Cá tính chàng tuy cô lẻ và nặng ưu phiền, song bản tính quật cường, không bao giờ cúi đầu chịu thua trước mệnh số.
Phen này chàng liên tục hai lần bị người đá bức lui với cùng một chiêu thức giống nhau khiến chàng trong kinh ngạc lại còn kèm theo ý thức phản kháng mãnh liệt. Chàng thầm nhủ:
“Ta thật chẳng thể nào tin được với sự khổ tập mười mấy năm trên Nhật Nguyệt sơn lại không thể đỡ được một chiêu của một người đá được điều khiển bằng máy móc”.
Dẫu sao chàng cũng chẳng phải là người sớn sác, sau một hồi ngẫm nghĩ, chàng bước tới cạnh hàng người đá, cẩn thận quan sát.
Dưới ánh sáng lâp lòe, mắt chàng lóe lên vẻ kính phục, lẩm bẩm :
- Người này quả là kỳ nhân một đời, thảo nào lại bố trí ra được những máy móc này.
Thì ra trên người pho tượng đá đứng hàng đầu có khắc dày đặc những chữ li ti, giới thiệu hết toàn bộ lai lịch và mục đích điêu khắc của những pho tượng đá sắp trong thạch thất.
Pho tượng thứ nhất là một tú sĩ trung niên mảnh khảnh cao nhã, đầu chít khăn nho sinh, ba chòm râu dài, tay cầm quạt lông, người đó chính là Thiên Cơ Tử, chủ nhân của gian thạch thất này.
Những chữ ấy khắc như sau:
“Ta là một thư sinh nghèo đất Tây Thục, thuở niên thiếu học về binh trận, sau đổi sang học về kinh lý, thời trai trẻ thi liền ba phen không đỗ, bực tức đổi sang học về môn Quỷ Cốc, sau năm năm đã có thành tựu, thông hiểu huyền cơ của trời đất và sự huyền bí của vũ trụ, bấy giờ tự xưng là Thiên Cơ Tử.
Mùa thu năm Bính Thìn ta có dịp đi qua Phù Đường, quen được một người đẹp tên là La Phức Lan, hai người tình ý tương hợp, vô cùng quyến luyến. Nhưng khi qua Tam Hiệp, lại gặp một kiếm khách anh tuấn tên là Thu Hải Bình, cuộc tình dậy sóng, ta với họ Thu trở mặt thành thù. Thuyền đến Giang Lăng, ta liên tục bày bố ba trận, giam giữ họ Thu những năm ngày, cuối cùng đã buông thả do sự van cầu của Phức Lan. Ngờ đâu lòng y độc ác, đã không biết ơn mà lại còn tuốt kiếm tấn công khiến ta thọ thương gục ngã.
Nằm trong vũng máu, họ Thu toan hạ kiếm sát tử, may nhờ Phức Lan thí thân tương cứu. Ta tuy được toàn mạng, song phải chứng kiến hai người sánh bước rời xa, lòng vô vàn hổ thẹn lẫn đau đớn.
Ta vô cùng chán nản, chỉ nhờ vào lòng căm thù mà cố sống. Trong vòng ba hôm ta đã bò khắp vùng hoang dã hàng mấy dặm để tìm kiếm thảo dược, cuối cùng đã chữa lành thương thế.
Năm sau, sáu đại môn phái Trung Nguyên cùng với tám đại tông phái trong giang hồ gặp nhau trên Hoàng Sơn để so bì võ công, muốn để lại giai thoại cho võ lâm.
Thế là ta bày bố Đại La Thất Tuyệt Trận trên đỉnh Hoàng Sơn, giam giữ toàn bộ mười bốn người ấy, sau mười ngày dùng hết tâm cơ, với mọi phương pháp đã lấy được mỗi người một môn tuyệt nghệ rồi thả ra hết.
Sau năm năm khổ luyện, tinh tường mười bốn môn tuyệt nghệ, ta lại lặn lội trên chốn giang hồ tìm kiếm kẻ thù khắp chân trời góc biển, cuối cùng đã gặp gỡ La Phức Lan bên bờ sông Lạc Thủy.
Lúc bấy giờ Phức Lan đã sinh hạ được một đứa con trai, họ đôi là Vũ Văn, ta mới vỡ lẽ vị kiếm khách trẻ đã gặp khi xưa tại Tam Hiệp chính là Bạch Đà sơn chủ Vũ Văn Hải tại Tây Vực”.
Bách Lý Hùng Phong giật mình quay về với hiện thực, sực nhớ đến Vũ Văn Mộng đã vì mình mà thọ thương, vội chạy đến xem xét thương thế của nàng.
Khi chàng trông thấy đôi má ửng hồng và bộ ngực nhô cao phập phồng khi hô hấp của Vũ Văn Mộng, bất giác nghe lòng rộn rạo. Một niềm thương hại từ đáy lòng dâng lên, không dằn được niềm khích động trong lòng, chàng cúi xuống hôn lên đôi má nàng.
Đó là một nụ hôn trong sạch và nghiêm trang, tuyệt đối không có chút ý sắc tình, như thể cha già âu yếm hôn nhẹ lên má con gái khi đang trong giấc ngủ êm đềm.
Như thế chẳng phải là Bách Lý Hùng Phong không động lòng trước một người con gái đẹp như vậy, mà chàng khắc phục được bản thân, không nghĩ đến vấn đề sắc tình.
Ý nghĩ duy nhất của chàng bây giờ là làm thế nào thoát ra khỏi gian thạch thất này, hoặc từ trong võ công do Thiên Cơ Tử để lại tìm được phương pháp cứu giúp cho Vũ Văn Mộng, không để nàng chết vì nội thương.
Chàng nghiêm túc đặt tay phải lên nơi tim của Vũ Văn Mộng, thấy nhịp tim của nàng vẫn bình thường, chàng bất giác mừng rỡ thầm nhủ:
“Chỉ cần thương thế của nàng không xấu đi trong vòng năm giờ, ta tin chắc có thể lãnh hội được tinh túy võ công của những người đá kia mà cõng nàng rời khỏi đây”.
Chàng hiểu thời gian lúc này đối với mình rất là quý giá, chẳng chút do dự đứng lên, lại đi đến trước thạch tượng của Thiên Cơ Tử, tiếp tục xem những dòng chữ nhỏ:
“Nay giai nhân đã thuộc về người khác, Phức Lan gặp lại ta bồi hồi đau xót, tình cũ vẫn còn đó song đã trở thành tro tàn, không bừng cháy được nữa. Hai người nhìn nhau ngậm ngùi từ biệt, khi ta định chia tay thì khốn nỗi Vũ Văn Hải lại xộc vào phòng...
Lửa hờn ghen đã thiêu đốt con tim y, Vũ Văn Hải chẳng hỏi tình do, tuốt kiếm giết chết Phức Lan, ta tuy ở bên cạnh nhưng không kịp tiếp cứu, để khiến cho mỹ nhân bị ngã gục trên vũng máu đào, di hận ngàn thu. Giờ đây nghĩ lại vẫn vô vàn đau xót....”.
Chữ viết đến đây rối rắm, nguệch ngoạc, đủ hiểu Thiên Cơ Tử đau lòng đến mức nào khi nghĩ đến việc Phức Lan bị sát hại.
Trong gian thạch thất tĩnh lặng, Bách Lý Hùng Phong ngẫm nghĩ một hồi bỗng phát ra một tiếng thở dài khe khẽ.
- Đây quả là một tấn bi kịch pha lẫn giữa tình yêu và thù hận.
Giờ đây nếu như Thiên Cơ Tử hãy còn sống ắt cũng phải cảm khái như chàng, song Thiên Cơ Tử phải chăng hãy còn sống? Và ông ấy hiện ở đâu?
Bách Lý Hùng Phong chớ hề nghĩ đến điều ấy, chàng bị cảm động bởi câu chuyện, nóng lòng muốn biết diễn biến tiếp theo.
“Thù hận cũ mới hòa lẫn vào nhau, ta tuốt kiếm ra giao chiến với Vũ Văn Hải bên bờ Lạc Thủy, đôi bên đều giở hết tuyệt nghệ toan hạ sát đối phương. Ta liên tiếp thay đổi mười hai loại kiếm pháp vẫn không sao thủ thắng, bởi Vũ Văn Hải đã được toàn bộ tuyệt nghệ của Bạch Đà sơn, kiếm chiêu vô cùng tinh diệu. Sau cùng, đến chiêu ba trăm lẻ hai, ta thọ thương bị bại. Vũ Văn Hải toan cắt xẻo ta ra từng mảnh, may nhờ vào trận pháp mà thoát thân được, quay trở về Xuyên Thục.
Từ đó ta mới biết tuyệt học quyết không thể ỷ lại, sự rèn luyện của bản thân mới chính là bí quyết tối thượng.
Mười năm sau ta đổi tên bôn tẩu giang hồ, qua những cuộc chiến đấu tự rèn luyện bản thân, sau cùng đã thấm nhuần hết tinh hoa trong mười bốn môn tuyệt nghệ, chế biến thành mười bốn thế kiếm pháp. Theo ta biết, mười bốn thức kiếm pháp này quả đã bao gồm hết những tinh túy của kiếm đạo, ta đặt tên là Thiên Cơ thập tứ thần kiếm, ý là phối hợp sự huyền bí khôn lường của thiên cơ vậy”.
Bách Lý Hùng Phong vỡ lẽ:
“À, thảo nào ta hai lần xông ra ngoài thạch thất đều bị người đá nọ dùng một chiêu tương tự bức lui”.
Chàng nghĩ đến vừa rồi đã bị trúng phải một gậy của người đá vào vai, bất giác rùng mình.
Bởi người đá nọ nếu là người thật, cây gậy nếu đổi lại là trường kiếm thì giờ dây cánh tay của chàng đã bị tiện đứt lìa, không còn đủ sức để chống đỡ những đợt tấn công liên tục của người đá nọ nữa.
Nghĩ đến đây, toàn thân chàng toát mồ hôi lạnh.
Hôm trước bị bại trong một chiêu của Thiên Tâm giáo chủ, bấy giờ chàng vẫn không phục, bởi chàng cho mình là đồ đệ của Thiên Hạ Đệ Nhất Kỳ Nhân Tuyệt Trần Cư Sĩ, võ công chẳng phải nông cạn, bị bại trong một chiêu là vì công lực không đủ, chứ chẳng phải tài nghệ kém người.
Giờ đây chàng mới hiểu được là đạo võ học sâu rộng như biển cả, quyết chẳng phải chỉ mười mấy năm tập luyện mà thấu hiểu được những huyền diệu của nó.
Nghĩ đến đây chàng bỗng nghe lòng phấn khởi, bởi sở dĩ Thiên Cơ Tử biến chế ra mười bốn thế kiếm này hoàn toàn nhắm vào Bạch Đà sơn chủ, mà Vũ Văn Thiên lại là Bạch Đà sơn chủ hiện thời, tất nhiên đã được tuyệt học của Bạch Đà sơn.
Mai này khi đối địch với Vũ Văn Thiên, về mặt chiêu thức chàng đã chiếm ưu thế phần hơn. Mà đối với hạng cao thủ võ công tuyệt đỉnh, ưu thế quả là điều tối cần thiết.
Trong đạo kiếm pháp quan trọng nhất là sự nhanh, mà tác dụng của sự nhanh ấy chính là để giành lấy ưu thế, chỉ cầm chiếm lấy chút tiên cơ là có thể đưa kẻ địch vào cõi chết.
Đó chính là chân lý bất di bất dịch của kẻ cầm kiếm, và cũng như đạo lý thời gian là sinh mạng mà người đời đã bảo.
Thoạt đầu, chàng chẳng có ác ý gì lắm đối với Vũ Văn Thiên, chẳng qua vì có liên quan đến mẫu thân chàng mà thôi. Giờ đây khi xem qua ký sự của Thiên Cơ Tử, mối phẫn hận với Vũ Văn Thiên mới bắt đầu chớm nở.
Chàng hiểu rằng trong tương lai mình hẳn phải một phen quyết sống mái với Vũ Văn Thiên. Theo chàng xét đoán, Vũ Văn Thiên rất có thể là đứa con của La Phức Lan, nếu vậy thì Thiên Cơ thập tứ thần kiếm do Thiên Cơ Tử để lại quả đã giúp ích chàng rất nhiều.
Chàng ngập niềm hưng phấn xem tiếp:
“Khi kiếm pháp hoàn thành thì tuổi ta đã quá năm mươi, lòng căm thù đã nguôi ngoai phần nào, toan ẩn cư trong núi cho đến khi xuôi tay nhắm mắt, song khi nghĩ đến dĩ vãng, lòng cứ tấm tức muốn so tài cùng với Vũ Văn Hải một phen. Cuối cùng không dằn nổi, ta lại tái xuất giang hồ, lặn lội đường xa đến Bạch Đà sơn một chuyến.
Nào hay bể dâu biến đổi, thế sự xoay vần, Bạch Đà sơn đã do Vũ Văn Thiên chấp chưởng, ta nhìn y mà nghĩ đến tình cố cựu, bất giác âm thầm đau xót, nghĩ đến mình tuổi nay đã già, bèn quay gót trở về.
Thiên cơ khôn lường, đời người lắm thù hận. Khi ta đến đây thì đã gặp Vũ Văn Hải, bấy giờ y đã náu thân huyền môn, đạo hiệu Xích Dương Tử, là cao thủ đệ nhị về kiếm đạo của huyền môn.
Kẻ thù gặp nhau, chẳng cần nói nhiều, hai người đã tuốt kiếm ra giao chiến suốt hai ngày hai đêm, sau cùng ta đã giành đươc thắng lợi.
Nguyện ước đã thành, ta tiếp tục lên đường trở về, ngờ đâu đêm hôm sau chưa đi được trăm dặm đường đã bị một lão đạo sĩ áo vàng đuổi kịp, giương kiếm khiêu chiến với ta...”.
Bách Lý Hùng Phong xem đến đây thoáng kinh ngạc, nhủ thầm:
“Câu chuyện này cũng thật là khúc chiết, rõ ràng mọi sự đã kết thúc lại chui ra một lão đạo”.
Chàng thở hắt ra rồi xem tiếp:
“Tuy ta rất kinh ngạc nhưng vẫn tuốt kiếm ứng chiêu, nào hay kiếm pháp của lão đạo áo vàng xem ra rất bình thường, vậy mà ta đã sử dụng hết Thiên Cơ thập tứ thần kiếm mà vẫn kém thế. Từ đó ta mới biết lão đạo áo vàng chính là Kiếm Thánh Huỳnh Long Thượng Nhân.
Sau khi bại, Huỳnh Long Thượng Nhân đã nghiêm khắc quở trách ta, mới hay Xích Dương Tử đã định sáng sớm giờ Dần sẽ chém giao long ở Mạc Khê, vốn có nhiều hy vọng chiến thắng, nhưng vì bị tiêu hao quá nhiều tinh lực bởi giao đấu với ta nên đã kiệt lực cùng chết với độc giác long.
Khi Huỳnh Long Thượng Nhân hay tin đến nơi, hiểu việc liền đuổi theo ta nên mới có cuộc giao đấu ta kể.
Sự việc đã lỡ, ta hết sức ân hận, được Huỳnh Long Thượng Nhân cho biết nơi đây có họa lửa đất, khi bốc lên đã làm hại rất nhiều sinh linh. Ta đã lập ngôi miếu bên cạnh Mặc Khê để thờ cúng Xích Dương Tử, và xây dựng địa huyệt, đặt máy móc để áp chế sự bộc phát của địa hỏa hầu chuộc lại lỗi lầm của mình để mong được an tâm.
Sau mười năm suy gẫm ta mới hiểu thấu được nguyên nhân bị bại dưới tay Huỳnh Long Thượng Nhân khi xưa. Thì ra Huỳnh Long Thượng Nhân đã lãnh hội được sự huyền diệu tối thượng trong kiếm đạo, vượt trên kiếm ý, không bị gò bó trong hình thức, ta dẫu kiếm pháp cao cường nhưng vẫn không thể đạt đến lãnh vực của kiếm ý.
Ta không muốn sở học cả đời bị thất truyền nên đã tạc đá khắc thành ba mươi pho tượng thạch nhân, một là tượng của ta, một là tượng của Xích Dương Tử, kỳ dư là tượng của mười bốn người, một tĩnh một động để cùng đối chiếu nhau, nhằm để người sau đến đây có thể học chiêu thức của tĩnh tượng, rồi sau đó mới hiểu được những tinh túy của những pho tượng động.
Bên dưới chiếc giường đá trong thạch thất có trữ sẵn quả tùng và cầu kỳ cho người đến ăn dùng, và phía sau pho tượng thứ mười lăm Hoa Sơn chưởng môn Thiết Trần đạo nhân có một dòng suối trong. Người đến đã vào trong phòng này, tất hiểu được nỗi khổ tâm của ta, khổ luyện mười bốn thế kiếm, diễn luyện nhiều lần thì có thể xông qua khỏi thạch thất, đi sang một nơi khác.
Viết đến đây đã cảm thấy tâm lực vô cùng mệt mỏi, song đã không còn vướng bận, hiểu rằng đại hạn đã đến, nên với tấm lòng thành bói một quẻ thần số, biết người có duyên sẽ đến đây vào giờ Hợi hai mươi năm sau, trong quẻ tỏ rõ, người đến anh tuấn cao nhã, tất sẽ trở thành bậc kiệt xuất, hãy cố gắng, chớ phụ nguyện vọng của ta”.
Bách Lý Hùng Phong cực kỳ khích động, hít sâu một hơi cố trấn định tâm thần, đọc nốt hai câu cuối cùng.
“Mùa thu năm Đinh Tý, Thiên Cơ Tử viết trong Thiên Cơ thạch thất”.
Lại tái bút:
“Thiên Cơ kiếm pháp thế này nối liền thế kia, dùng tháo gỡ lẫn nhau. Sau khi thuần thục tất sẽ có thể sẽ ra khỏi Luyện Tâm thất mà đi sang một gian phòng đầy địa hỏa”.
Đọc xong, trước mắt Bách Lý Hùng Phong hiện lên một ông lão râu tóc bạc phơ, tiên phong đạo cốt, tưởng chừng đang khẩn khoản dặn dò chàng, hy vọng chàng có thể kế thừa kiếm đạo thần kỳ ấy ngõ hầu đem lại vinh quang cho võ lâm.
Chàng cúi đầu lâm râm khấn nguyện :
- Thiên Cơ Tử tiền bối linh thiêng chứng giám, tại hạ Bách Lý Hùng Phong nhất định sẽ học thành mười bốn thế kiếm này, không phụ nguyện vọng của tiền bối.
Trong thạch thất vang lên tiếng hồi âm khe khẽ, Bách Lý Hùng Phong ngẩng lên thở phào một hơi khe khẽ, quay lại nhìn Vũ Văn Mộng thầm nhủ:
“Vì sự an toàn của nàng, ta phải học thành mười bốn thế kiếm này trong thời gian ngắn nhất, mới có thể xông ra khỏi Luyện Tâm thất, bằng không thì nàng tuyệt đối không thể chịu đựng nổi vài ngày, bất luận vì nàng hay vì ta cũng phải đánh liều một phen”.
Nghĩ đoạn, chàng dẹp hết mọi tạp niệm, thậm chí kể cả Vũ Văn Mộng, đôi mắt chăm chú nhìn vào pho tượng thứ hai.
Đó là pho tượng đá của Bang chủ Cái bang Thảo Thiên (đòi trời) Quái Khất, chiêu thức khắc trước ngực vô cùng quái dị, Bách Lý Hùng Phong khẽ đọc :
- Đả Đoạn Cẩu Thối! (đánh gãy chân chó!)
Chàng tập trung hết tinh thần nhìn vào tả chưởng đưa ra và cây gậy trúc quét ngang của Thảo Thiên Quái Khất, suy ngẫm thế đánh xuống của ngọn gậy và mọi biến hóa của nó.
May nhờ những ngọn đèn dầu trong thất như vô tận, ánh đèn sáng rực, khiến chàng hoàn toàn có thể trông thấy rõ tư thế của pho tượng ấy.
Chàng cũng giống như mười lăm pho tượng đá, không hề động đậy, thậm chí mắt cũng chẳng hề chớp lấy một lần, chỉ lẳng lặng chú mắt nhìn.
Lúc này tuy chàng trông bằng mắt, nhưng kỳ thực thì “mắt lòng” của chàng đã mở, thâm nhập vào trong xương tủy của pho tượng, xem xét điểm tinh túy của chiêu thức này.
Thời gian trôi qua chẳng rõ đã bao lâu, có thể đã rất lâu hoặc chỉ trong chốc lát, song trong cảm giác của Bách Lý Hùng Phong, điều ấy chẳng có gì là quan trọng, điều quan trọng là chàng đã hiểu được tinh túy của chiêu thức ấy.
Người chàng bất động, mắt vẫn đăm đăm nhìn vào cây gậy trúc của Thảo Thiên Quái Khất. Trong sự tưởng tượng của chàng, cây gậy trúc ấy đã từng được tung ra hàng ngàn lần, từ mọi góc độ và mọi vị trí.
Chàng khẽ kêu lên mừng rỡ như thể vừa tìm được một tia sáng lóe lên trong đêm tối mịt mù, lãnh hội được vị trí tấn công của cây gậy trúc.
- Đả Đoạn Cẩu Thối!
Chân trái chàng tiến lên một bước, tả chưởng phóng ra, tay hữu chếch xuống, chưởng phóng ra giữa chừng, vụt đưa chếch lên rồi ngoặt trở xuống, lập tức phát ra một tiếng rít khẽ.
Chẳng vui mừng chút nào, chàng thu chưởng thế về, hai tay buông thõng xuống đầu gối, chầm chậm xê người đến trước pho tượng thứ hai, cũng giống như lần trước tập trung tinh thần vào trong pho tượng ấy, kể như mình là lão đạo cầm kiếm ấy, đối mặt với kẻ địch, vận chân lực vào kiếm chuẩn bị tung ra một chiêu sấm sét.
Chàng khẽ đọc :
- Võ Đang chưởng môn Huyền Thanh đạo nhân.
Thần trí của chàng đã nhập vào linh hồn pho tượng, lúc này chàng ở vào tình trạng, nhìn mà không thấy, nghe mà không biết.
Giờ đây chàng đã trở thành Võ Đang chưởng môn Huyền Thanh đạo nhân, tay cầm kiếm đối mặt với cường địch, chuẩn bị tung ra chiêu Đạo Quy Lưỡng Nghi trong Lưỡng Nghi kiếm pháp.
Vẻ khinh miệt thiên hạ lộ rõ trên mặt chàng, chàng trầm giọng quát lớn, dùng chưởng thay kiếm, cánh tay phải vung thẳng ra và bổ xuống.
Thế ấy chính là chiêu Đạo Quy Lưỡng Nghi chẳng sai trật mảy may.
Song chưởng chém vút qua khoảng không, trúng vào cánh tay phải của pho tượng Huyền Thanh đạo nhân, tiếng rít của chưởng phong hòa lẫn với tiếng đá vỡ, cánh tay phải cùng với thanh kiếm đá bị gãy lìa.
Bách Lý Hùng Phong bừng tỉnh, chàng bất giác giật nảy mình trước chiêu chưởng được bổ ra khi mình đang trong tình trạng mơ màng. Chàng ngơ ngẩn nhìn vào bàn tay mình, tưởng chừng như phát hiện chi đó.
Chàng tuy chưa từng học qua kiếm pháp, cũng chưa từng dùng tay kiếm, song chiêu kiếm chàng bổ ra giờ đây, uy lực quyết không kém hơn thanh trường kiếm của một cao thủ kiếm đạo.
Trong truyền thuyết, những cao thủ kiếm đạo tùy tiện cầm một vật chẳng hạn như một cành cây hay ngọn trúc là có thể sử dụng như một thanh kiếm, vậy mà giờ đây chàng không cần đến một vật nào cả, dùng tay thay kiếm...
Tiếp theo đó, chàng lại tập trung tâm trí sang pho tượng kế bên, tựa như người điên lần lượt múa may trước từng pho tượng đá.
Như thể một con thuyền nhỏ vượt qua bao gian hiểm, từ đó thuận buồn xuôi gió lướt đi trên mặt hồ phẳng lặng, không còn gặp trở ngại nào nữa.
Vỏn vẹn chỉ trong thời gian nửa tuần trà, chàng đã đến trước pho tượng đá cuối cùng, ánh mắt lướt thoáng qua, chàng chẳng cần xem lại lần thứ hai, đã đọc biết chiêu Thần Du Tử Vi, thế tinh diệu nhất trong Thiếu Thanh kiếm pháp của Hoa Sơn.
Chàng chẳng rõ mình đã hao tốn bao nhiêu thời gian, và cũng chẳng hiểu mình thực sự có được bao nhiêu thành đạt.
Trong niềm phấn khởi lẫn mỏi mệt, chàng đưa tay lên lau mồ hôi mặt, mãi đến giờ chàng mới hay toàn thân mình y phục ướt đẫm mồ hôi, dính sát vào da thịt.
Đẩy pho tượng cuối cùng ra, chàng thấy một cái hang lõm vào trong vách, trên thành vách có một rèm nước đổ vào trong động huyệt như một cái bồn.
Vài quả trái cây đỏ tươi nổi trên mặt nước trong vắt, loáng thoáng có thể trông thấy một nhánh cuống dưới nước và xuống đến tận đáy bồn, nhẹ đung đưa theo rèm nước đổ xuống.
Bách Lý Hùng Phong vốc lấy nước liên tiếp uống vào hai ngụm lớn, cảm thấy mát lạnh cả buồng phổi, toàn thân đều vô cùng thư thái. Chàng khoái trá ngửa mặt thò vào trong hang, để mặc cho rèm nước chảy qua mặt, ngang qua cổ rơi xuống y phục.
Mấy hôm nay bị Lữ Vi Hóa phong tỏa huyệt đạo, nỗi cực nhọc bởi ngày đêm đăng trình và nỗi mệt mỏi bởi dốc hết tâm thần vào việc luyện tập kiếm pháp, giờ đây được dòng nước mát lạnh rửa sạch hết.
Lau khô những giọt nước trên mặt, chàng với tâm trạng khoan khoái đưa tay sờ mó hai quả trái cây đỏ tươi nổi trên mặt nước.
Cảm giác mềm mịn từ nơi bàn tay truyền vào trong lòng, khiến chàng sực nhớ đến đôi má đào của Vũ Văn Mộng. Chàng bất giác giật mình, chợt nhớ ra là Vũ Văn Mộng đang thọ nội thương và bị mình phong tỏa huyệt đạo.
Bỏ quả trái đỏ xuống, chàng quay người chạy tới. Vũ Văn Mộng vẫn còn đang say ngủ, trong cơn mơ dường như có điều gì khủng khiếp đang vây quanh nàng, không thì đôi má ửng hồng của nàng sao lại nhợt nhạt thế này?
Bách Lý Hùng Phong giật nảy mình, vội đưa tay sờ lên ngực nàng, thấy nhịp tim của nàng thoạt nhanh thoạt chậm, có lúc yếu ớt đến mức cơ hồ sắp đứt đoạn.
Chàng tái mặt vội vàng giải khai huyệt ngủ cho nàng.
Tiếng thở dài yếu ớt não nuột từ miệng nàng vọng ra, Bách Lý Hùng Phong hơ hải hỏi :
- Mộng muội... làm sao rồi?
Vũ Văn Mộng mở choàng mắt, thờ thẫn nhìn vào mặt chàng, chẳng nói chẳng rằng.
Bách Lý Hùng Phong lo lắng đến đổ mồ hôi trán :
- Nàng...
Vũ Văn Mộng nở một nụ cười thê lương :
- Chàng sao lại lo lắng đến vậy? Tiểu muội chưa chết ngay được đâu.
- Không, không! Hiền muội không thể nào chết được, ngu ca sẽ tức khắc đưa hiền muội rời khỏi nơi này ngay, hiền muội hãy có gắng mà chịu đựng.
Vũ Văn Mộng lắc đầu :
- Phong ca đừng hao tâm vì tiểu muội, tiểu muội... đã vô dụng rồi.
Bách Lý Hùng Phong vội nạt :
- Hiền muội không được nói vậy, ngu ca không cho hiền muội chết, ngu ca phải cứu hiền muội ra khỏi đây.
Vũ Văn Mộng cười nhẹ :
- Dẫu cho Phong ca có cứu tiểu muội ra khỏi đây thì phỏng có ích gì? Nội thương của tiểu muội quá trầm trọng, ngoại trừ dược đan tuyệt thế, chỉ có cách người có võ công tuyệt đỉnh dùng nội công để trị liệu...
Nàng thở hắt ra rồi nói tiếp :
- Nhưng khắp thiên hạ, kẻ có công lực dường ấy không hơn năm người, Phong ca biết đâu mà tìm...
Trong óc Bách Lý Hùng Phong bừng sáng thầm nhủ:
“Thiên Cơ Tử có bảo chỉ cần xông qua Luyện Tâm thất thì sẽ đến một gian phòng toàn địa hỏa chi đó, rất có thể ông ấy để lại chút gì cho ta hoặc tìm được cách chữa trị nội thương cũng nên”.
Chàng rất tin tưởng vào tài năng của Thiên Cơ Tử, nghĩ vậy liền cảm thấy yên tâm hơn nói :
- Mộng muội đừng sợ, để ngu ca tìm cách cõng hiền muội xông ra khỏi gian thạch thất này.
Ánh mắt mơ màng của Vũ Văn Mộng lướt qua gương mặt phấn khởi của Bách Lý Hùng Phong thầm nhủ:
“Nếu như chàng có cách xông ra khỏi thạch thất này thì sao khi nãy không chịu đi ra, giờ đây chàng có cách gì kia chứ? Ôi...”.
Nàng nhớ cảnh tượng trong giấc chiêm bao vừa rồi, khóe mắt bất giác ứa ra một giọt lệ, thầm nhủ tiếp:
“Ta chết đi chẳng chút nuối tiếc nhưng cha không biết được sự thể, nhất định sẽ trách tội nơi chàng, như vậy thù hận ắt sẽ càng thêm sâu đậm, tất gây ra nhiều sự đổ máu, ta chết đi há có thể yên tâm?”
Những giọt lệ long lanh dưới ánh lửa, khiến Bách Lý Hùng Phong bàng hoàng hỏi :
- Mộng muội khóc đó à?
Chàng nghe cay đắng ngập lòng, cơ hồ không nén được, suýt nữa đã bật khóc, song ở trước mặt Vũ Văn Mộng chỉ còn một tia hy vọng, sao chàng có thể khóc được?
Chàng cố dằn lòng, với ánh mắt vô vàn trìu mến nhìn Vũ Văn Mộng, đưa tay lau khô mấy giọt nước mắt vương đọng trên má nàng, dịu dàng nói :
- Đừng khóc nữa Mộng muội, hãy tin tưởng, hãy nương tựa vào ngu ca, tuyệt đối không được sờn lòng.
Giọng nói của chàng tuy dịu dàng, nhưng chan chứa bao tình cảm mãnh liệt, Vũ Văn Mộng trong lòng tuy không tin, song cũng hết sức cảm động trước tấm lòng chân thành của chàng.
Trên thế gian có ai hơn được tiếng gọi trìu mến của người yêu?
Vũ Văn Mộng gật đầu :
- Tiểu muội rất tin tưởng...
Nàng chợt nghẹn lời bỏ dở câu nói, Bách Lý Hùng Phong hoảng kinh :
- Mộng muội... làm sao vậy?
Vũ Văn Mộng lắc nhẹ đầu :
- Không có gì, tiểu muội thấy hơi khát nước.
Bách Lý Hùng Phong thở phào :
- Vậy thì không sao, hiền muội hãy nằm đây, ngu ca sẽ hứng nước mang đến đây ngay.
Chàng đi đến cạnh hang nước, thoáng lưỡng lự dùng tay vốc lấy nước, ánh mắt lướt qua hai quả trái đỏ, cúi xuống hớp một ngụm nước đoạn quay người đi trở về.
Đã mấy lần chàng trông thấy mấy quả đỏ bé xíu ấy, song lại không hái lấy, giá chàng biết đó chính là Đâu Suất Tiên Quả được tạo thành bởi tinh anh của Thạch Chung Linh Nhũ nhất định sẽ chẳng có chút do dự hái cho Vũ Văn Mộng ăn ngay.
Bởi khi ăn xong hai quả tiên Đâu Suất ấy, chẳng những chữa khỏi được nội thương mà còn có tác dụng tăng cường công lực, chỉ tiếc là Bách Lý Hùng Phong không biết nên mới bỏ qua một cách uổng phí.
Bởi lẽ ấy về sau đã gây nên một sự hiểu lầm không sao giãi bày được, để rồi tạo thành một tấn bi kịch thảm thương...