“Đó là Marilla quay về từ đám tang,” bà nói với chồng đang nằm trên ghế dài trong bếp. Dạo gần đây Thomas Lynde thường nằm dài trên ghế nhiều hơn lúc trước, nhưng tuy mắt bà Rachel thừa tinh nhanh để nắm bắt mọi chuyện xảy ra bên ngoài nhà, bà vẫn chưa chịu để ý đến tình trạng của ông chồng. “Và cô ấy đem theo hai đứa song sinh... đúng vậy, Davy nhoài người ra khỏi chắn bùn nắm lấy đuôi con lừa và Marilla kéo nó lại. Dora ngồi ngay ngắn trên ghế không có gì để chê trách. Con nhỏ lúc nào cũng nhìn như vừa được hồ bột và ủi phẳng. Ôi, Marilla đáng thương sẽ bận túi bụi mùa đông này cho xem. Thế nhưng trong hoàn cảnh của cô ấy thì tôi nghĩ cô ấy không thể làm gì khác hơn, với lại còn có Anne giúp cô ấy nữa. Anne nhiệt liệt ủng hộ kế hoạch này của Marilla và tôi phải nói là cô nàng rất khéo dỗ dành trẻ con. Ôi trời, dường như mới đây thôi Matthew đáng thương vừa đem Anne về nhà và mọi người cười cợt trước ý định nhận nuôi con bé của Marilla. Thế mà bây giờ cô ấy còn lãnh trách nhiệm nuôi hai đứa song sinh nữa. Đúng là còn sống thì không thể tránh khỏi bất ngờ.”
Con ngựa béo mập chạy nước kiệu qua cây cầu trong Thung Lũng Lynde và dọc theo con đường dẫn vào Chái Nhà Xanh, vẻ mặt của bà Marilla khá u ám. ở đây cách Đông Grafton mười dặm, và suốt đường đi Davy Keith như bị ma nhập, cứ loay hoay không ngừng. Bà Marilla không tài nào bắt nó ngồi yên và bà cứ lo ngay ngáy nó sẽ ngã ngửa ra khỏi xe ngựa rồi gãy cổ hay nhào xuống chắn bùn dưới chân con ngựa. Trong nỗi tuyệt vọng, cuối cùng bà hăm dọa sẽ đập nó một trận khi về đến nhà. Nghe vậy, Davy trèo vào lòng bà, chẳng thèm để ý gì đến dây cương, choàng đôi tay mũm mĩm quanh cổ bà và ôm bà thật chặt.
“Cháu không tin bà sẽ làm vậy,” nó nói, hôn thật kêu và tình cảm lên đôi má nhăn nheo của bà. “Bà không giống như một người đánh đòn trẻ con vì nó không chịu ngồi yên. Khi bà bằng tuổi cháu, bà có cảm thấy rất khó khăn nếu phải ngồi yên một chỗ không?”
“Không, bà luôn ngồi yên mỗi khi được bảo phải làm thế,” bà Marilla cố giữ giọng nghiêm khắc, dẫu trái tim bà đã mềm đi sau những hành động âu yếm bốc đồng của Davy.
“À, chắc vì bà là con gái đấy,” Davy giải thích, oằn người ngồi lại chỗ cũ sau một cái ôm nữa. “Cháu cho rằng bà từng là một cô gái, tuy rằng hình ảnh ấy tức cười thật. Dora có thể ngồi yên... nhưng cháu nghĩ chẳng có gì vui nếu làm vậy. Cháu thấy làm con gái thật chán phèo. Này, Dora, để anh làm em trở nên sinh động chút nhé.”
Cách “làm cho sinh động” của Davy là dùng tay tóm lấy mấy lọn tóc của Dora và giật mạnh. Dora ré lên rồi òa khóc.
“Sao cháu có thể quấy phá như thế khi người mẹ của cháu vừa an nghỉ dưới mồ ngay ngày hôm nay?” bà Marilla hỏi vẻ tuyệt vọng.
“Nhưng mẹ rất vui khi chết,” Davy nói vẻ tin chắc. “Cháu biết, vì mẹ đã nói với cháu như vậy. Bị bệnh hoài làm mẹ mệt mỏi lắm rồi. Mẹ và cháu đã trò chuyện rất lâu cái đêm trước khi mẹ chết. Mẹ nói với cháu rằng bà sẽ nuôi cháu và Dora suốt mùa đông và cháu phải ngoan ngoãn. Cháu sẽ ngoan ngoãn, nhưng có thể vừa chạy lòng vòng vừa ngoan ngoãn được không ạ? Mẹ còn dặn cháu phải luôn đối xử tốt với Dora và bảo vệ em, cháu đang làm như vậy đấy.”
“Cháu cho kéo tóc nghĩa là đối xử tốt với em à?”
“À, cháu sẽ không để bất cứ ai kéo tóc của em,” Davy siết chặt hai nắm tay và nhăn mặt. “Cứ thử làm xem. Cháu không làm em đau nhiều đâu... em chỉ khóc vì em là con gái thôi. Cháu rất vui khi cháu là con trai, nhưng thật buồn khi chúng cháu là anh em song sinh. Mỗi khi em gái của Jimmy Sprott cãi lời thì nó chỉ cần bảo, 'Anh lớn hơn em nên đương nhiên anh biết nhiều hơn’ và thế là con bé câm miệng. Nhưng cháu không thể lên giọng với Dora như vậy, và thế là nó cứ tiếp tục suy nghĩ khác cháu. Bà hãy để cháu lái con ngựa này chút đi, vì cháu là đàn ông mà.”
Tóm lại, bà Marilla mừng hết sức khi về đến sân nhà, nơi gió thu đêm đang đùa giỡn với lá vàng. Anne đứng ngoài cổng đón họ và đỡ hai đứa song sinh ra khỏi xe. Dora bình thản cho phép cô hôn, nhưng Davy ôm chặt lấy Anne thay lời chào và vui vẻ tự giới thiệu, “Cháu là ông Davy Keith.”
Trên bàn ăn tối, Dora cư xử như một quý cô bé nhỏ, nhưng hành vi của Davy thì cần phải sửa đổi nhiều.
“Cháu đói bụng quá nên không có thời giờ ăn lịch sự,” nó nói khi bị bà Marilla nhắc nhở.
“Dora chỉ đói chưa tới một nửa của cháu. Cứ xem những chuyện cháu đã làm trên đường đến đây đi. Bánh ngon tuyệt và có nhiều mận khô thật. Lâu lắm rồi chúng cháu không
được ăn bánh, vì mẹ bệnh quá chẳng làm bánh được, còn bà Sprott nói chỉ làm bánh mì cho chúng cháu thôi cũng đã mệt chết rồi. Và bà Wiggins thì chẳng bao giờ bỏ mận vào bánh của bà ấy cả. Cháu đã bắt gặp tận mắt! Cháu ăn một miếng nữa nhé?”
Bà Marilla định từ chối nhưng Anne cắt cho thằng nhóc một lát bánh to đùng. Dù sao thì cô cũng nhắc Davy rằng nó phải nói cảm ơn. Davy chỉ nhăn răng cười với cô rồi ngoạm một miếng to đùng. Khi đã ăn sạch sẽ, nó nói,
“Nếu cô cho cháu một miếng nữa, cháu sẽ nói cảm ơn cho miếng đó.”
“Không, cháu ăn nhiều bánh lắm rồi,” bà Marilla nói với giọng dứt khoát mà Anne đã quá quen, nhưng Davy thì còn phải học dài dài.
Davy nháy mắt với Anne rồi chồm qua bàn giật lấy lát bánh đầu tiên của Dora ra khỏi tay cô bé, cô bé mới điệu đàng cắn được một miếng nhỏ xíu. Davy mở to miệng hết cỡ rồi nhét nguyên cả lát bánh vào mồm. Dora môi run rẩy muốn khóc còn Marilla lặng người kinh hoàng. Anne lập tức kêu lên với giọng “cô giáo làng” đúng tiêu chuẩn,
“Ồ, Davy, các quý ông không hành động như vậy.”
“Cháu biết họ không làm vậy,” Davy nói khi nó mở miệng ra được, “nhưng cháu không phải là một quý ông.”
“Nhưng cháu không muốn trở thành một quý ông sao?” Anne sững sờ.
“Đương nhiên là có. Nhưng khi nào lớn thì mới thành quý ông được.”
“Ồ, không phải vậy đâu,” Anne vội nói, cho rằng mình đã tóm được cơ hội gieo một hạt giống sớm. “Khi chỉ là một cậu bé, cháu có thể bắt đầu tập luyện để trở thành một quý ông. Và một quý ông không bao giờ giật đồ ăn của các quý bà... hay quên nói lời cảm ơn... hay kéo tóc của bất cứ ai.”
“Họ chẳng có gì vui cả, đó là sự thật,” Dave nói thẳng. “Cháu nghĩ cháu sẽ đợi cho đến khi lớn thì mới trở thành quý ông.”
Vẻ cam chịu, bà Marilla cắt thêm một miếng bánh khác cho Dora. Bà cảm thấy không thể quản nổi Davy vào lúc này. Hôm nay là một ngày vất vả đối với bà, đám tang và một chuyến đi dài. Vào lúc đó, bà nhìn về tương lai với sự bi quan có thể gây ấn tượng với cả Eliza Andrews.
Hai đứa trẻ song sinh không giống nhau lắm, dẫu cả hai đều tóc vàng. Dora có những lọn tóc dài mượt không bao giờ rời khỏi nếp. Tóc Davy thì xoăn tít rối bù. Đôi mắt nâu nhạt của Dora vừa dịu dàng vừa hiền lành, còn mắt của Davy trông láu lỉnh và tinh quái như yêu tinh lùn. Mũi Dora thẳng còn mũi Davy thì hếch lên trời; Dora có cái miệng “nhỏ nhẹ õng ẹo” còn Davy lúc nào cũng tươi cười; và hơn nữa, nó có một lúm đồng tiền ở một bên má, nhưng má bên kia thì chẳng có gì, vì vậy, mỗi khi cười, khuôn mặt của Davy không cân xứng một cách đáng yêu và buồn cười. Sự tinh nghịch và phá phách hiện rõ ở mỗi ngóc ngách trên khuôn mặt bé nhỏ của nó.
“Đến giờ ngủ rồi,” bà Marilla nói, cho rằng đó là cách dễ dàng nhất để thoát khỏi hai đứa trẻ. “Dora sẽ ngủ với bác cháu ta còn Davy ngủ ở chái Tây. Cháu không sợ ngủ một mình phải không, Davy?”
“Không, nhưng còn lâu lắm cháu mới đi ngủ,” Davy thoải mái đáp.
“Ồ không, cháu phải đi ngủ bây giờ.” Bà Marilla đã bị nó qua mặt nhiều lần, nhưng có gì đó trong giọng của bà lần này khiến cho cả Davy cũng phải co vòi. Nó lóc chóc chạy lên lầu với Anne một cách ngoan ngoãn.
“Khi nào lớn, chuyện đầu tiên cháu làm là thức suốt đêm để xem xem thức suốt đêm là thế nào”. Davy tiết lộ.
Những năm sau đó; mỗi lần nghĩ tới tuần đầu tiên hai đứa trẻ sinh đôi đến ở Chái Nhà Xanh, bà Marilla không khỏi rùng mình. Nói thế không phải mọi chuyện tốt hơn ở những tuần tiếp theo, nhưng ít nhất thì nó cũng không còn gây sốc cho bà nữa. Hiếm có phút nào trong ngày mà Davy không nghịch phá hay bày trò nghịch phá, nhưng “chiến tích” đáng kể đầu tiên của nó xảy ra hai ngày sau khi nó đến Chái Nhà Xanh, một sáng Chủ nhật... trời đẹp và ấm, mù sương và dễ chịu như một ngày tháng Chín. Anne đóng bộ cho nó để đi nhà thờ trong khi bà Marilla lo cho Dora. Ban đầu Davy cương quyết phản đối không để cô rửa mặt cho nó.
“Bà Marilla đã rửa hôm qua rồi... bà Wiggins thì dùng xà phòng cứng chà mặt cháu hôm đám tang. Thế là đã đủ cho một tuần rồi. Sạch sẽ chẳng có gì hay, cháu thấy thế. Ở dơ thoải mái hơn nhiều.”
“Paul Irving tự rửa mặt mỗi ngày đấy,” Anne khéo léo khích tướng.
Davy chỉ mới trở thành cư dân của Chái Nhà Xanh hơn bốn mươi tám tiếng đồng hồ một chút nhưng nó đã tôn thờ Anne và căm ghét Paul Irving, nó đã nghe Anne khen cậu ta rối rít ngay hôm sau ngày nó đến. Nếu Paul Irving rửa mặt mỗi ngày, thế thì đành vậy. Nó, Davy Keith cũng sẽ làm được, dẫu có phải rửa mặt đến chết cũng chẳng sao. Với suy nghĩ tương tự, nó ngoan ngoãn tuân theo mọi yêu cầu vệ sinh cá nhân khác, và khi xong việc, nó trở thành một cậu bé con thật bảnh trai. Anne cảm thấy tự hào như một người mẹ khi dắt nó vào chỗ ngồi dành riêng cho nhà Cuthbert.
Ban đầu thì Davy cư xử khá tốt, bận bịu liếc mắt nhìn tất cả những thằng nhóc khác trong tầm mắt và đoán xem Paul Irving là đứa nào. Hai bài thánh ca và đọc thánh kinh trôi qua không có gì đáng nói. Ông Allan đang cầu nguyện thì có náo động xảy ra.
Lauretta White ngồi ngay phía trước Davy, cô bé hơi cúi đầu, mái tóc vàng được tết thành hai bím, ở giữa là khoảng gáy trắng ngần và cổ áo viền đăng ten đầy mời gọi. Lauretta mới tám tuổi, hơi mũm mĩm và vẻ mặt hiền lành, cư xử ngoan ngoãn hết chỗ chê kể từ ngày đầu tiên được mẹ dẫn tới nhà thờ, khi đó cô bé mới sáu tháng tuổi.
Davy thọc tay vào túi móc ra một... con sâu lông lá đang giãy giụa. Bà Marilla nhìn thấy và chộp lấy thằng nhóc nhưng đã quá muộn. Davy thả con sâu vào cổ của Lauretta.
Ngay giữa bài cầu nguyện của mục sư Allan, một tiếng thét chói tai vang lên. Viên mục sư ngơ ngác dừng lại và mở mắt. Mọi mái đầu trong giáo đoàn đều ngẩng lên. Lauretta White nhảy tưng tưng trong dãy ghế, hốt hoảng giữ chặt đằng sau váy.
“Úi... mẹ ơi... mẹ ơi... úi... bắt nó ra... a a... bắt nó ra... úi... thằng xấu đó bỏ nó vào gáy con... úi... mẹ ơi... nó đang bò xuống... úi... úi... úi...”
Bà White đứng lên, mặt nghiêm nghị kéo Lauretta đang hoảng loạn và quằn quại ra khỏi nhà thờ. Tiếng thét của cô bé nhỏ dần và ông Allan lại tiếp tục cầu nguyện. Nhưng mọi người đều cảm thấy buổi cầu nguyện hôm đó đã thất bại. Lần đầu tiên trong cuộc đời bà Marilla không để ý gì đến lời của mục sư và Anne mặt đỏ bừng vì xấu hổ.
Khi về đến nhà, bà Marilla đầy Davy vào phòng ngủ và bắt nó ở trong đó suốt phần còn lại của ngày. Bà không cho nó ăn trưa mà chỉ cho phép uống một ly sữa và ăn bánh mì suông. Anne bưng thức ăn lên cho nó và buồn bã ngồi xuống bên cạnh trong khi nó ăn ngấu nghiến chẳng chút hối hận gì. Nhưng đôi mắt trách móc của Anne làm nó không yên lòng.
“Cháu chắc là,” nó trầm ngâm, “thằng Paul Irving sẽ không bao giờ bỏ sâu vào gáy của con gái trong nhà thờ phải không?”
“Quả thực là bạn ấy sẽ không làm vậy,” Anne buồn bã đáp.
“Ồ, vậy thì cháu cũng có chút hối hận vì đã làm vậy,” Davy nhượng bộ. “Nhưng con sâu đó thật là ngon mắt... Cháu bắt nó từ bậc thềm nhà thờ khi chúng ta vừa bước vào. Lãng phí nó thì thật là tiếc. Và chẳng phải nghe đứa con gái đó gào thét rất là vui sao?”
Chiều thứ Ba, Hội Từ thiện tụ họp ở Chái Nhà Xanh. Anne vội đi từ trường về nhà, vì cô biết bà Marilla rất cần giúp đỡ. Dora, sạch sẽ và ngoan ngoãn trong bộ váy trắng hồ bột xinh xắn và khăn choàng đen ngồi chung với thành viên của Hội Từ thiện trong phòng khách, từ tốn trả lời mỗi khi được hỏi, im lặng khi không ai gọi và cư xử như một đứa trẻ gương mẫu trong mọi hoàn cảnh. Davy, lem luốc một cách vui sướng, đang làm bánh bùn ở sân kho.
“Bác đã cho phép nó,” bà Marilla mệt mỏi thốt. “Bác nghĩ nó sẽ không giở trò nghịch phá tồi tệ hơn. ít nhất như vậy thì nó chỉ bị bẩn thôi. Chúng ta sẽ uống trà trước rồi mới gọi nó vào ăn. Dora có thể ăn cùng chúng ta, nhưng bác không bao giờ dám cho Davy ngồi chung với các thành viên của Hội Từ thiện.”
Khi Anne ra mời các thành viên Hội Từ thiện vào dùng trà thì cô phát hiện ra Dora không có mặt trong phòng khách. Bà Jasper Bell nói rằng Davy bước vào cửa chính và gọi cô bé ra ngoài. Cô chạy vội xuống phòng lương thực hỏi ý kiến bà Marilla, cuối cùng họ quyết định sẽ cho hai đứa trẻ uống trà chung sau đó.
Bữa trà đang dang dở thì một bóng người bé nhỏ bơ vơ xuất hiện trong phòng khách. Bà Marilla và Anne hết hồn, còn Hội Từ thiện thì hết sức ngạc nhiên. Đó là Dora sao... một cô bé chẳng nhìn được mặt mũi ra sao đang khóc thút thít, váy rách rưới, nước từ tóc và váy không ngừng chảy ròng ròng xuống tấm thảm mới tinh tươm của bà Marilla.
“Dora, có chuyện gì vậy cưng?” Anne kêu lên, liếc sang bà Jasper Bell vẻ có lỗi, gia đình của bà ta nghe đồn là gia đình duy nhất trên thế giới chưa hề xảy ra một chuyện không mong muốn nào.
“Davy bắt cháu đi trên hàng rào chuồng lợn,” Dora kể lể. “Cháu không muốn đi nhưng anh ấy gọi cháu là đồ nhát gan. Rồi cháu ngã vào chuồng lợn, váy bị dơ và lợn giẫm lên người cháu. Váy của cháu tơi tả rồi nhưng Davy nói nếu cháu đứng dưới vòi nước thì anh ấy sẽ rửa sạch cho, cháu nghe theo, anh ấy xịt nước đầy người cháu nhưng váy cháu chẳng sạch hơn chút nào, khăn choàng và giày đẹp của cháu bị hư hết rồi.”
Anne nhận vinh dự chủ trì bữa ăn trong suốt thời gian còn lại, còn bà Marilla lên lầu mặc lại áo cũ cho Dora. Davy bị túm cố tống đi ngủ mà không được ăn tối. Lúc chạng vạng, Anne đến phòng thằng bé nói chuyện nghiêm túc với nó... đó là phương pháp giáo dục cô rất tin tưởng, kết quả cho đến nay cũng chứng tỏ phương pháp này không phải hoàn toàn không có cơ sở. Cô bảo rằng cô cảm thấy buồn khi nó cư xử như vậy.
“Giờ thì cháu cũng hối hận rồi,” Davy thú nhận, “nhưng vấn đề là cháu chẳng bao giờ thấy hối hận cho tới khi làm xong việc cả. Dora không chịu giúp cháu làm bánh bùn vì sợ hỏng quần áo, và điều đó làm cháu tức điên lên. Cháu cho rằng Paul Irving sẽ không bắt em gái đi trên hàng rào chuồng lợn nếu biết là cô nàng sẽ té chứ?”
“Không, cậu ấy sẽ không bao giờ nghĩ tới chuyện đó. Paul là một quý ông nhỏ bé hoàn hảo.”
Davy nhắm tịt mắt lại rồi tỏ vẻ suy nghĩ hồi lâu. Sau đó nó vươn người choàng tay quanh cổ Anne, dụi khuôn mặt đỏ ửng vào vai cô.
“Cô Anne, cô có thương cháu chút xíu nào không, dẫu cháu không ngoan như Paul?”
“Thực sự là có,” Anne nói thật. Chẳng biết sao nhưng thật khó mà không thương Davy.
“Nhưng cô sẽ thương cháu nhiều hơn nếu cháu không quá nghịch phá như vậy.”
“Hôm nay... cháu còn làm một chuyện khác nữa,” Davy nghèn nghẹn. “Cháu hối hận rồi nhưng cháu sợ khủng khiếp không dám nói với cô. Cô đừng quá giận cháu, cô nhé? Và cô đừng kể với bà Marilla, cô nhé?”
“Cô không chắc, Davy à. Có lẽ cô sẽ phải kể cho bác Marilla biết. Nhưng cô nghĩ mình có thể hứa không kể nếu cháu hứa với cô cháu sẽ không lặp lại nữa, dù đó là chuyện gì.”
“Không, cháu sẽ không bao giờ làm vậy nữa. Dù sao thì cháu cũng chẳng có cơ hội tìm thêm được con nào giống nó trong năm nay. Cháu tìm thấy nó trên bậc thềm tầng hầm.”
“Davy, cháu đã làm gì?”
“Cháu bỏ con cóc vào giường của bà Marilla. Cô có thể đi bắt nó ra nếu cô muốn. Nhưng này, cô Anne, để nó luôn ở đó chẳng phải vui hơn sao?”
“Davy Keith!” Anne đứng bật dậy, nhoài khỏi vòng tay ôm của Davy và chạy như bay qua hành lang vào phòng bà Marilla. Khăn trải giường hơi nhăn. Cô vội vã run rẩy lật chăn lên và quả thực có một con cóc đang chớp mắt với cô từ dưới một cái gối.
“Làm sao mình đem cái đồ gớm ghiếc ấy ra ngoài được?” Anne rùng mình rên rỉ. Cô nghĩ ra chiếc xẻng xúc than bèn rón rén xuống lấy nó trong lúc bà Marilla bận bịu ở phòng lương thực. Anne cũng khó khăn lắm mới đem con cóc xuống dưới nhà được, vì nó nhảy ra khỏi cái xẻng ba lần, và có một lần cô tưởng mình đã mất nó ở hành lang. Cuối cùng, khi đã đặt nó an vị ở vườn anh đào, cô thở ra một hơi dài nhẹ nhõm.
“Nếu bác Marilla biết thì suốt đời bác ấy sẽ không bao giờ dám chui vào giường nữa. Mình thật mừng là tên tội phạm bé nhỏ ấy hối hận kịp lúc. ồ, Diana đang ra hiệu cho mình từ cửa sổ nhà cậu ấy. Mừng quá... Mình quả thật cần được vui vẻ đôi chút, bởi với Anthony Pye ở trường và Davy Keith ở nhà, thần kinh của mình đã quá đủ căng thẳng cho một ngày rồi.”