“Cô sẽ lấy một miếng bánh mì bơ ngay cho cháu,” Anne lơ đãng. Lá thư rõ ràng mang tin tức gì đó thú vị, vì đôi má của cô ửng đỏ như những đóa hồng ở bụi hoa lớn ngoài kia, và đôi mắt cô lấp lánh theo kiểu chỉ mình cô mới có được.
“Nhưng cháu không đói bánh mì bơ,” Davy phẫn nộ. “Cháu đói bánh mận cơ.”
“Ồ,” Anne phá lên cười, đặt lá thư xuống và choàng tay ôm chặt Davy, “đó là loại đói có thể dễ dàng chịu đựng được, cậu bé Davy à. Cháu biết đấy, một trong những quy tắc của bà Marilla là các cháu không được ăn gì trừ bánh mì bơ giữa hai bữa ăn.”
“Ồ, vậy thì cho cháu một miếng đi... làm ơn.”
Cuối cùng Davy đã được dạy phải nói “làm ơn”; nhưng thường thì nó hay bỏ quên hai tiếng đó ở tận cuối câu. Nó hài lòng nhìn lát bánh mì dày cộm mà Anne đem tới. “Cô Anne, cô lúc nào cũng trét rất nhiều bơ lên. Bà Marilla thì chỉ phết một lớp mỏng dính. Có nhiều bơ thì dễ nuốt hơn nhiều.”
Nhìn vào sự biến mất nhanh chóng của miếng bánh mì thì xem ra nó đã được “nuốt trôi” một cách khá dễ dàng. Davy trượt khỏi xô pha, lộn nhào hai lần trên tấm thảm rồi ngồi dậy và cương quyết tuyên bố,
“Cô Anne, cháu đã có quyết định về việc lên thiên đường rồi. Cháu không muốn đến đó.”
“Sao vậy?” Anne nghiêm túc hỏi.
“Bởi vì thiên đường ở gác xép nhà Simon Fletcher, mà cháu thì chẳng ưa ông ấy.”
“Thiên đường ở... gác xép nhà Simon Fletcher!” Anne nghẹn giọng, quá ngạc nhiên đến nỗi không thể phá lên cười nổi. “Davy Keith, cái gì khiến cháu có một ý nghĩ kỳ quặc đến thế?”
“Milty Boulter nói vậy mà. Chủ nhật tuần trước ở trường Chủ nhật ấy. Bài giảng nói về Elijah và Elisha, cháu đứng dậy hỏi cô Rogerson là thiên đường ở đâu. Cô Rogerson nhìn có vẻ bực bội kinh khủng. Dù sao thì cô ấy cũng khó chịu nãy giờ rồi, vì khi cô ấy hỏi tụi cháu Elijah để lại cái gì cho Elisha khi ông ta lên thiên đường, Multy Boulter đáp, 'Quần áo cũ', thế là cả đám bọn cháu phá lên cười chẳng ý tứ chút nào. Cháu ước gì mình có thể suy nghĩ kỹ trước khi làm, vì khi ấy cháu sẽ chẳng làm như vậy nữa. Nhưng Milty không có ý báng bổ gì đâu. Chỉ là nó không nghĩ ra tên của vật đó mà thôi. Cô Rogerson nói thiên đường là nơi Chúa ở nên cháu không được hỏi những câu hỏi như vậy. Milty huých cháu thì thầm, ‘Thiên đường ở trên gác xép nhà chú Simon, tớ sẽ giải thít kỹ hơn trên đường về nhà,’ Vậy là trên đường về nhà, nó đã giải thít cho cháu nghe. Milty giỏi giải thít lắm. Dẫu nó không biết gì cả, nó vẫn có thể bịa ra một đống chuyện, và thế là cô nghe giải thít là hiểu liên. Mẹ nó là chị của bà Simon, và nó đi chung với mẹ đến lễ tang của bà chị họ Jane Ellen. Mục sư bảo là chị ấy lên thiên đường, dẫu Milty nói rằng rõ ràng chị ấy đang nằm trong quan tài ngay trước mặt họ. Nhưng nó cho rằng sau đó người ta sẽ đưa quan tài lên gác xép. Khi Milty và mẹ nó lên lầu lấy mũ sau khi lễ tang hoàn tất, nó hỏi mẹ thiên đường mà Jane Ellen đi đến là ở đâu, thế là mẹ nó chỉ lên trần nhà nói, ‘Trên đó.' Milty biết phía trên trần nhà chẳng có gì ngoài cái gác xép, nhờ vậy mà nó mới vỡ lẽ ra. Và từ đó nó sợ khủng khiếp mỗi lần tới nhà chú Simon của nó.”
Anne đặt Davy lên đầu gối rồi gắng sức gỡ thằng bé ra khỏi mớ bòng bong lý luận viển vông này. Cô hợp với công việc này hơn là bà Marilla, vì cô còn nhớ rõ tuổi thơ của mình và có một sự thông cảm bản năng với những ý tưởng đôi khi kỳ quặc của những đứa bé bảy tuổi về những vấn đề vốn vô cùng đơn giản và rõ ràng với người trưởng thành. Cô vừa thuyết phục Davy thành công rằng thiên đường không nằm ở gác xép nhà Simon Fletcher thì bà Marilla từ vườn bước vào, bà và Dora đang hái đậu ở ngoài ấy nãy giờ. Dora là một cô bé chăm chỉ và vui sướng hết mức khi được tham gia “giúp đỡ” các công việc vặt phù hợp với đôi tay mũm mĩm của mình. Cô bé cho gà ăn, nhặt củi vụn, lau đĩa và làm vô số việc vặt. Cô bé gọn gàng, nghe lời và giỏi quan sát, không cần phải chỉ cách làm việc đến lần thứ hai và chẳng bao giờ quên những nhiệm vụ bé nhỏ của mình. Ngược lại, Davy thì lơ đãng và hay quên, nhưng nó có tài thu hút lòng người bẩm sinh, và cả Anne và bà Marilla đều yêu thương nó hơn.
Khi Dora tự hào tách hạt đậu và Davy lấy vỏ đậu làm thuyền, với cột buồm bằng que diêm và buồm bằng giấy, Anne kể cho bà Marilla nghe về nội dung tuyệt vời trong lá thư của mình.
“Ồ, bác Marilla, bác biết gì không? Cháu nhận được thư từ Priscilla và cậu ấy nói bà Morgan hiện đang ở đảo, và nếu trời đẹp thì thứ Năm này họ sẽ đánh xe đến Avonlea và đến nơi vào khoảng mười hai giờ. Họ sẽ ở lại suốt buổi chiều với chúng ta và đến khách sạn ở White Sands vào buổi tối, vì vài người bạn Mỹ của bà Morgan cũng đang ngụ ở đó. Ồ, bác Marilla, thật tuyệt quá phải không? Cháu không thể tin mình đang tỉnh nữa.”
“Ta dám chắc bà Morgan cũng chẳng khác người bình thường mấy đâu,” bà Marilla nói khô khốc, dẫu bản thân bà cũng cảm thấy đôi chút hào hứng. Bà Morgan là một phụ nữ nổi tiếng, chuyến viếng thăm của bà không thể coi là chuyện thường được. “Vậy họ sẽ ăn trưa ở đây sao?”
“Vâng, và ôi, bác Marilla, cháu có thể nấu tất cả các món được không? Cháu muốn mình có thể làm gì đó cho nữ tác giả quyển 'Vườn nụ hồng', dẫu chỉ là một bữa ăn trưa mà thôi. Bác sẽ không phiền, phải không bác?”
“Trời ơi, ta không ham quần quật bên ngọn lửa hừnghực vào tháng Bảy đến mức giận dỗi khi có ai chịu làm thay mình đâu. Cháu muốn làm thì cứ làm đi.”
“Ôi, cảm ơn bác,” Anne nói cứ như bà Marilla vừa ban cho cô một ân huệ thật to lớn, “Đêm nay cháu sẽ suy nghĩ thực đơn.”
“Tốt nhất là cháu đừng có làm quá cầu kỳ,” bà Marilla cảnh báo, hơi lo lắng khi nghe đến từ “thực đơn”. “Nếu không cháu sẽ làm khổ mình đấy.”
“Ôi, cháu không làm gì 'cầu kỳ' đâu, nếu ý bác là làm những món chúng ta không thường dùng trong các dịp lễ hội,” Anne trấn an. “Làm thế thì màu mè quá, và dẫu cháu không đủ khôn ngoan chín chắn như một cô gái mười bảy tuổi và một cô giáo làng lẽ ra phải thế, cháu cũng không ngốc đến vậy đâu. Nhưng cháu muốn mọi thứ tốt đẹp và ngon lành hết mức có thể. Bé Davy, đừng để vỏ đậu lên cầu thang đằng sau... sẽ dễ trượt chân lắm. Cháu sẽ khai vị bằng một món xúp nhẹ... bác biết cháu làm món xúp kem hành rất ngon mà... rồi một vài con gà quay. Cháu sẽ làm thịt hai con gà trống trắng. Cháu thực sự rất mến hai con gà này, chúng chẳng khác gì vật cưng trong nhà kể từ khi con gà mái xám chỉ ấp nở ra mỗi hai con gà con... những túm lông vàng như quả bóng. Nhưng cháu biết sớm muộn gì cũng phải hy sinh chúng, và chắc chắn không có dịp nào xứng đáng hơn dịp này. Nhưng bác Marilla ơi, cháu không thể giết chúng... ngay cả là vì bà Morgan. Cháu sẽ phải nhờ John Henry Carter ghé qua làm giúp cháu thôi.”
“Để cháu làm cho,” Davy xung phong, “nếu bà Marilla giữ chặt chân chúng, vì cháu nghĩ mình phải dùng cả hai tay để giữ cái rìu. Thật là vui kinh khủng khi nhìn thấy lũ gà nhảy loi choi với cái đầu cụt.”
“Rồi cháu sẽ làm món đậu Hà Lan, đậu cô ve, khoai tây xốt kem và rau diếp trộn, đó là món rau,” Anne tiếp, “còn món tráng miệng sẽ là bánh chanh phủ kem đánh bông, cà phê, pho mát và bánh lưỡi mèo. Mai cháu sẽ làm bánh chanh và bánh lưỡi mèo rồi giặt ủi cái váy xa tanh màu trắng. Và cháu sẽ phải báo cho Diana ngay tối nay, vì cậu ấy cũng sẽ muốn giặt ủi cái váy của mình. Những nữ nhân vật chính trong truyện của bà Morgan gần như lúc nào cũng mặc váy xa tanh trắng, Diana và cháu đã quyết định sẽ mặc váy xa tanh trắng nếu có dịp gặp bà ấy. Đó chính là một lời khen ngợi tế nhị, bác có nghĩ vậy không? Davy yêu quý, cháu không được nhét vỏ đậu vào vết nứt trên sàn. Cháu phải mời ông bà Allan và cô Stacy đến dùng bữa trưa nữa, bởi vì họ cũng rất mong mỏi được gặp bà Morgan. Thật may là bà ấy đến đây lúc cô Stacy ghé thăm. Davy yêu quý, đừng thả vỏ đậu vào thùng nước... hãy ra ngoài máng xối ấy. Ồ, cháu thực sự hy vọng thứ Năm trời đẹp, và cháu tin là thế, vì bác Abe khi đến thăm ông Harrison tối qua đã nói là trời sẽ mưa gần như suốt tuần.”
“Đó là dấu hiệu tốt đấy,” bà Marilla đồng ý.
Tối hôm đó Anne chạy băng qua dốc Vườn Quả để báo tin cho Diana, cô nàng cũng hết sức phấn khởi khi nghe tin, hai người bạn bắt đầu tính toán công việc trên chiếc võng đong đưa dưới cây liễu cổ thụ trong vườn nhà Barry.
“Ồ, Anne, tớ có thể giúp cậu nấu ăn được không?” Diana van nài. “Cậu biết là tớ làm món rau diếp trộn ngon tuyệt mà.”
“Được, cậu cứ làm đi.” Anne không ích kỷ chút nào. “Và tớ cũng muốn cậu giúp tớ trang trí nhà cửa nữa. Tớ muốn biến phòng khách thành một vườn hoa... và cắm hoa hồng dại trên bàn ăn. Ôi, tớ hy vọng mọi chuyện sẽ suôn sẻ. Các bậc anh thư của bà Morgan chẳng bao giờ gặp rắc rối do cư xử dại dột hoặc bị rơi vào tình thế bất lợi, bọn họ lúc nào cũng bình tĩnh và là những người nội trợ tuyệt vời. Họ dường như bẩm sinh đã là như vậy. Cậu còn nhớ nhân vật Gertrude trong 'Những ngày ở Edgewood' trông coi nhà cửa cho cha lúc cô bé chỉ mới tám tuổi không? Hồi tám tuổi, ngoài trông trẻ ra thì tớ chẳng biết làm gì. Bà Morgan nhất định phải là một chuyên gia về con gái vì bà ấy đã viết nhiều như vậy về các cô gái cơ mà, vậy nên tớ muốn bà ấy đánh giá cao chúng mình. Tớ đã tưởng tượng đến chục lần... bà ấy trông như thế nào, bà ấy sẽ nói gì và tớ sẽ đáp lại ra sao. Và tớ lo cho cái mũi của tớ quá. Cậu thấy đấy, bên trên có tới bảy nốt tàn nhang lận. Đó là do bữa dã ngoại của Hội cải tạo, tớ ra ngoài nắng mà không đội mũ. Tớ cho rằng thật vô ơn khi lo lắng về chúng khi mà lẽ ra tớ phải tạ ơn trời vì chúng đã không lan ra khắp mặt tớ như hồi xưa; nhưng thực sự là tớ mong chúng đừng có xuất hiện... Các bậc anh thư của bà Morgan đều có làn da hoàn hảo cả. Tớ chả nhớ được có ai có tàn nhang hay không.”
“Mấy nốt tàn nhang của cậu không rõ rệt lắm đâu,” Diana an ủi. “Tối nay thoa một ít nước chanh lên thử xem.”
Ngày hôm sau, Anne làm bánh nướng và bánh lưỡi mèo, ủi cái váy xa tanh, quét và phủi bụi mọi phòng trong nhà... một quy trình tương đối không cần thiết vì cũng như thường lệ, Chái Nhà Xanh sạch bong ngăn nắp như ý bà Marilla. Nhưng Anne vẫn cảm thấy chỉ một hạt bụi thôi cũng làm ô uế căn nhà sắp có vinh dự được Charlotte E. Morgan viếng thăm. Cô thậm chí còn dọn dẹp sạch sẽ cái tủ chứa đồ tạp nhạp dưới gầm cầu thang, dẫu chẳng có tí xíu khả năng bà Morgan sẽ nhìn ngó vào bên trong đó chút nào.
“Nhưng cháu muốn cảm thấy nó thực sự ngăn nắp, dẫu bà ấy không có dịp thấy nó,” Anne nói với bà Marilla. “Bác biết đấy, trong quyển 'Chìa khóa vàng', bà ấy đã để hai nữ nhân vật chính Alice và Louisa chọn phương châm làm việc theo đoạn thơ của Longfellow:
“'Vào những ngày nghệ thuật xa xưa,
Các thợ xây làm việc cần cù
Vào mỗi giây phút và tại mỗi góc khuất,
Bởi các vị thần nhìn khắp muôn nơi,’
Và vì vậy bọn họ luôn cọ sạch cầu thang xuống tầng hầm và không bao giờ quên quét bụi dưới gầm giường. Lương tâm cháu sẽ cắn rứt nếu cháu biết cái tủ này lộn xộn khi bà Morgan đang ở trong nhà. Kể từ khi đọc quyển 'Chìa khóa vàng' tháng Tư vừa rồi, Diana và cháu cũng đã chọn đoạn thơ trên làm kim chỉ nam cho mình.”
Tối hôm đó, John Henry Carter và Davy hợp tác xử tử hai con gà trống trắng, Anne vặt lông hai con gà mập ú, công việc đáng tởm thường ngày giờ lại có vẻ đẹp đẽ hơn trong mắt cô.
“Cháu không thích vặt lông gà,” cô nói với bà Marilla, “nhưng thật may chúng ta không cần phải đặt cả tâm hồn vào việc mà tay chúng ta đang làm. Cháu dùng tay vặt lông gà, nhưng trí tưởng tượng của cháu đang dạo chơi trên dải Ngân Hà.”
“Ta thấy cháu làm vung vãi lông ra sàn nhiều hơn bình thường đấy,” bà Marilla nhận xét.
Sau đó Anne cho Davy đi ngủ và bắt nó hứa mai sẽ cư xử ngoan ngoãn.
“Nếu cháu cố gắng ngoan hết mức vào ngày mai, liệu cô có thể cho phép cháu tha hồ hư vào ngày mốt không?” Davy hỏi.
“Cô không thể làm vậy,” Anne thận trọng dụ dỗ, “nhưng cô sẽ dẫn cháu và Dora đi bơi thuyền tới cuối hồ, và rồi chúng ta sẽ lên bờ cát ăn uống ngoài trời.”
“Đúng là một món hời,” Davy kêu lên. “Cháu sẽ ngoan mà, cô yên tâm đi. Cháu vốn định chạy sang nhà ông Harrison bắn hạt đậu từ súng hơi mới vào con Gừng, nhưng chuyện đó để sang hôm khác cũng được. Cháu cứ nghĩ ngày mai sẽ chán như Chủ nhật, nhưng dã ngoại ở bờ hồ thì cũng đủ để đền bù rồi.”