Tiểu Lục gia không biết nặng nhẹ, Hoài Chân cũng không biết phía trước có thứ gì đang đợi Ôn Mạnh Băng, cô bất giác toát mồ hôi thay anh ta.
Trong lòng bồn chồn muốn hỏi Vân Hà, nhưng cô ấy lại làm như không biết gì mà kể cô nghe những chuyện xảy ra trong một tháng qua:
Trong giáo hội có mấy học sinh Trung Quốc mới đến, tưởng trường học giáo hội là nơi giới thiệu kết hôn, hễ thấy con gái người Hoa trẻ tuổi thì sẽ đi đến hỏi có đồng ý hẹn hò không; Hoài Chân không có ở đây, Lê Hồng và Seol Rae không có ai chơi, từng rủ Vân Hà đi xem biểu diễn Nữ hoàng thêm một lần; lại hỏi cô còn nhớ Ralph Garcia người Philippines đó không, cô đáp nhớ, Vân Hà bèn nói, cậu bé đó đã thi đậu trường cấp ba George S. Patton, cuối tuần giúp các sơ quản lý ký túc xá nam trong trong giáo hội phố người Hoa, vì Hoài Chân đã nổi tiếng, nên hễ gặp ai cậu ta cũng nói là mình từng qua lại Hoài Chân lúc còn học ở trường công lập Viễn Đông…
Hoài Chân muốn hỏi xem có phải La Văn cũng ở Phúc Lâm môn không, nhưng không thể mở miệng nói chen vào được. Cô biết Vân Hà nói những chuyện này là có mục đích: cô ấy không thể hỏi cô bất cứ chuyện gì lúc cô rời khỏi thành phố San Francisco, những chuyện này đều có liên quan tới Ceasar, chỉ sợ sẽ chọc giận vị Ôn tiên sinh này.
Ôn tiên sinh nghe một hồi, có lẽ cảm thấy chuyện nhàm chán, hoặc là đã biết từ lâu, nên đi ở sau nói chuyện với bà cụ.
Anh ta hỏi quê quán của bà ở đâu.
Bà ấy nói là Đài Sơn.
Ôn tiên sinh đáp, anh ta biết một Lý tiên sinh làm nghề dược ở Kim Vĩnh Lợi, Hương Cảng.
Bà cụ nói, đó chính là cha tôi.
Mọi cử chỉ hay thần thái của Ôn tiên sinh đều toát lên ba phần kính trọng.
Bà cụ cười hừ, nói ông ấy cưới hai mươi mấy vợ bé, tôi được bà vợ nhỏ không có tiền đồ nhất của ông ấy sinh ra, nếu không tôi cũng quý báu như các chị gái do mẹ cả sinh, đi học ở trường nữ tư thục Trung Tây, học nữ sư, thi vào trường nổi tiếng ở Mỹ rồi về nhà làm một quý cô xinh đẹp con nhà danh giá, gả cho sĩ quan, giám đốc Hương Cảng, chứ không cần phải lấy chồng là khách Kim Sơn, mới mười sáu tuổi đã trôi dương vượt biển, đến xứ lạ nếm mùi khổ cực.
Lời này như thể cố ý nói cho anh ta nghe.
Ôn tiên sinh chỉ cười không đáp.
Đúng giờ ngọ, Phúc Lâm môn vô cùng náo nhiệt. Có gia đình giàu đang tổ chức tiệc cưới ở đây, cả tầng một nói ít cũng chừng một trăm bàn; vừa đưa lên năm món, cô dâu chú rể theo người thân đi mời rượu khắp các bàn, xôn xao náo nhiệt vô cùng. Chủ nhân bữa tiệc thấy bà cụ, thì hỏi bà làm sao lại mời cả nhà Lý Thị, mà chỉ có bà là không đến?
Rồi lập tức mời bà uống rượu cùng cô dâu chú rể.
Bà khoát tay, nói không uống rượu, chỉ uống hồng trà.
Chủ nhân lại nói, hôm nay uống rượu Hennessy.
Bà cụ vỗ đùi, được, được! Nói rồi đi theo người ta.
Hoài Chân nhân cơ hội hỏi Vân Hà, “Sao hôm nay lại ăn ở Phúc Lâm môn? Một mâm nói ít cũng mười mấy đô, đắt quá.”
Vân Hà nhìn thiếu gia Vancouver bên cạnh, “Không phải là nghe em nói trong điện thoại có khách đến sao. Cha nói, bất kể khách từ đâu đến thì cũng phải lấy lễ tiếp đãi.”
Ôn tiên sinh mỉm cười, “Đã khách khí rồi.”
Trên đường đi, thỉnh thoảng Hoài Chân để ý đến thái độ của anh ta, giọng điệu dửng dưng lại có phần vui vẻ, giống như giả vờ không biết sẽ gặp chất vấn thế nào trên bàn ăn sắp tới, mà thật tình rất muốn đi ăn vậy. Hoặc là con hồ ly này đã nhìn thấu trò bịp trên phố người Hoa, nên mới không xem chuyện sắp gặp ra gì.
Hoài Chân lại hỏi, “Cha mẹ đều ở đó cả sao?”
Cô ấy đáp, “Đương nhiên rồi, chứ không còn ở đâu nữa, hôm nay em về nhà, có bận tới mấy cũng phải gạt sang một bên.”
Trong lòng Hoài Chân lo ngay ngáy, rẽ qua một ngã, Vân Hà lập tức hét to đầy thân thiết với căn phòng nằm gần cửa sổ: “Cha, mẹ, em gái về rồi này!” Lần đầu tiên cô cũng học theo Vân Hà gọi cha mẹ, nhưng vừa mở miệng lại không hề có vẻ đột ngột, giống như đi theo chị hàng xóm đến nhà chị ấy chơi, gặp bà nội dịu dàng điềm đạm của chị ấy, cũng gọi theo một tiếng “bà nội”. Cô biết Ôn Mạnh Băng mà nghe thấy thế có lẽ sẽ thấy ngây thơ, nhiều ít có vẻ diễn kịch. Nhưng cô lại thấy không thành vấn đề, dù chỉ là diễn kịch, cô cũng phải để anh ta biết mình có chỗ dựa ở phố người Hoa.
A Phúc không bất ngờ, có lẽ vì ông đang đưa lưng về phía cửa sổ, nói chuyện cùng một thanh niên mặc trang phục truyền thống, vừa nghe thấy tiếng hai cô gái gọi mình thì ngẩng đầu lên, hiền hậu mỉm cười rồi lại tiếp tục trò chuyện, rất có dáng dấp của thương nhân.
Dĩ nhiên người mặc trang phục truyền thống chính là Tiểu Lục gia rồi —— con tim lơ lửng của Hoài Chân đã được buông xuống.
La Văn lại ngược lại, vừa nghe thấy tiếng gọi “mẹ” thì nước mắt lăn xuống, lập tức đứng dậy gọi Hoài Chân đến ngồi cạnh bà, định ân cần hỏi han một phen.
Nhưng Hồng Lương Sinh nghe thấy tiếng thì xoay lại, một tay vỗ vào ghế bên cạnh anh ta, nói, “Ngồi đây.”
Mắt nhìn thẳng ra sau lưng cô.
Ngay sau đó người sau lưng cũng không cam lòng yếu thế, “Mộng Khanh ở nhà thật sôi nổi.”
Hoài Chân xoay lưng lại, lần lượt giới thiệu với anh ta: Đây là cha, đây là mẹ, đây là —— Tiểu Lục gia.
Thương nhân cười, “Thì ra đây chính là Hồng lục gia tiếng tăm lừng lẫy.”
Hồng Lương Sinh cười, “Tiếng tăm gì?”
Anh ta nói, “ ‘Không được giết người kỳ lạ, giết sẽ thành người trời’, kể ra cũng là lời khen.”
Tất nhiên Hồng Lương Sinh biết anh ta đang trào phúng mình, “Có kỳ lạ hay không cũng bình thường, làm tức chết cha cũng coi như là nhân vật ghê gớm rồi. Vị này là?”
Cô đưa lưng về phía anh ta, liếc mắt nói, “Anh Ôn, người nhà tôi đều đang có mặt ở đây, nếu anh muốn thì tự giới thiệu mình đi.”
Anh ta cũng không giận, “Huyện Anh Đức, Ôn Mạnh Băng.”
A Phúc cười hòa nhã, “Trong số khách Kim Sơn, cậu Ôn mới là nhân vật hạng nhất, mời cậu Ôn ngồi.”
Anh ta đợi Hoài Chân ngồi xuống rồi mới ngồi vào cạnh cô.
A Phúc nói, “Năm trước nhà có hơi túng quẫn, đến Phúc Lâm môn một chuyện là coi như bay hết nửa tháng thu nhập. Hôm nay cô con gái lớn tự kiếm được tiền vào Berkeley, con út cũng có tiền đồ, vì hai cô con gái, người lớn như tôi cũng mặt dày theo người Ý bàn chuyện làm ăn, từ nay về sau không lo học phí, lại càng không lo chi tiêu.”
Ôn thiếu gia mỉm cười lắng nghe, tạm thời không phát biểu.
Hồng Lương Sinh nói, “Muốn ăn ở Phúc Lâm môn, cứ gọi Tiểu Lục gia mời là được.”
La Văn cũng bắt chuyện cười, “Bánh đậu xanh, bánh đậu phộng, cải cuốn mù tạt, bao tử chần, cũng chỉ thỉnh thoảng ăn chơi, sao có thể ăn hoài được?”
Lúc La Văn nói chuyện, Ôn thiếu gia ngẩng đầu nhìn bà.
A Phúc ngắt lời bà: “Vì chuyện làm ăn trong nhà mà vợ tôi nghĩ ra vài sáng kiến không ra gì, chạy đông chạy tây, người làm chồng là tôi vốn không nên. Đợi làm ăn khấm khá, nửa năm sau em gái nghỉ học về nghỉ hè, cũng có một căn phòng ngủ riêng rồi.”
Thương nhân điềm đạm không khách khí tiếp lời, “Không cần phải thế. Boston có căn hộ cho cô ấy đi học ở, mùa hè sao? Mùa hè phải về Vancouver với tôi.”
Nhất thời trên bàn rơi vào im lặng.
Anh ta nói tiếp, “Mộng Khanh gọi điện về mà không nói sao?”
Cô tức giận, “Không nói.”
Vân Hà bảo, “Anh Ôn à, có ở nhà trọ hay không, có về Vancouver hay không, cũng phải để Hoài Chân đồng ý chứ đúng không? Em ấy không muốn, anh cũng không thể ép cô ấy được.”
Ôn thiếu gia nói, “Cô ấy và nhà họ Quý không thân không quen, sao có thể ăn ở chùa.”
Vân Hà nóng nảy, “Thế thì em ấy thân quen gì với anh hả?”
Thấy mặt La Văn cũng tái xanh, Vân Hà còn chưa biết, Hoài Chân vội vã bấu vào chân cô ấy ở dưới gầm bàn.
Ôn thiếu gia cười, “Bánh đậu xanh ở đây không tệ, ngon hơn ở phố người Hoa tại Vancouver.”
Hồng Lương Sinh nói, “Vậy thì gọi thêm hai đĩa nữa.” Một tay vắt lên lưng ghế, lập tức ngoắc tay gọi phục vụ đem bánh lên.
A Phúc nói, “Nếu em gái đã tới nhà chúng tôi thì ấy là cái duyên. Một năm qua, mọi chuyện trong nhà rất thuận lợi, hai chị em cũng học hành nên người…”
Ôn thiếu gia bình tĩnh ngắt lời, “Chú thân là người lớn, để cô ấy bỏ trốn với người da trắng, lại không để ý không hỏi han, chú có biết người kia có lai lịch thế nào không? Nếu không phải tôi cho người đi theo, thì e là chưa chắc hôm nay cô ấy đã có thể sống mà về gặp mọi người rồi.”
Vân Hà nói, “Nước Mỹ vẫn có luật pháp và cảnh sát!”
Ôn thiếu gia nói, “Đào kép A Thông ở sân khấu Grand bỏ trốn cùng con gái mười lăm tuổi ở Kingston, hai tuần sau trên bãi biển thành phố San Francisco xuất hiện thi thể một nam thanh niên trẻ tuổi, chính là A Thông. Hai tháng sau, thi thể của thai nhi con lai được xe ngựa chở đi chôn cùng cha nó ở một bãi biển, thị uy phố người Hoa xách xa chín mươi dặm, Tiểu Lục gia, anh có biết chuyện này không?”
Hồng Lương Sinh cười, “E cũng là chuyện ba mươi năm rồi. Lúc đó tôi còn chưa ra đời, phải hỏi cha tôi mới biết đc —— nước Mỹ cuối thế kỷ trước, quả thật rất loạn.”
A Phúc cũng nói, “Trước khi đi, cậu trai đó đã thề với tôi tuyệt đối sẽ không để con bé bị tổn thương.”
Ôn thiếu gia mỉm cười, “Cậu ta không để cô ấy bị tổn thương? Đúng là gia đình người da trắng chỉ nuôi ra được loại thanh niên ngây thơ dốt nát!”
Hoài Chân không nhịn nổi nữa, “Anh thì biết cái gì?”
Anh ta quay sang, cười nói, “Đợi hai mươi năm nữa em lại hỏi anh ta, có biết rốt cuộc vì sao mẹ cậu ta lại chết vì lao phổi vào đúng một năm sau khi cha con bọn họ rời Hương Cảng không? Chuyện này đã từng xảy ra một lần, thì chắc chắn sẽ có lần hai.”
Lòng Hoài Chân giật thót, nhưng cẩn thận suy nghĩ, may mà không trúng kế anh ta. Giờ đây sắp đến nhiệm kỳ mới, là chính trị gia tất sẽ càng trọng tiếng tăm, sao có thể để một thương nhân Canada không chút liên quan có thể dễ dàng hỏi thăm tai tiếng đó được?
Tiểu Lục gia nói, “Vừa có bạn bè người thân ở San Francisco thương yêu, lại có Ôn thiếu gia quan tâm, nếu mọi người đã muốn tốt cho em gái thì cần gì phải tranh cãi gay gắt với nhau?”
Ôn thiếu gia nói, “Từ khi cô ấy mất tích cho đến nay, tôi vẫn luôn buồn rầu. Hôm nay tìm được cô ấy đúng là may mắn, sẽ không truy cứu những chuyện cũ trước đó nữa, nhưng dĩ nhiên là phải về cùng tôi. Tối mai bay về Vancouver —— xin cám ơn mọi người đã chăm sóc Mộng Khanh trong một năm vừa qua.”
Một ly rượu nóng xuống bụng, giọng vẫn dịu dàng.
Nắm trong tay cái tội phố người Hoa lừa bán vợ anh ta, cho nên khẩu khí mới ghê gớm như vậy.
Tiểu Lục gia nói với anh ta, “Nếu tối mai mới bay thì không gấp.” Rồi lại rót thêm rượu cho anh ta.
Cô nhìn chằm chằm ly rượu nghĩ: rốt cuộc vì lý do gì mà Tiểu Lục gia bình tĩnh như vậy? Không lẽ hạ độc trong rượu?
Nhưng thấy rượu của ba người đàn ông trên bàn đều rót từ một bình mà ra, cô lại cảm thấy không có khả năng này.
Hoài Chân thở phào, rồi lại lập tức sốt ruột.
Tiểu Lục gia nói: “Nếu Ôn thiếu gia muốn muốn nhắc đến chuyện cũ, vậy thì cũng nên bàn cho rõ. Trên đời này oan có đầu nợ có chủ, giống như cha tôi vậy, cuối cùng cũng phải trả nợ máu ngày trước. Đúng là trên phố người Hoa từng làm chuyện kinh doanh có lỗi với người. Lúc cha tôi còn sống, có rất nhiều sản nghiệp chưa bị luật pháp cấm, mà đúng là có vài mối làm ăn đã hại người không ít… Mấy năm trước, thấy tôi đã hơn hai mươi nhưng vẫn chưa có vợ, mới nhờ vợ bé buôn người là nhân tình ngày trước của ông, sắp đặt mua cho tôi một cô con gái Nam Quốc làm vợ. Đúng lúc mấy năm trước có chiến tranh, rất nhiều người đều chuẩn bị ‘người con giấy tờ’, mấy năm gần đây cũng có. Mà Ông Quý và vợ ông ấy là hàng xóm, dĩ nhiên bà ta sẽ hỏi đến nhà bọn họ, gọi bà Quý cùng bà ta về Hương Cảng một lần.”
Ôn thiếu gia bất ngờ, nhưng cũng tập trung lắng nghe không ngắt lời.
Tiểu Lục gia nói tiếp, “Mới đầu bọn họ không tìm được người, hỏi đến đào kép ngày trước tôi về nước coi mắt gặp, sau đó thì đến bến tàu Sán Đầu định xuất phát lên tàu, đúng lúc này gặp được một cô gái mười lăm mười sáu tuổi không biết chữ, lại rất hợp tâm ý của cha tôi. Vợ bé của cha tôi trở về nói với tôi thế này: ‘Chuyện trùng hợp như vậy đấy. Ở cảng Sán Đầu toàn là đám cò hoạt động qua lại ở Hương Cảng San Francisco, rất nhiều cha mẹ Quảng Đông đều bán con gái ở bến tàu, nhỏ thì sáu bảy tuổi, lớn thì mười sáu mười bảy tuổi. Những năm gần đây ăn không đủ no, chỉ còn lại mấy đứa gầy trơ xương, không dễ bán lắm, chỉ một ngàn đồng tiền là có thể mua được chục cô. Lúc chúng tôi đến cảng thì thấy được cảnh đó, mà khi về cũng vẫn là cảnh đó. Đến bến tàu thấy một bà vú dắt một cô gái trắng trẻo, mặc áo bông tím và đi giày vải, mới đầu còn bình thường, mà chẳng mấy chốc đã tẩu tán. Người qua lại đông đúc, lúc đến Thông Tế Long đổi vé, tôi lại thấy bà vú kia chụp tay một gã cò hỏi ‘nghe nói San Francisco có người muốn mua nữ, con gái mười lăm tuổi, vốn là định đến Vancouver kết hôn, sạch sẽ lắm, còn đi vé tàu hạng nhất ba ngàn đồng đến Vancouver. Nếu muốn mua thì đi nói với nó là tôi lên tàu chờ nó, còn mấy người dẫn nó đến tàu tới San Francisco là được.’“
Ôn thiếu gia làm như nghe thấy chuyện cười, “Nếu không phải nghèo tới mức ăn nổi cơm, thì làm gì có chuyện bán con gái?”
Lục thiếu cũng nói, “Đúng thế, làm chuyện này quen rồi nên miệng mồm nói ra câu nào cũng không phải thật, nên Ôn thiếu mới nghe như chuyện cười. Có điều kể ra chuyện cười này cũng là một truyền kỳ, đằng sau còn xuất sắc hơn nữa. Ôn thiếu gia có muốn nghe không?”
Ôn thiếu gia bảo, “Mời Lục thiếu nói.”
Hồng Lương Sinh nói, “Bà vú kia nói, nhà chồng cô ấy đã hủy lá thư tướng công gửi đến, chỉ còn lại mỗi một phong thư ở trên người cô ấy, giữ lại làm bằng chứng cho người môi giới, chứng minh cô gái này mới chỉ là vợ chưa cưới chưa động phòng; còn nói cô ấy không biết chữ, dù có biết cũng không chạy khỏi hải quan. Mẹ nhỏ của tôi mới thấy lạ, bèn hỏi người hầu kia: ‘con dâu cũng là nửa con gái, trong nhà lại có người đang ở nước ngoài, hà cớ gì phải đến mức bán con gái?’ Vú già đó trả lời, ‘gả con gái chủ yếu là vì muốn sính lễ mà thôi, lấy về nhà, yếu đuối nhu nhược, cũng không thể làm tròn chữ hiếu bên cạnh cha mẹ, nay lại còn giống trống khua chiêng muốn đón sang Vancouver, tốn một tấm vé tàu hạng nhất hơn mấy trăm ngàn đồng, đưa qua đó lại tốn thêm tiền ăn học, không biết kiếm được bao nhiêu tiền. Mua con gái ở bến tàu Sán Đầu cũng chỉ mấy chục đồng, lại còn có thể hái trà nấu cơm giúp đỡ trong nhà. Bến tàu nhiều người miệng đông, không bằng để nó lạc ngay ở bến tàu, một trăm đồng, tiền bồi thường cũng sẽ dư nhiều hơn’.”
Ôn thiếu gia nghe xong, bật cười, “Không đúng. Nếu bà vú đã nói cô ấy yếu đuối, thì sao bọn buôn người chịu mua?”
Hồng Lương Sinh nói, “Tôi cũng cảm thấy lạ. Nếu bán con gái thật thì sao lại do người hầu ra mặt được? Nhưng càng kỳ lạ hơn là, phú hộ trà thương đó, vì sao chỉ phái một bà vú đi cùng con dâu chưa từng trải đời đến bến tàu tốt xấu lẫn lộn để xuất dương? Nếu thật lòng quan tâm thì tự mình tới đưa tiễn mới đúng.”
Ôn thiếu gia nói, “Nói tới nói lui, lỗi sai là của nhà tôi?”
Hồng Lương Sinh nói, “Suy cho cùng cũng không phải con gái nhà mình, không yêu thương đủ cũng không có gì sai. Dĩ nhiên người môi giới không tin, ngụy tạo thân phận người con giấy tờ cũng không ai tin, vậy nếu nhà chồng làm mất con dâu thì có tin được không? Chỉ là đẩy một cô gái từ cống nước thối đến một cống ngầm khác. Rồi cô gái đó tự mình bò ra, nắm chặt vận mệnh trong tay mình, từ đấy trở đi chính là tự do của cô ấy, sống hay chết không ai có thể tự tiện quyết định. Cô ấy cũng chỉ là người bị hại, muốn đòi công bằng thì đi mà đòi người làm chuyện thất đức, vì sao lại đòi cô ấy?”
Hoài Chân nghe xong lại ngẩn người: Tiểu Lục gia tính làm gì vậy? Tự cho mình là anh hùng hảo hán, một người làm việc một người gánh vác, cứu cô ra nhưng lại đẩy bản thân và La Văn vào hố lửa?
Ôn thiếu gia bật cười, “Tôi vốn không muốn so đo, không ngờ Hồng Lục gia lại bảo tôi truy cùng diệt tận.”
Hồng Lương Sinh nói, “Đúng.”
Ôn thiếu ga, “Kể ra thì, ngồi đây cũng có người biết chuyện, chỉ sợ không thoát khỏi liên quan.”
Tiểu Lục gia nói, “Mấy chục năm qua, không biết phố người Hoa đã bán mười mấy ngàn người con giấy tờ về Quảng Đông Hương Cảng, không lẽ tất cả mọi người đều phải nhận tội?”
Vân Hà nói, “Nếu Ôn thiếu gia muốn đuổi cùng diệt tận, vậy mẹ tôi đã làm sai chuyện đương nhiên không thoát được… Nhưng xin đừng lấy điều đó ra để uy hiếp Hoài Chân.”
A Phúc nói, “Vân Hà nói đúng lắm.”
La Văn có sai, Hoài Chân không bất ngờ, cũng không biết phải biện bạch thay bà ấy thế nào, nhưng khi nghe A Phúc và Vân Hà nói vậy, cô lại muốn khóc.
Ôn thiếu châm chọc, “Ái chà, dạo này kẻ phạm tội mà cũng chính khí lẫm liệt thế cơ à?”
Hồng Lương Sinh bấm chuông, người phục vụ vừa bưng hai đĩa bánh đậu xanh lên cầm một chiếc hộp sắt tới. Anh ta mở ra, lấy một bản lời khai, một tờ khế ước kết hôn đã xé bỏ, cùng một bản công văn luật pháp giao cho Ôn Mạnh Băng, lại nói, “Mọi tội chứng tôi thu từ chỗ mẹ nhỏ đều nằm đây, mời anh Ôn xem.”
Bản khế ước kết hôn đó chính do Khương Tố vết cho Tiểu Lục gia, mới đầu đã bị xé bỏ ở ngoài đồn cảnh sát, lại cầm công văn luật pháp này đến để làm bằng chứng cho tự do của Hoài Chân.
Ôn Mạnh Băng mở tờ giấy lời khai ra: “Tài liệu này chứng minh An lương đường thừa nhận thỏa thuận sau đây: trước khi ký tên đồng ý, Mộng Khanh là tài sản của Ôn Đức Lương, bây giờ An Lương đường đại diện Hồng Vạn Quân, đồng ý trả cho Ôn Đức Lương ba ngàn đồng bạc…”
Chỉ đọc một câu này, anh ta đã vò mạnh tờ giấy trong tay, sắc mặt trắng bệch nhìn chằm chặp Hồng Lương Sinh: “Anh dám ngụy tạo lời khai, đổi trắng thay đen!”
Hồng Lương Sinh chỉ tay vào ngực mình: “Ôn thiếu tin cũng được mà không tin cũng không sao, có thể đi tìm chứng cứ với tôi. Phố người Hoa nằm ngay đây, người cũng ở đây. Nếu phạm phải sai lầm thì sẽ trừng trị, tuyệt đối tôi sẽ không để kẻ đó chạy mất.”
Ôn thiếu gia nói, “Cha mẹ tôi không thể nào làm chuyện này được.”
Hồng Lương Sinh nói, “Nếu anh muốn gặp người mẹ nhỏ làm môi giới kia thì tôi sẽ cho người gọi tới ngay, bảo bà nói cho anh biết bà ấy đã đối chất thế nào với bà Quý. Có làm hay không, tin hay không, chỉ có hỏi mới biết. Hay là, chính Ôn thiếu gia không định chứng thực?”
Ôn thiếu gia không nói.
Hồng Lương Sinh lại bảo, “Nếu Ôn thiếu gia nghi ngờ chúng tôi bịa đặt lời khai, thì lúc ấy còn có một người khác nữa, cô ấy họ Diệp, nay cũng coi như là người nổi tiếng ở Hoa Kỳ. Anh cứ việc gọi điện hỏi cô ấy trước đây đã có chuyện gì xảy ra ở bến tàu Sán Đầu. Đương nhiên cách tiện lợi nhất chính là tự hỏi người nhà mình. Rốt cuộc bọn họ có bạc đãi cô gái kia không, hẳn trong lòng Ôn thiếu gia rõ ràng hơn chúng tôi nhiều.”