ, chỉ cần một thước là đủ rồi.”
Nàng bặm môi nghĩ một lát, hỏi: “Huynh nguyện ý trả bao nhiêu lượng?”.
“Giá ngoài chợ là mười hai lượng một thước, tôi đồng ý trả gấp đôi.”
“Tóc tai da thịt trên thân thể là phụ mẫu ban cho”, Tô Phong Nghi nói: “Năm mươi lượng tôi mới khiến chúng tổn thương”.
“Thành giao”, Đường Hành móc ngân phiếu trong người ra đưa cho Tô Phong Nghi.
Tô Phong Nghi khép cửa lại, ước lượng độ dài, lấy kéo cắt tóc, lấy đai lưng buộc lại, bọc vào vải hoa, đưa cho Đường Hành: “Tôi đã cắt thêm một tấc cho huynh, hy vọng huynh hiểu được, trong thời gian ngắn không thể cung cấp hàng được nữa”.
Đường Hành nói một câu cám ơn rồi cất vào người, lại thấy tóc sợi dài sợi ngắn, lởm chởm không đều, không nhịn được nói: “Cô nương cắt không ổn, có chút hỗn loạn. Có cần tôi giúp chỉnh lại một chút không?”.
“Huynh làm được sao?”
“Làm tốt là đằng khác.”
Nàng đưa kéo cho hắn, Đường Hành cẩn thận sửa sang chỉnh lý lại, hết một tuần trà mới nói: “Soi gương xem, có phải đẹp hơn nhiều rồi không?”.
Tô Phong Nghi nhìn trái ngó phải: “Đúng là đẹp hơn nhiều rồi! Đa tạ!”.
Đường Hành quét mắt qua bàn trang điểm, lại hỏi: “Cô thích dùng kem ‘Ngọc Nữ Đào Hoa’ sao?”.
Tô Phong Nghi nhíu mày, rốt cuộc cũng cảm thấy người này có gì đó không ổn: “Huynh cũng biết thứ ấy?”.
“Thứ này quá đắt. Kỳ thực ‘Xạ Hương Thập Hòa phấn’ rất khá, giá lại chỉ bằng phân nửa, hiệu quả không khác nhau là bao”, Đường Hành nói.
“Nhãn hiệu này sao tôi chưa từng nghe qua?”
“Đây là hàng mới Tầm Phương các mới xuất ra tháng trước. Tên nghe có vẻ bình thường, hàng bên trong thì lại cực tốt. Ngọc trai, chu sa, bột vỏ sò, bột khoáng, bột tím, xạ hương thì đúng là tầm thường, hiếm có là cách làm cầu kỳ tinh tế. Màu phấn ấy trông tựa sắc hoa đào nhàn nhạt, mềm mại mượt mà, thoa lên không thấy vết, chỉ cần dùng nước là có thể hoàn toàn rửa sạch. Nếu là người nhan sắc tầm thường, đi mua kem Ngọc Nữ Đào Hoa, tự nhiên sẽ làm tăng không ít phần nhan sắc. Nhưng mà cô nương dung mạo tựa thiên tiên, hoàn toàn không cần lãng phí tiền như thế.”
Tô Phong Nghi nghe mà không nhịn được há hốc mồm, lùi lại một bước ngắm nghía Đường Hành thật kỹ: “Loại phấn ấy huynh cũng dùng?”.
Đường Hành vẻ mặt cổ quái cười với nàng, mãi không đáp lời.
“Huynh cần tóc của tôi làm gì?”
“Làm gối đầu”, Đường Hành nghĩ ngợi một chút, rồi lại thêm một câu: “Tránh tà”.
Tô Phong Nghi đột nhiên vớ lấy cái chổi phang mạnh xuống đầu Đường Hành.
“Úi! Nói là được rồi, sao tự dưng lại động thủ vậy?”, Đường Hành che đầu, yếu ớt hô lên.
“Đánh huynh đấy, làm sao?”, nàng chống nạnh, những suy nghĩ trong đầu đã đảo được cả nghìn vòng, hung ác nhìn Đường Hành: “Thành thật khai ra, huynh thế lại quen Tử Hân? Có phải huynh luôn bám lấy chàng không?”.
“Tôi là một người không thể tốt hơn được nữa đấy”, Đường Hành cười khẩn khoản: “Đối với nữ nhân, trước giờ tôi luôn có ba tín nhiệm, cô nương có muốn biết không?”.
Đường Hành còn chưa nói, Tô Phong Nghi đã trở nên nghiêm túc: “Đương nhiên muốn rồi!”.
“Một lòng một dạ học tập nữ nhân, vui vẻ nhiệt tình phục vụ nữ nhân, kiên quyết không chọc giận nữ nhân.”
...
So với Thanh Nguyên khách điếm hào hoa khí phái thì Dụ Long khách điếm chỉ có thể xem như một khách điếm hạng ba cung cấp chỗ nghỉ chân cho người đi đường mà thôi. Đương nhiên, loại tiểu điếm này là nơi những kẻ bần cùng trong giang hồ thích tới nhất. Cung cấp ba bữa, bao nước nóng với thức ăn cho ngựa, phòng tuy nhỏ nhưng giá cả phải chăng, chăn đệm không quá cũ, cứ cách một ngày lại được đem đi thay giặt.
Để tiết kiệm diện tích, phòng bếp liền ngay với sảnh ăn, ở giữa chỉ có tấm rèm khó phân biệt màu sắc. Cứ tới giờ ăn cơm, mùi dầu với khói bếp nghi ngút, trong không khí có hạt mùi tiêu cay sặc mũi.
Giả như một ngày mà anh có tới phân nửa thời gian ngồi trong sảnh ăn, vậy thì chuyện tắm giặt gội đầu trở thành một chuyện phiền phức rồi.
Cho nên, cứ vào thời gian này, Tô Phong Nghi tuyệt đối không nhìn thấy Tử Hân. Chỉ có lúc phòng bếp nhàn tản chàng mới xuống ngồi một lúc, sau đó vào bếp gọi mấy cái màn thầu, hai đĩa thức ăn, tự mình đem đến phòng của Quách Khuynh Quỳ.
“Xương ngực của A Tuấn bị thương, cần phải tĩnh dưỡng tuyệt đối”, lúc xuống lầu, Đường Hành giải thích với Tô Phong Nghi.
Tô Phong Nghi lơ đãng đảo mắt nhìn một lượt sảnh ăn, ánh mắt đăm đăm dừng ở vị trí Tử Hân thích ngồi.
Hoàng hôn đã tận, màn đêm vừa buông.
Đại đa số khách trọ không ăn uống trong sảnh ăn mà sẽ ra ngoài tìm một sạp nhỏ rẻ tiền nơi đầu phố, cho nên khách ăn trong sảnh thưa thớt, việc buôn bán không được tốt lắm.
Vào tình huống ấy, lão bản sẽ sai người dập đi phân nửa số đèn dầu ở bốn vách, trong sảnh tranh tối tranh sáng, một mảng mù mờ.
Đang bước lên mấy bậc thang cuối, Đường Hành bỗng dừng phắt lại, Tô Phong Nghi cũng dừng theo.
Nàng thấy Thẩm Khinh Thiền đứng bất động trên bàn ăn, tay lăm lăm thanh kiếm.
Nhìn theo hướng ánh mắt nàng, Tô Phong Nghi phát hiện Quách Khuynh Quỳ đang ngồi ở một góc, trong tay là một chén rượu, trên mặt tỏ ra cực kỳ cứng cỏi.
Ánh mắt họ chạm nhau trong không trung cũng đủ khiến mấy cái bàn trống giữa họ phải rung lên rồi.
Thoắt cái, không khí tựa hồ biến thành một thứ dịch đặc, đặc tới nỗi mỗi người đều có thể nghe thấy tiếng hít thở của bản thân mình.
Tô Phong Nghi quay sang Đường Hành, nhận thấy da cổ hắn căng ra, ngón tay bất giác đưa về phía cán đao sau lưng.
Thậm chí nàng còn có thể nghe thấy các đốt ngón tay hắn siết cán đao kêu “lách cách”.
Tới tận bây giờ nàng mới chợt nghĩ tới Thẩm Khinh Thiền họ Thẩm, thì ra nàng ấy là người của Thẩm gia!
Cả buổi chiều, hai cô gái hi hi ha ha, trò chuyện với nhau lâu như thế, thủ thỉ cho nhau cả đống bí mật khuê phòng, thứ duy nhất không nói tới chính là gia thế của nhau. Tuy Tô Phong Nghi biết khá nhiều chuyện trên giang hồ, nhưng xét cho cùng đó chỉ là một loại hiếu kỳ, không dẫn tới chút hứng thú tìm hiểu nào. Nàng hài lòng với việc biết một ít chuyện cũ, không quan tâm lắm tới tình tiết.
Nếu như Thẩm Khinh Thiền đã là người của Thẩm gia, vậy thì bây giờ sẽ là thời cơ tốt nhất để giết Quách Khuynh Quỳ.
Kế đó, cửa phòng trên bất chợt “cọt kẹt” mở ra, Tử Hân chẫm rãi bước vào phòng, nhìn thấy tình hình dưới lầu, hơi sững rồi lại tiếp tục đi xuống.
Tô Phong Nghi nghe ra bước chân của nàng cực kỳ trầm trọng và cũng không thiếu phần cảnh giác. Chỉ có những lúc tâm sự trùng trùng chàng mới bước đi mạnh như thế.
Theo bậc thang đi xuống, nàng thấy chàng sắp đi vào sảnh ăn thì bỗng dừng phắt lại, quay đầu sang trao đổi một ánh mắt chớp nhoáng với Đường Hành.
Hai người lập tức như hai quân cờ di động tới vị trí của mình.
Chỉ cần Thẩm Khinh Thiền động thủ, bọn họ sẽ nhanh chóng xông tới đánh ngã nàng.
Đột nhiên có tiếng cười nhẹ, Thẩm Khinh Thiền nói: “Quách Khuynh Quỳ, thì ra ngươi cũng có trợ thủ”.
Lời chưa dứt, Tô Phong Nghi bỗng nhảy tới, chân giẫm loạn trên sàn nhà, vừa giẫm vừa kêu: “Giẫm chết ngươi! Giẫm chết ngươi! Ta giẫm chết ngươi! Xem ngươi còn trốn đi đằng nào!”.
Bốn người quay sang nhìn nàng kỳ dị.
“Sao thế?”, Thẩm Khinh Thiền hỏi.
“Trên sàn có một con gián”, không biết vì sao sắc mặt của Tô Phong Nghi tái đi: “Tử Hân huynh chớ có qua đây”.
Ba người kia lại ngước mắt quay sang nhìn Tử Hân.
Tử Hân chớp chớp mắt, mặt không biến sắc: “Chư vị nhìn ta làm gì? Lẽ nào ta lại sợ một con gián nhỏ?”.
Quách Khuynh Quỳ và Đường Hành nói: “Trước đây ngươi luôn sợ”.
Sắc mặt Tử Hân nóng lên: “Mười mấy năm rồi, con người ai cũng phải lớn lên”.
Quách Khuynh Quỳ thở phào một tiếng: “Nói thế tức là xem như hiện giờ ngươi không còn sợ nữa rồi!”.
Tử Hân lùi về sau một bước, tay rụt vào ống tay áo: “Ta vẫn sợ”.
Sau đó hai người cùng nhìn về phía Đường Hành.
Đường Hành thở dài một tiếng: “Mười mấy năm qua rồi, lẽ nào cái kẻ phải quét dọn thi thể ấy vẫn là ta?”.
“Đương nhiên.”
Hắn ủ rũ đi tới cạnh Tô Phong Nghi, nói: “Tô cô nương, làm phiền tránh ra một chút”.
Tô Phong Nghi lắc đầu, cắn chặt môi, khuôn mặt lộ ra vẻ sợ hãi: “Tôi không dám cử động”.
Đường Hành ngẩn người: “Tại sao?”.
“Tôi sợ.”
“Cô cũng sợ gián?”
Tô Phong Nghi lắc đầu, vẻ mặt như sắp khóc đến nơi.
“Cô chỉ cần chích chân, lùi lại một bước là tôi có thể lấy con gián đó”, Đường Hành nhẹ giọng khuyên nhủ.
“Tôi không sợ gián, tôi... tôi sợ rết”, giọng nàng run rẩy cực độ: “Vừa rồi tôi giẫm lên con gián, lúc giẫm mới phát hiện, cạnh con gián còn có một con rết dài ba tấc, toàn thân đỏ rực, chắc chắn... chắc chắn là cực độc”.
Tử Hân nghe thế bèn chạy tới, đưa trượng hơi vén váy nàng lên, cúi đầu xuống nhìn: “Rết? Rết ở đâu? Sao ta không nhìn thấy?”.
Tô Phong Nghi kêu ré lên: “Sao huynh lại động vào váy muội? Vừa rồi nó vẫn còn ngoan ngoãn nằm dưới đất, bây giờ không thấy nữa rồi!”, nói rồi nàng túm lấy váy, lùi sang bên một bước.
Quả nhiên dưới đất chỉ còn một con gián bị giẫm cho tan nát, còn con rết nọ không cánh mà bay.
Nàng sợ hãi nhìn Tử Hân, thấy đôi mắt chàng nhìn chằm chằm vào con gián, mặt mày tái xanh, hơi thở đứt quãng, tay cầm trượng run rẩy. Quách Khuynh Quỳ nhanh tay nhanh mắt kéo chàng ra, tránh xa qua một phía.
Tuy kịp thời uống thuốc, môi Tử Hân vẫn tái nhợt đáng sợ.
Thẩm Khinh Thiền kéo Tô Phong Nghi, nói: “Đi theo tỷ”.
“Đi cái gì mà đi! Con rết đang trốn trong váy của muội!”
“Loài vật này thích tĩnh sợ động, muội càng chạy, nó càng sợ không dám thò đầu ra.”
“Thật sao”, Tô Phong Nghi bán tín bán nghi, theo Thẩm Khinh Thiền chạy ra ngoài cửa, vòng qua sơn đạo, xuyên qua rừng cây, tới bên một hồ nước.
“Giờ trời tối rồi, bốn phía không có ai, cởi y phục ra, nhảy xuống hồ!”
“Tỷ... tỷ điên rồi! Nhỡ ra có người thì làm thế nào?”, Tô Phong Nghi nhìn đông ngó tây, nhỏ giọng nói.
“Đường Hành theo phía sau, hắn sẽ giúp chúng ta trông chừng.”
“Đường Hành? Đường Hành chính là nam nhân!”
“Được rồi! Bệnh của hắn ai mà chẳng biết, coi hắn là nữ nhân cũng chẳng có gì là không được”, Thẩm Khinh Thiền vừa cười vừa cởi bỏ y phục.
Tô Phong Nghi đỏ mặt nhìn nàng, hỏi: “Sao tỷ cũng cởi y phục? Trên người tỷ đâu có rết!”.
Thẩm Khinh Thiền nói: “Sợ muội nhát gan, cởi trước cho muội xem”, nói xong, y phục đã cởi hết, vù một cái nàng nhảy ào xuống nước.
Không biết phải làm sao, Tô Phong Nghi chỉ đành quăng quần áo gọn sang một bên, nhảy theo xuống.
Mới đầu mùa hè, nước hồ lạnh giá.
Hai người bơi đến giữa hồ, mới trông thấy Đường Hành đứng đằng xa sau rừng cây, lớn tiếng goi: “Tô cô nương! Cô ở đâu? Tử Hân bảo tôi đưa thuốc cho cô”.
“Tôi ở dưới hồ!”
“Rết chưa cắn cô chứ?”, Đường Hành đi tới mép hồ, thấy một đống y phục nữ nhân ném trên mặt đất đầy rêu, vội vàng ôm vào lòng.
“Chưa... có điều, huynh có thể giúp tôi giũ từng cái một không? Tôi sợ nó vẫn nấp ở đó...”, giọng Tô Phong Nghi xa xa vọng tới.
Đường Hành mở cờ trong bụng, vội nói: “Được được”.
Nói xong, lấy từng thứ, từng thứ ra cẩn thận quan sát, quả nhiên thấy một con rết đỏ chói ẩn trong váy, vội một đao đập chết, sau đó đem váy áo gấp chỉnh tề, nâng trong tay: “Tìm được con rết rồi! Vừa đập chết nó xong, cô yên tâm đi”.
“Quay lưng lại, ném y phục qua đây, bọn tôi sắp lên rồi!”, Thẩm Khinh Thiền nói.
Đường Hành quay đi, cởi áo choàng của mình ra, trải xuống đất, đặt y phục của hai người ngay ngắn trên đó rồi bước đi mười bước, tránh xa chỗ ấy.
Thẩm Khinh Thiền vừa mặc y phục vừa cười, thì thầm: “Người này tiếng tăm không được tốt nhưng cũng rất có quy củ”.
Tô Phong Nghi cười khẽ: “Muội thấy hắn không phải kẻ xấu”.
“Hình như hắn rất sẵn lòng dốc sức cho nữ nhân...”
“Đây chính là chỗ hiếm thấy của hắn.”
“Hay là chúng ta thử hắn, xem xem rốt cuộc hắn sẵn lòng dốc sức bao nhiêu?”, Thẩm Khinh Thiền ngồi trong lùm cỏ, mặt lộ ý trêu chọc: “Muội từng nhìn thân thể trần truồng của nam nhân chưa?”.
Tô Phong Nghi cắn môi, xấu hổ lắc đầu.
“Đối với nam nhân, nữ nhân nhất định phải nhìn nhiều một chút mới tốt.”
“Oa!”
“Đường Hành, qua đây một chút.”
Đường Hành quay lại, đi tới trước mặt hai người, mỉm cười: “Thẩm cô nương có gì sai bảo?”.
“Cởi đồ ra, để Tô Phong Nghi nhìn ngươi... muội ấy nói muội ấy chưa từng nhìn thấy nam nhân không mặc y phục.”
Đường Hành lắc đầu như trống lắc: “Ta không cởi”.
“Tại sao?”
“Xấu hổ.”
“Ba tín niệm của ngươi là gì?”
“Được rồi, Khinh Thiền”, Tô Phong Nghi ngắt lời nàng: “Đừng làm khó người ta nữa”.
“Sợ cái gì!”
Tô Phong Nghi đột nhiên nghiêm mặt, nói từng chữ: “Chớ có bắt nạt huynh ấy... Người bắt nạt huynh ấy trên đời này quá nhiều rồi”.
Thẩm Khinh Thiền chỉ đành ngâm miệng.
Đường Hành lặng lẽ nhìn Tô Phong Nghi, trầm mặc hồi lâu rồi nói: “Ngoài này rất lạnh, hai vị nên quay về khách điếm sớm một chút thì hơn”.
Nàng vỗ vỗ vai hắn, đột nhiên nói: “Tôi luôn có chút hoài nghi tín niệm lớn nhất của huynh”.
Đường Hành vốn đã đi vài bước, chợt dừng lại, đợi nàng nói tiếp.
“Huynh nói huynh muốn học tập nữ nhân. Nhưng ngay cả chính nữ nhân bọn tôi cũng không biết nữ nhân là gì, huynh học thế nào đây?”
Đường Hành cười khổ: “Đa tạ chỉ giáo, đây đích xác là vấn đề”.
...
Trà trên bàn hãy còn âm ấm.
Xuyên qua hành lang phòng trọ buông rèm xanh, dưới gốc liễu lưa thưa rủ có một bóng người bận đồ đen.
Đợi Thẩm Khinh Thiền tới gần, bóng đen đó đột nhiên thoáng động, chạy về phía sau núi.
Hắn không hề đi xa, đến khu đất rộng rãi cạnh hồ ban nãy nàng bơi lội thì dừng lại.
Dải ngân hà trên bầu trời hướng về đông, đom đóm lập lòe trong lùm cỏ.
Sương lạnh lùng buông, tán cây trùm xuống.
Nàng bỗng cảm thấy căng thẳng, tim đập thình thịch nhưng vẫn to gan lớn mật đi về phía người đó.
“Cô đáng lẽ phải biết, người ta muốn tìm không phải là cô”, người áo đen lạnh nhạt.
“Chớ quên ta họ Thẩm.”
“Cô muốn sao?”, hắn nhìn nàng chăm chú, mi mày toát lên vẻ chế nhạo: “Ở đây quyết đấu với ta?”.
“Không thể sao?”
“Cô là nữ nhân.”
“Ta là kiếm khách”, nàng nhướng mày nâng kiếm, thần thái bình tĩnh: “Kiếm nặng sáu cân[1] hai lạng, danh đứng thứ mười bốn trên kiếm bảng. Đối thủ của ta trước giờ đều là nam nhân. Trò chơi của nam nhân ta rất thông thạo”.
[1] Một cân Trung Quốc = ½ kg.
“Đây không phải trò chơi, kẻ thua cuộc phải trả một cái giá”, hắn lạnh lùng quan sát nàng.
“Ta hiểu.”
Vào thời khắc ấy, nàng không hề do dự rút kiếm liên tục công ra ba chiêu, kiếm khí dày đặc, bức dạt đám đom đóm đang bay lượn trước mặt. Nàng vốn xuất thân từ Huỳnh Ý môn, dùng xà kiếm thiên biến vạn hóa. Sau khi tham cứu kiếm phổ của Trần Thanh Đình, đột nhiên ngộ đạo, hiểu được một câu nói xưa lưu truyền trong giang hồ: “Chẳng sợ nghìn chiêu thường, chỉ sợ một chiêu tuyệt”.
Cho nên chiêu thức của nàng đơn giản mà hữu hiệu, dùng tới dùng lui.
Hắn đưa một tay sau lưng, một mạch thoái lui, chỉ khi bắt buộc mới dùng bao kiếm gạt đỡ, tỏ ra cực kỳ khinh thường.
Nàng thẹn quá hóa giận, vung kiếm như gió, càng đánh càng hung mãnh, cả thân hình được bao phủ trong một tầng kiếm ảnh.
Hết ba mươi chiêu, đột nhiên nghe “soạt” một tiếng, cuối cùng hắn cũng rút kiếm, mũi kiếm đâm xéo vào không trung nhắm thẳng thân dưới của nàng.
Hắn chỉ dùng một chiêu, “xoẹt” một nhát đã xẻ đôi tấm váy dài của nàng, Thẩm Khinh Thiền không thèm bận tâm, giậm chân tung mình đánh ngược một kiếm, kiếm khí mạnh mẽ vạch một đường máu sau lưng hắn.
Hắn đau đớn ngả đi một bước, quay người lại, kinh ngạc nhìn nàng, đột nhiên lật tay xuất kiếm, từ một góc độ không ngờ tới nghiêng nghiêng đâm ra!
Thẩm Khinh Thiền vội vàng tránh né nhưng đã chậm một bước! Chỉ cảm thấy mắt trái lạnh buốt, một cơn đau khôn tả ập tới gần như khiến nàng ngất đi.
Một thứ chất lỏng mằn mặn từ hốc mắt chảy ra, chảy xuống môi, nàng nếm vị tanh của máu.
Đấy không phải nước mắt, là máu.
Kế đó, nàng nhìn thấy con ngươi của mình cắm trên đầu mũi kiếm hắn.
Người kia cười nhạt, lấy con ngươi xuống, cầm trên tay tung lên tung xuống cứ như đang chơi một đồng xu: “Ta nói rồi, kẻ thua phải trả giá”.
Nàng ôm nửa bên mặt máu không ngừng chảy, run rẩy nhìn hắn, răng lợi nghiến chặt: “Quách Khuynh Trúc, có gan thì ngươi giết ta đi!”.
Quách Khuynh Trúc quăng con ngươi xuống đất, đưa chân từ từ giẫm lên. “Bẹp” một tiếng, con ngươi vỡ nát tựa như một quả nho. Âm thanh ấy cứ ung ung vọng vào tai, như một mũi đinh sắt ghim vào não nàng.
“Giết ngươi rất dễ”, hắn rút khăn, lau sạch tay: “Đáng tiếc, vẫn chưa phải lúc”.
Sau đó, hắn thả khăn tay xuống đất: “Thay ta hỏi thăm phụ thân ngươi”.
...
Tô Phong Nghi nằm trên giường đã lâu nhưng mãi vẫn không ngủ được. Nàng vốn có thói quen tới gõ cửa phòng Tử Hân mỗi khi đi ngủ, phát hiện chàng không ở trong phòng. Nàng tới tìm Quách Khuynh Quỳ, Quách Khuynh Quỳ nói với nàng, đứa con thứ hai của họ Trương bán màn thầu phố bên bị ngựa hất ngã, vỡ đầu gối, nên họ đã phái người tới mời chàng đi.
Tử Hân ở ngay phòng sát vách với nàng. Chàng là một người sinh hoạt rất quy củ. Mỗi ngày cuối giờ Hợi đi ngủ, đầu giờ Thìn dậy khỏi giường. Giờ Tỵ bắt đầu khám bệnh, giờ Dậu thì ra về. Ăn xong cơm tối sẽ đi tản bộ; trước khi đi ngủ mà nhàn rỗi thì sẽ đọc sách y. Một ngày ba bữa đều có thời gian cố định. Làm thức ăn thì đã cầu kỳ còn muốn cầu kỳ hơn: Ví như thái rau được một nửa, phát hiện ra gia vị bên cạnh thiếu một thứ gì đó, chàng sẽ bỏ dao xuống, đi khắp phố tìm mua. Trong giang hồ phức tạp hỗn loạn này, chàng ngoan cố kiên trì giữ một loạt nguyên tắc của bản thân, chăm sóc bản thân không hề cẩu thả.
Chàng là một người rất phiền phức nhưng chưa bao giờ làm phiền tới người khác.
Ánh đèn ngoài hành lang leo lét như hạt đậu, chút ánh sáng len qua khe cửa hẹp. Mỗi khi có người đi ngang qua cửa, căn phòng thoáng chìm trong bóng tối. Không biết vì sao, đêm nay nàng không ngủ nổi, cứ trằn trọc trên giường mãi, một mực dỏng tai nghe tiếng động bên ngoài. Im lặng chờ đợi già nửa canh giờ, nàng chợt nghe thấy dưới lầu vọng lên tiếng bước chân nặng nề. Nàng biết người này không phải là Tử Hân, tiếng bước chân lại hướng về cửa phòng nàng. Kế đó, nàng nghe “bình” một tiếng, khung cửa chấn động, hình như có người nặng nề ngả vào cửa.
Nàng rút chủy thủ, chạy tới bên cửa, nhỏ giọng hỏi: “Ai đấy?”.
“Là tỷ...”
Nàng vội vàng mở cửa, thấy Thẩm Khinh Thiền hai mắt nhắm chặt, mặt toàn là máu, nửa bên mặt sưng vù lên. Nàng một mực ôm lấy kiếm của mình, thấy cửa mở thì miễn cưỡng mở mắt. Chính khi nàng mở mắt, Tô Phong Nghi phát hiện mắt trái của nàng chỉ còn lại một hốc máu đáng sợ, không khỏi thất sắc mà kêu lên một tiếng kinh hãi, vội vàng đỡ nàng dậy, đưa tới giường của mình, khi ấy Thẩm Khinh Thiền đã hôn mê rồi.
Trong tình huống này, người đầu tiên Tô Phong Nghi nghĩ tới là Tử Hân, nhưng mà Tử Hân không có ở đây, cho nên nàng liều mạng gõ cửa phòng Đường Hành. Nửa đêm canh ba, tiếng gõ cửa của nàng khiến khách thuê phòng hốt hoảng một phen, mọi người còn cho rằng có cướp xông vào, kinh động tới tuần bổ trong thành. Có người khoác áo ra khỏi giường, hé cửa thò đầu ngó đông ngó tây; có người nằm trên giường ngoác miệng chửi chưởng quỹ, bảo là khách điếm này đã khiến người ta không được yên ổn như thế, ngày mai nhất định chuyển đi. Đường Hành thì lại ngủ như chết, mãi một lúc lâu mới dậy mở cửa, ánh mắt ngái ngủ hỏi: “Tô cô nương, xảy ra chuyện gì thế?”.
“Mau đi tìm Tử Hân! Khinh Thiền bị trọng thương rồi.”
Đường Hành nói: “Tôi không biết Tử Hân đi đâu. Huynh ấy không ở trong phòng à?”.
“Tuấn ca nói có người bị bệnh, huynh ấy được người ta mời đi rồi.”
“Ta đi xem Thẩm cô nương trước đã.”
Tô Phong Nghi cuống quýt giậm chân: “Huynh xem tỷ ấy để làm gì? Để loạn thêm à?”.
“Tôi biết chút y thuật.”
Tô Phong Nghi đột nhiên đại ngộ, mừng rỡ nói: “Đúng rồi! Mẹ huynh là Ngô đại phu, đệ tử của thần y Mộ Dung, tốt quá rồi! Mau lên, mau lên!”.
Đường Hành cười khổ: “Chớ có hiểu lầm. Tôi từ nhỏ rất ghét học y. Chỉ biết một chút tri thức nông cạn thôi”.
Hai người tới bên giường Thẩm Khinh Thiền, Đường Hành vén màn, vừa nhìn thấy mặt Thẩm Khinh Thiền lập tức hồn xiêu phách lạc, vội cụp mắt cúi đầu, rút trong người ra một bức tượng nhỏ màu đen, đặt bên miệng, lầm rầm tụng niệm cầu khấn.
Tô Phong Nghi vội nói: “Giờ là lúc nào rồi? Huynh còn ở đấy mà cầu thần bái phật à! Mau mau nghĩ cách đi!”.
“Suỵt... không được kinh động A Thanh.”
Tô Phong Nghi trừng mắt nhìn tượng gỗ trong tay hắn, to giọng hỏi: “A Thanh? A Thanh là ai?”.
Tiếng niệm của Đường Hành bỗng trở nên cực kỳ cung kính, ánh mắt mờ ảo như u linh: “A Thanh là thần của ta, thần của riêng ta. Trừ ta ra, người không bảo vệ ai khác”, ngừng một chút, hắn lại nói: “Xin cô lúc nói ra tên của người, nhỏ giọng một chút, được không? A Thanh không thích người khác to tiếng gọi tên mình”.
Tô Phong Nghi một mực cho rằng bản thân rất có học vấn, chỉ trong thoáng chốc, não đã quét qua ba nhà Nho, Thích, Đạo cho tới chư thần trong dân gian, trên tới Như Lai Phật Tổ, Ngọc Hoàng Đại Đế, dưới có Quan Công, Táo Vương, Thần Tài gia, nhưng vắt óc cũng không nghĩ được “A Thanh” là vị thần nào. Thần sắc Đường Hành nghiêm túc, thái độ cung kính, có vẻ như đấy là một vị thần linh không thể xúc phạm, trong lòng có chút sợ hãi, cười xin lỗi hắn: “Hay là huynh ở đây chăm sóc cho Khinh Thiền, tôi đi tìm Tử Hân”.
“Tôi có thể rửa sạch vết máu cho cô ấy. Hiện giờ miệng vết thương sưng to quá, chỉ sợ dù Tử Hân có tới cũng khó giải quyết, trước hết phải tiêu sưng đã”, Đường Hành điểm vào huyệt ngủ của Thẩm Khinh Thiền, về phòng lấy một cuộn vải trắng và bông băng, sấp nước thuốc, nhẹ nhàng lau vết máu trên mặt nàng.
“Vậy phải nhờ huynh rồi!”, thấy ngoài song, trời bỗng đổ mưa nhỏ, Tô Phong Nghi Khoác áo ngoài, cầm ô vội vàng đi ra.
...
Tiểu nhị trực đêm bảo với nàng, họ Trương bán màn thầu cách đây không xa, ở ngay ngã rẽ đầu đông con phố.
Nàng một mình cầm ô, nặng nề bước trên con phố tối đen. Đây không còn là lần đầu tiên nàng đi trên phố vào ban đêm nữa, nhưng con phố xa lạ vẫn làm nàng sợ hãi. Dưới ánh đèn lờ mờ của một khách điếm phía xa, nàng thấy được một bóng người lén lén lút lút ở góc phố. Có lần, nàng suýt trượt ngã bởi mảnh giấy dầu ở dưới đất, quay đầu lại nhìn thì thấy một tên ăn mày nằm trên mảnh giấy đó. Trời đổ mưa nhỏ, mặt đất ẩm ướt, người đó màn trời chiếu đất nhưng hoàn toàn không hay biết, thật không rõ hắn còn sống hay là đã chết.
Khó khăn lắm mới tới được chỗ rẽ, quả nhiên thấy ngựa của Tử Hân buộc trước cửa, lòng nàng ấm lại, gõ cửa nhè nhẹ. Qua một lúc có người ứng tiếng hỏi: “Ai đấy?”.
“Tôi tới tìm Diêu đại phu.”
Cửa hé mở, chiếc đèn lồng được đưa ra bên ngoài, chiếu tỏ khuôn mặt nàng, một giọng già nua vang lên: “Cô nương, xin mời vào”.
Căn phòng âm u ẩm ướt, mùi nấm mốc xua không chịu đi, trần nhà rủ xuống vô số mạng nhện. Ông lão khom lưng, hắng giọng nói: “Diêu đại phu còn đang làm phẫu thuật, nói là nghiêm cấm làm phiền. Lão hán tôi từ đầu tới giờ cũng chỉ đem một chậu nước nóng vào đã bị ngài ấy đuổi ra ngoài”.
“Chân của lệnh lang bị thương?”
Lão hán gật đầu than thở: “Đứa bé này số khổ, đầu năm mẹ vừa mới mất, hôm nay lại ngã ngựa gãy chân. Chỗ khác còn đỡ, đằng này lại vỡ nát xương bánh chè, dù là có trị khỏi được cũng thành anh thọt. Lão hán tôi cầu xin lão gia với nãi nãi, tháng Hai vừa rồi mới xin cho nó được một chân trong đội khiêng kiệu, vừa mới học việc xong, đang hy vọng kiếm được ít bạc... Giờ thì hay rồi, ài! Uổng hết rồi!”.
“Lệnh lang năm nay bao nhiêu tuổi?”
“Mười lăm.”
Tô Phong Nghi có chút kinh ngạc nhìn ông lão. Lão hán này tóc trắng phau phau, răng thì lưa thưa, già cả ốm yếu, tuổi tác xem ra phải trên sáu chục, không ngờ lại có đứa con trai tuổi nhỏ như thế.
“Cô nương cũng tới cầu khám bệnh sao? Diêu đại phu đúng là một người tốt, thấy chúng tôi nhà nghèo khốn khó, không những một xu không nhận, lại cho chúng tôi mười lượng bạc để mua thuốc. Đêm hôm có người tới mời, cũng chẳng nói một chữ ‘không’, một mạch bận bịu tới bây giờ, đến cả trà cũng không buồn uống lấy một ngụm.”
Tô Phong Nghi hé miệng cười: “Cháu là bằng hữu của huynh ấy, có việc gấp tới tìm. Liệu cụ có thể vào hỏi một câu xem còn phải đợi bao lâu không?”.
Lão hán lắc đầu lia lịa: “Diêu đại phu dặn đi dặn lại, bảo là phẫu thuật cần phải hoàn toàn tập trung, ngộ nhỡ có gì sai sót sẽ di họa cả đời. Người bên cạnh tuyệt đối không được làm phiền. Nếu có gì cần, người sẽ tự ra ngoài phân phó. Cô nương phải ở đây đợi thôi”.
Nàng chỉ đành tìm một cái ghế rồi ngồi xuống. Lão hán ân cần rót cho nàng một tách trà, còn bưng tới một đĩa bánh táo. Tô Phong Nghi thấy bánh táo được bọc trong ba lớp giấy, biết ngay là rất quý báu, nghĩ hẳn lão hán bản thân không nỡ ăn, định để dành cho con trai. Nàng vội vàng cảm ơn, chỉ dùng tách trà nhấp một ngụm, cảm thấy đắng chát liền đặt xuống, yên lặng ngồi đợi.
Không lâu sau, cửa phòng kẽo kẹt một tràng. Tử Hân xách rương đồ nghề, chống trượng đi ra, thấy Tô Phong Nghi thì hơi sững lại rồi quay sang đưa cho lão hán một đơn thuốc, đắp bên ngoài ngày hai lần, không được qua quýt”.
Lão hán cảm ơn mãi không thôi, sau đó tiễn hai người ra ngoài cửa, ngập ngừng một chút chợt nói: “Sáng nay Tiền đại phu có qua khám, nói là... nói là... chân của nó khó mà lành hẳn, e rằng sau này không thể làm nghề khiêng kiệu... Không biết... không biết... có đúng hay không?”, nói xong chăm chăm nhìn Tử Hân, một giọt lệ già nua từ đôi mắt đục lăn xuống, lão vội đưa tay lau đi. Ngón tay của Lão đen đúa, móng tay nứt nẻ, bên trên hiện ra khá nhiều vết rạn.
Tử Hân vỗ vỗ vai lão, cười nói: “Không cần để ý tới lời Tiền đại phu. Tình hình không nghiêm trọng đến thế. Nếu như vết thương lành lại, thì sẽ không có hậu quả gì đáng sợ. Nghỉ ngơi điều dưỡng bốn tháng là có thể đi khiêng kiệu được rồi”.
“Thật sao? Ngài muốn nói, nó sẽ không... sẽ không...”, lão vốn định nói “sẽ không biến thành một anh thọt”, nhưng lại nuốt hai chữ sau cùng vào bụng.
“Đương nhiên không.”
Xét cho cùng đây chỉ là lời của một giang hồ lang trung, nếu chẳng phải phí khám của Tiền đại phu quá cao, lão hán không trả nổi thì cũng sẽ không đi mời cái tay đại phu đi mở sạp ven đường này về. Thấy lời Tử Hân nói ra vừa tự tin, vừa chắc chắn, càng lấy làm hoài nghi, chỉ cho rằng đấy là nói lời tốt lành cho mình dễ chịu, bèn cười khổ một tiếng, đưa đèn lồng vào tay chàng: “Đường tối quá, cầm cái đèn này đi”.
Tử Hân đang định từ chối, Tô Phong Nghi đã nhận lấy, cười hì hì: “Đúng đấy, có cái đèn này thì thật tốt. Đa tạ lão bá!”.
Hai người cáo từ rời đi, thấy cửa đã đóng chặt, Tô Phong Nghi cầm rương đồ vào tay mình, nói: “Đã mệt chưa? Muội cầm rương cho huynh!”.
Tử Hân dắt ngựa hỏi: “Tối thế này tới tìm tôi có chuyện gì?”.
“Khinh Thiền... bị thương rồi. Có người... có người móc mất một mắt của tỷ ấy.”
Tử Hân dừng phắt lại, kinh hãi hỏi: “Hả? Lúc nào thế?”.
“Vừa mới thôi.”
“Là kẻ nào làm?”
“Không rõ, hình như là một kẻ thù của tỷ ấy. Tỷ ấy vật vã trốn về được, giờ đã hôn mê bất tỉnh rồi.”
“Cô đi tìm Đường Hành chưa?”, chàng chợt hỏi.
“Tìm rồi. Đường Hành nói trước tiên phải tiêu sưng, không hết sưng thì dù có là huynh cũng không sao làm phẫu thuật được.”
“Hắn nói không sai. Sưng to lắm sao?”
“Đến mức bây giờ nhìn rất khó nhận ra là tỷ ấy.”
Tử Hân vỗ yên ngựa, nói: “Cô lên ngựa đi, chúng ta phải mau mau trở về mới được”.
Tô Phong Nghi lắc đầu: “Huynh mệt rồi, muội muốn huynh ngồi trên ngựa”.
Lúc ra khỏi cửa, mượn ánh sáng của chiếc đèn lồng, nàng đã nhìn thấy vẻ mặt trắng tái của Tử Hân, môi chàng nhợt nhạt không chút huyết sắc, liền biết ngay cái họa con gián kia gây ra còn chưa hết. May là kịp thời uống thuốc nếu không chắc sẽ có bộ dạng của sáu năm trước.
Dáng vẻ ấy nàng vĩnh viễn không quên.
Tử Hân không nói gì, lạnh lùng nhìn nàng, hồi lâu lại nói: “Lên ngựa, mặt đất ẩm ướt”.
Mỗi khi chàng tức giận, khẩu khí luôn mang giọng điệu rất sốt ruột, khiến nàng sợ hãi. Nàng ngoan ngoãn trèo lên lưng ngựa, nói: “Vậy huynh cũng lên đi”.
Chàng không thèm để ý tới nàng, dắt ngựa tiếp tục đi về phía trước.
Mưa như mắc cửi, nhẹ nhàng trải khắp. Yên lặng đi được một tuần nhang, bọn họ đi qua một đền thờ, Tô Phong Nghi ôm rương thuốc, nhìn vào nền trời đen thẫm, nói: “Muội nghĩ tới một bài thơ”.
“Y thượng trinh trần tạp tửu ngân,
Viễn du vô xứ bất tiêu hồn,
Thử thân hợp thị thi nhân vị,
Tế vũ kỵ lư nhập kiếm môn[2].”
[2] Bài Kiếm Môn đạo trung ngộ vi vũ của Lục Du (1125-1209) thời Nam Tống, Trung Quốc. Dịch:
Bụi đường với rượu kia lấm áo,
Viễn du nào chốn chẳng tiêu hồn.
Thân này đã thi nhân chưa nhỉ?
Mưa nhỏ thúc lừa vào Kiếm Môn.
Tử Hân nói: “Có phải bài này không?”.
Tô Phong Nghi kinh ngạc: “Sao huynh biết?”.
“Đoán.”
“Thật ra huynh không nhất thiết phải là giang hồ lang trung, làm giang hồ thi nhân cũng không phải là không được.”
“Tại sao tôi lại phải làm giang hồ thi nhân?”
“Như thế thì chúng ta gần như là đồng nghiệp rồi.”
“Sao lại nói thế?”
“Nghề nghiệp của chúng ta chỉ giao tiếp với những thứ đẹp đẽ.”
“Đầu lâu của con người rất đẹp. Chỉ là cô không quan sát kỹ mà thôi”, chàng bất giác lại cắn móng tay.
“Muội không thích huynh đánh giá bộ dạng của người khác. Đôi mắt huynh cứ như dao phẫu thuật ấy.”
“Tôi cũng không thích cô đánh giá bộ dạng của người khác, đôi mắt cô cứ như một cái xẻng, à, không phải, một cái bàn chải.”
“Nói không sai, muội thích đồ thanh đồng, chính là thích cái dáng vẻ tàn tạ sau bao nhiêu niên đại hủ hóa của nó”, nàng nhướng mày nói.
“Chẳng trách cô cứ theo tôi mãi”, chàng tự trào phúng một câu.
“Này, người ta không có ý đó mà!”, nàng đỏ mặt: “Huống chi...”.
Trong không gian vang vọng tiếng gậy trúc kỳ dị, sắc mặt Tô Phong Nghi đột nhiên thay đổi nói: “Hắn tới rồi!”.
“Ai tới?”
“Cái kẻ móc mắt của Khinh Thiền... Khinh Thiền chính là nghe thấy âm thanh này mới đi tìm hắn.”
Tử Hân dừng bước, nói: “Bất kể hắn là ai, tôi đều hy vọng bây giờ cô đừng có chọc vào người ta”.
Tô Phong Nghi to tiếng nói: “Tại sao chứ? Thẩm Khinh Thiền là bằng hữu của muội, tự dưng bị người ta móc mất mắt, huynh cho rằng muội sẽ khoanh tay đứng nhìn à?”, Tử Hân đang định giữ lấy nàng, nàng đã nhảy xuống ngựa, rút trong người ra một cây rìu nhỏ màu bạc, co chân nhanh như gió đuổi theo.
Ai ngờ khinh công của nàng cũng không yếu, chạy rất nhanh, quả nhiên thấy có một bóng áo đen dưới ánh đèn đằng trước, bóng áo đen nọ chuyển người vụt đi, dẫn nàng vào một ngõ nhỏ tối đen.
Cơn mưa chợt ngừng, vầng trăng ló khỏi tầng mây. Gió đêm ùa tới đem theo hơi ẩm ướt lành lạnh, nàng cảm thấy lạnh nhưng không hề sợ hãi.
Trong bóng tối, nam nhân kia lạnh giọng hỏi: “Cô là ai?”.
“Mắt của Khinh Thiền có phải do ngươi móc mất không?”
“Không sai.”
“Ngươi có biết đối với nữ nhân mà nói, con mắt rất quan trọng không?”
“Mắt của ai đối với người đó đều rất quan trọng.”
Nàng không đáp lời, nín thở, quan sát hắn trong bóng tối.
“Hôm nay ta không có hứng giết người, có điều ta giết người chưa bao giờ phân biệt nam nữ.”
“Thứ ta muốn cũng không nhiều, chỉ cần một con mắt của ngươi thôi.”
Kẻ kia khinh miệt “phì” một tiếng: “Thế giới này làm sao vậy? Tối nay cứ để ta gặp đám nữ nhân thích đi tìm cái chết”.
“Thật sao? Là ai tìm cái chết, sao ngươi không châm đèn mà nhìn cho rõ đi?”
Lửa vừa châm lên, mắt hắn chớp một cái, tựa như không quen đột nhiên có ánh sáng, kế đó thân hình của hắn chợt cứng đờ.
Hắn thấy nữ nhân trước mặt trong tay đang cầm một cái nỏ nhỏ, đoản tiễn sớm đã ngắm chuẩn vào mắt trái hắn.
Sát thủ cẩn thận rất ít khi phạm sai lầm, hôm nay hắn lại phạm phải một sai lầm không nên phạm.
Lúc đuổi bắt, hắn cảm thấy khinh công của cô gái này chỉ xếp vào hạng hai, nếu dốc toàn lực mà chạy, chắc chắn nàng sẽ không theo nổi, dẫn nàng tới đây, vốn là có ý chơi đùa.
Kiếm của hắn đeo chếch sau lưng, cho rằng nàng chẳng thể làm gì nổi mình, hắn không hề rút kiếm.
Tuy hắn có thể chắc chắn bản thân nháy mắt rút kiếm, nháy mắt đâm thủng tim nữ nhân này nhưng trước đó, mũi tên nho nhỏ ánh bạc kia nhất định sẽ bắn trúng một mắt hắn.
Chỉ là bởi khoảng cách giữa hai người quá ngắn, ngắn tới mức không một kẻ nào có thể chiếm được chút lợi thế.
“Ngươi có biết...”, hắn đang định nói, muốn đánh lạc hướng sự chú ý của nàng, Tô Phong Nghi đã không chút do dự bắn mũi tên.
“Vút...”
Hắn lật tay xuất kiếm, chém ngang một nhát! Mũi tên sắp đâm tới con ngươi hắn thì bị chặt đứt đôi.
Cùng lúc ấy, hắn chợt cảm thấy mắt phải lạnh toát! Một thứ nhỏ như cọng lúa đưa tới mắt hắn.
Hắn kịp thời nhắm mắt lại, nhưng vẫn cảm thấy một trận nhói đau, tới mức tay bất giác cũng run theo.
Tô Phong Nghi nhổ một đoạn trúc nhỏ ra khỏi miệng, nhún vai nói: “Đây là một cái mánh rất nhỏ, không ngờ ngươi cũng bị lừa”.
Bắn trúng hắn là một cây ngân châm phóng từ ống trúc, mũi tên kia chẳng qua chỉ là chiêu đánh lạc hướng.
Hắn nổi cơn thịnh nộ, sát khí đùng đùng, điên cuồng vung kiếm, chém tới nàng như lôi đình.
Dưới cung kích hung hãn ấy, cái rìu nhỏ bé kia của nàng chẳng có chút sức phòng ngự nào, cản về phía trước một cái lập tức bị gạt bay. “Vút” một tiếng, lưỡi kiếm liếm qua mặt nàng, nếu không phải nàng nhanh nhẹn tránh kịp thì đầu đã bị xuyên thủng!
Nàng ném cái rìu trong tay như ném ám khí rồi co chân chạy, thanh kiếm kia đã chém đứt búi tóc trên đầu nàng, “choang” một tiếng, chiếc trâm ngọc rơi xuống vỡ làm đôi. Nàng đầu tóc tơi bời, cắm đầu chạy như bay.
Con ngõ nhỏ rất chật hẹp, hai bên tường đá phẳng lì, trong lúc luống cuống, nàng chạy bừa, chạy khỏi một cái ngõ lại cắm đầu vào một cái ngõ khác, nam nhân kia như hình với bóng bám theo sau.
Nàng gần như có thể nghe thấy tiếng hít thở sâu và dài của hắn, mũi kiếm như miệng rắn vươn lên chực đớp vào đầu nàng.
Sau đó, tiếng hít thở đáng sợ kia đột ngột biến mất!
Nàng ngó đông ngó tây, không thấy bóng người, nhưng nàng biết người đó nhất định đang nấp trong một góc tối nào đó.
Một luồng sát khí dày đặc như sương đêm bao phủ xung quanh.
Nàng siết chặt chủy thủ trong tay, căng thẳng quên cả hô hấp!
Đúng vào lúc ấy, một bàn tay bỗng giữ lấy nàng. Động tác cực kỳ nhẹ nhàng.
Nàng không nghĩ ngợi gì quay lại chém một nhát!
Bàn tay ấy vẫn nhẹ nhàng tóm lấy cổ tay nàng.
Một giọng khẽ vang lên: “Là ta”.
Nàng không tự chủ được nhào vào lòng chàng, run giọng hỏi: “Kẻ đó... kẻ đó đi đâu rồi?”.
“Ở ngay trước mặt cô.”
Chàng đốt đuốc, quả nhiên người áo đen nọ đang đứng ở góc tường, kiếm cầm trong tay nhưng sát khí đã biến mất không thấy nữa.
Giữa con mắt phải của người đó có một vệt máu nhỏ bằng hạt đậu, ánh mắt lạ lùng, đánh giá Tử Hân một lượt.
“Khuynh Quỳ thường nhắc tới ngươi”, hắn chợt mở lời.
“Gần đây hắn vừa bị thương”, Tử Hân nói.
“Ta biết”, người đó rất khách khí: “Đa tạ ngươi chăm sóc cho nó”.
Kế đến là một khoảng yên lặng.
Mãi một lúc sau, người kia lại hỏi: “Nữ nhân này là gì của ngươi?”.
“Là bằng hữu của tôi.”
“Nói với Khuynh Quỳ ta ở gần đây, bảo nó yên tâm dưỡng thương.”
“Tôi sẽ chuyển lời.”
“Bằng hữu của ngươi rất thông minh, ta sẽ không tính toán với nữ nhân thông minh”, kẻ áo đen cười nhạt, loáng một cái, thân hình đã biến mất trong bóng đêm thăm thẳm.
Hai người đứng lại trong ngõ nhỏ một lúc, ánh trăng tĩnh mịch trải khắp nẻo.
“Hắn không làm cô bị thương chứ?”, Tử Hân vừa hỏi vừa châm đèn lồng, chiếu lên khuôn mặt nàng.
Ánh sáng chói mắt, nàng nhíu mắt lại, nói: “Không”.
Tay của chàng vẫn giữ lấy cằm nàng, quay khuôn mặt nàng qua trái qua phải kiểm tra.
“Sao lại véo mặt muội?”, động tác của chàng ngang ngược khiến nàng có chút tức giận.
“Đứng yên, ở đây có máu”, Tử Hân rút trong người ra một bình nước, thấm ướt khăn tay rồi lau kỹ vệt máu trên mặt nàng.
Tô Phong Nghi Hoảng hốt nhớ tới mũi kiếm của người áo đen từng liếm qua mặt nàng, có lẽ nó còn mang theo cả máu của Thẩm Khinh Thiền trên đó.
Vết máu lau sạch, lộ ra làn da trắng muốt, chàng thở phào: “Còn may, không bị thương”.
Lúc chàng cúi xuống nhìn Tô Phong Nghi, mũi chàng chút nữa thì chạm vào mặt nàng. Nàng ngửi thấy trên người chàng có mùi thuốc nhàn nhạt phảng qua, liền mở to mắt, chăm chăm nhìn vào khuôn mặt chàng.
Ánh mắt chàng sâu thẳm, chăm chú nhìn nàng rất lâu.
Hơi thở từ đôi môi hai người phảng qua, nàng không tự chủ được bèn kiễng chân, ra sức níu lấy cổ áo chàng.
Thấy nàng ra sức nghển cổ như thế, tay Tử Hân đành phải chuyển từ cằm ra sau gáy, đỡ lấy đầu nàng, sợ nàng ngã nhào.
Đột nhiên, Tô Phong Nghi cảm thấy mũi mình chua chua, không nhịn được hắt hơi một cái.
Một đám nước bọt như mưa phùn bắn vào mặt chàng.
“Xin lỗi, không phải muội cố ý”, để chứng minh bản thân không cố tình, nàng kêu lên một tiếng rồi vội vàng lấy tay áo lau mặt cho chàng.
“Không sao”, chàng nhạt giọng nói.