Lúc vào phòng khách, mới đầu cô chỉ thấy mỗi Thompson.
Ông đang nấu hồng trà, vị đắng kia lan tỏa khắp căn phòng – hoặc nói đó là vị thanh lạnh cũng được, nhưng chẳng sao cả, quả thật cô không khoái chuyện quý tộc Anh Quốc thích dùng những món đồ xưa cũ Đông Phương này là bao.
Lúc thấy Thompson cô khá tức giận, bởi vì trong bữa tối không vui ấy, chính mắt cô thấy đầy tớ phục vụ hai đời nhà Muhlenberg này đã bán đứng tiểu chủ nhân của mình thế nào.
Lucinde rất xem thường ông. Nhưng Thompson không hề phát giác chút nào, lại còn quay sang mỉm cười tươi rói với cô – điều này khiến Lucinde vô cùng tức giận. Đã lâu lắm rồi cô mới mất kiểm soát cảm xúc như thế này.
Cô nói với Thompson những câu rất khó nghe, cụ thể thì cô không muốn nhắc lại nữa, đại khái là những lời trách móc mắng nhiếc đầy tớ không ra gì.
Thompson vẫn mỉm cười im lặng lắng nghe, cho tới khi người đằng sau tờ báo mở miệng, “Lucinde, em nổi điên cái gì đấy?”
Lucinde khiếp hãi, lúc này mới nhận ra trong phòng còn có người đang nằm dài trên ghế sofa, dùng báo che kín gương mặt.
Anh mặc áo thể thao màu xanh đậm, lộ ra giữa chiếc quần trắng cắt may tinh tế và đôi dép đế bằng là mắt cá chân – quần áo cũng coi như gọn gàng. Nhưng khi dời tờ báo đi, cô lại nhìn thấy gương mặt xám xịt của anh.
Cô cười châm chọc, “Tạ ơn trời đất, anh vẫn còn sống.”
Ceasar nhếch mép, cả khuôn mặt không khác gì đã chết.
Báo rơi xuống đất, Lucinde cúi đầu nhìn, phát hiện đó là tờ Nhật báo Coastal của tuần trước.
Cô ấy nói ngay, “Anh đúng là bình tĩnh nhỉ. Nếu là em, em chỉ mong có thể bóp chết Thompson ở trong phòng tắm rồi.”
Thompson nhíu mày, “Tôi sợ lắm đấy.”
“Ông ấy cũng chỉ chạy chân cho người khác thôi.” Ceasar nói.
“Vậy là ai tiết lộ?”
“Đương nhiên là Harold, chính người cha thân yêu của anh đã báo cho Arthur biết. Bởi vì anh dùng tài khoản chi phiếu của ông ấy mà. Chuyện của ông ấy, Arthur chưa từng hỏi đến. Chi phiếu là ông ấy giao cho Arthur, vé xe Greyhound cũng do ông ấy phát hiện. Trước giờ anh không đề phòng Harold, nếu không phải ông ấy…”
Lucinde bật thốt, “Không thể nào.”
“Vì sao lại không thể?”
Lucinde ho khan hai tiếng, nghiêm túc nói, “Chuyện này không quan trọng. Hôm nay em muốn nói với anh một chuyện.”
“Chuyện gì?”
Lucinde im lặng một lúc, sau đó nói, “Anh biết chỉ có em là người ngoài là có thể vào phòng anh không?”
Ceasar hơi nhỏm người dậy nhìn cô, tỏ ý cô ấy nói tiếp đi.
Lucinde nhanh chóng nói: “Thấy không ai có thể lấy lại được thẻ căn cước cho anh, cho nên em đã lén trộm thẻ căn cước của một ông anh trai thân yêu của em, đặt một vé máy bay Oakland lúc 8 giờ 30 tối ngày 1 tháng 10. Vào đêm đó, em và anh ấy sẽ đến nhà anh, anh ấy sẽ cùng Arthur tới câu lạc bộ xì gà ở quận Lake. Hôm đó em sẽ bảo anh ấy đội mũ Phaedra và áo khoác màu đen. Sáu giờ rưỡi, em sẽ lên lầu tìm anh. Nếu anh đồng ý cải trang thành anh ấy đi cùng em tới quận Queens.”
Sân bay JFK nằm ngay quận Queens.
Ceasar im lặng nghe xong, nhất thời không có phản ứng gì.
Nhưng cô thấy trong mắt anh dần dần khôi phục thần thái, ánh mắt màu đen đáng chết này dần dà sống lại.
Anh nhìn Thompson.
Thompson lập tức xoay người, đi ra khép cửa phòng khách lại.
Ceasar nhìn Lucinde không chớp mắt, hỏi cô, “Vì sao lại giúp anh?”
Không hiểu sao cơn giận lại bùng phát trong lòng, giọng cô bất giác tăng cao mấy quãng.
Cô lớn tiếng nói, “Anh phải biết là mấy ngày nữa sẽ đến ngày đính hôn, cũng không phải chỉ mỗi mình anh là bị thiệt đâu đấy.”
Nói rồi, cô đột nhiên quay mặt đi, “Nếu anh đổi ý thì có thể đi máy bay sáu giờ sáng ngày thứ hai quay lại đây, em lái xe đến quận Queens chở anh về, tới lúc đó, anh cứ nói với người khác là theo em ra ngoài một đêm, sẽ không ai biết anh đi đâu cả. Sau đó anh cũng có thể hỏi chú Harold, rốt cuộc vì sao lại tố cáo con trai bảo bối của mình. Dĩ nhiên, nếu anh tìm được tình yêu chân chính của mình, không về lại đúng hạn thì em sẽ càng vui hơn. Có điều xét thấy anh không có thẻ căn cước, không có tiền không có chi phiếu, cũng không có cái họ Muhlenberg, em tin chắc anh sẽ thất bại cho xem.”
Nói xong câu cuối cùng, Lucinde còn cười ha ha châm chọc.
Cô cũng không biết cảm giác của mình lúc này là gì. Nếu cô phải sống cả đời với tảng băng trước mắt đây, nếu có ai đó có thể chạy trước đi, thì từ trong thâm tâm cô hy vọng anh có thể vượt ngục thành công.
Đây cũng là lý do vì sao hôm đó Harold hỏi cô, “Tiểu thư Lucinde, cô có đồng ý giúp đỡ Ceasar không?”
Cô không do dự mà trả lời: “Dĩ nhiên là có rồi ạ.”
Cô tin tưởng Muhlenberg thật sự thương con trai mình. Có lẽ đúng là ông – sau khi phát hiện kế hoạch chạy trốn lỗ mãng của Ceasar, đã lựa chọn dứt khoát vạch trần chuyện này.
Có lẽ Harold đang giúp Ceasar thoát khỏi sai lầm mình đã từng phạm phải.
Nhưng cô không nói cho Ceasar biết là Harold đến tìm mình.
Có thế nào đi nữa thì Ceasar cũng không ngờ người giúp mình lại là Lucinde, cũng như vào một tuần trước, dù thế nào anh cũng không tưởng nổi người tố cáo Arthur là Harold.
Anh vẫn nhớ, sau khi mình rời khỏi bàn ăn tối về phòng, thu dọn tiền bạc hiện vật chuẩn bị chạy khỏi cái nơi khiến người ta ngộp thở này, thì Harold lại kịp thời xuất hiện. Trong chớp mắt ông xoay người khép cửa phòng lại, Ceasar đột ngột bừng tỉnh.
Anh lùi về sau hai bước đầy phòng bị, nói với ông, “No, not you, my father.”
(Không, không thể là cha của con được.)
Bất cứ ai cũng có thể, nhưng anh chưa từng nghĩ người đó là Harold.
Anh vẫn nhớ những lời ông tự nhủ năm ấy trên du thuyền viễn dương xuất phát từ Hương Cảng. Ông nói, Ceasar à, hai năm nữa sẽ đón dì Đàn đến Mỹ, có được không?
Hôm đó là ngày anh nhìn thấy nước mắt của người đàn ông này, cũng là lần duy nhất trong đời.
Anh tin nhất định Harold rất yêu người phụ nữ kia, nếu không vì sao ông lại khóc?
Nếu không vì sao ông lại xích mích với Arthur đến nỗi thành thù, cha con giằng co đến nay đã gần 20 năm?
Arthur tự tay gây ra bi kịch của ông, rõ ràng ông có thể cảm nhận sâu sắc sự đau đớn trong đó, sao có thể là ông được?
Nói không chừng điệu bộ ngoan cố bảo thủ của Muhlenberg bảo thủ điệu bộ đã in hằn vào trong gen.
Ngày hôm đó, sau khi khóa cửa phòng lại, Harold nhìn anh chăm chú hỏi: “Sau khi con bỏ trốn thì sao? Nói cho cha biết ý định của con.”
Thế là anh nói, “Chí ít sẽ không giống như cha năm đó, con chắc chắn sẽ không bỏ rơi cô ấy.”
Trong chớp mắt kia, anh nhìn thấy đôi mắt xanh biếc của Harold lóe lên tia sáng, rồi ngay sau đó tối hẳn đi.
Ceasar không rõ đó là vẻ mặt nào, thất vọng, căm giận?
Harold nói tiếp, “This is not a solution.” (Đây không phải là biện pháp giải quyết.)
Trong khoảnh khắc ấy, giọng của ông rất nhẹ.
Nói xong câu trên, Harold xoay người rời đi.
Có hơn một nửa người hầu ở Muhlenberg đang canh chừng dưới cửa sổ phòng anh, anh không thể thoát được sự quản chế của Arthur.
Harold không ghé đến nữa. Mà thực tế cũng không có bất cứ ai đặt chân vào phòng anh nửa bước, ngoại trừ Thompson.
Cho đến hôm nay khi Lucinde đến.
Một đêm chạy đi chạy lại thành phố San Francisco, có thể làm được gì?
Giống như Lucinde đã nói với anh vậy: “Just go. Go and ask her if you still love me.”
(Đi đi, đi hỏi cô ấy còn yêu anh không.)
Sau đó thì sao?
Lúc Ceasar thấy tờ báo Coastal, đột nhiên nghĩ đến nhiều hơn.
More solutions.
Ceasar nhìn thẳng vào mắt Lucinde, nói, “Nói thật, bây giờ anh rất muốn hôn em đấy.”
Lucinde khiếp hồn khiếp vía.
Cô nói, “Nói thật, người không có thẻ căn cước à, em rất hy vọng anh không nên xuất hiện vào rạng sáng ngày mồng 2 tháng 10 ở quận Queens.”
Ceasar cười hỏi, “Vì sao?”
Cô nói, “Vì có những lúc, nhìn anh thật sự khiến người ta phát ốm.”
Ceasar bật cười rồi bảo, “Cám ơn.”
Ceasar kia lại hồi sinh rồi.
Lucinde ngẩng đầu nhìn anh, lòng tự nhủ, nếu ngày hôm sau anh quay lại, nói không chừng em sẽ yêu anh thật.
Bất chợt trong sinh mệnh dài đằng đẵng lại vắng mặt người yêu thương, thì người ấy sẽ trở nên hoàn mỹ không tì vết ở trong lòng bạn. Nếu bạn đánh mất cô ấy, thì cả đời này không một ai có thể thay thế được cô ấy.
Như thế thì cuộc đời của Lucinde sẽ tiêu mất.
Cô không giúp anh. Chỉ là cô đang giúp mình.
Lucinde đứng dậy, gỡ áo khoác ở móc treo trước cửa xuống. Lúc rời đi, cô nói với Ceasar: “See you on Thursday, my cousin.”
(Hẹn gặp lại vào thứ năm, anh họ của em.)