Một tối nọ, khi vòm trời trong trẻo ngập tràn ánh hoàng hôn đỏ rực, và lũ chim oanh đang quyến rũ ánh chiều vàng bằng những điệu nhạc tươi vui về các vì sao ban tối, trong căn nhà nhỏ mơ ước bỗng xáo động. Tin nhắn điện thoại được gửi lên Glen, bác sĩ Dave và một cô y tá đội mũ trắng khẩn trương tìm xuống, bà Marilla bước tới bước lui trên lối đi trong vườn giữa những chiếc vỏ sò, lầm bầm những lời cầu nguyện giữa đôi môi mím chặt, và Susan đứng trong bếp với len bông nhét tai, tạp dề trùm đầu.
Leslie, nhìn ra từ căn nhà đầu suối, thấy mọi cửa sổ của ngôi nhà nhỏ đều sáng đèn, và đêm ấy cô không ngủ.
Đêm tháng Sáu thật ngắn; nhưng nó dường như dài cả thiên thu với những người chờ đợi và trông ngóng.
“Ôi, liệu nó có bao giờ chấm dứt không?” bà Marilla nói; rồi bà thấy vẻ nghiêm trọng của cô y tá và bác sĩ Dave, thế là bà không dám hỏi thêm câu nào nữa. Giả như Anne... nhưng bà Marilla không nghĩ được thế.
“Đừng nói với tôi,” Susan hung dữ nói, đáp trả vẻ thống khổ trong mắt bà Marilla, “rằng Chúa có thể ác độc tới mức mang con cừu bé bỏng thân yêu đó khỏi chúng ta khi mà chúng ta thảy đều yêu mến cô ấy đến thế.”
“Ngài đã từng mang đi những người cũng được yêu thương như thế,” bà Marilla khàn giọng nói.
Nhưng đến bình minh, khi ánh dương vừa lên phá tan màn sương mù treo trên đụn cát, biến chúng thành muôn vàn ánh cầu vồng, niềm vui đã đến với căn nhà nhỏ. Anne đã an toàn, và một quý cô bé xíu, trắng bệch, mang đôi mắt của mẹ mình, đang nằm cạnh cô. Gilbert, mặt tái xám và hốc hác sau cơn vật vã buổi đêm, xuống báo tin cho bà Marilla và bà Susan.
“Tạ ơn Chúa,” bà Marilla rùng mình.
Bà Susan đứng dậy và lấy bông ra khỏi tai.
“Nào thì bữa sáng,” bà nói nhanh. “Tôi có ý kiến là chúng ta sẽ rất mừng được làm một vài miếng. Cậu nói cô bác sĩ trẻ không phải lo một cái gì hết... có Susan cầm trịch đây rồi. Cậu nói với cô chỉ phải nghĩ đến em bé thôi.”
Gilbert mỉm cười vẻ buồn buồn khi đi khỏi. Anne, gương mặt tái nhợt bệch bạc bởi cơn đau đầu đời, đôi mắt ngời sáng với niềm say mê thần thánh của tình mẫu tử, không cần ai bảo phải nghĩ về con mình. Cô chẳng nghĩ về điều gì khác. Trong một vài giờ cô đã được nếm mùi vị của hạnh phúc quá hiếm hoi và tuyệt diệu đến nỗi cô tự hỏi liệu các thiên thần trên thiên đường có ghen tị với cô chăng.
“Bé Joyce bé bỏng,” cô thì thầm, khi bà Marilla vào thăm đứa bé. “Chúng cháu định gọi bé như thế nếu nó là một bé gái. Có thật nhiều cái tên chúng cháu thích gọi bé; chúng cháu không thể chọn được, thế nên chúng cháu quyết định lấy tên Joyce... ta có gọi tắt tên bé là Joy... thật là hợp. Ôi, bác Marilla, cháu cứ tưởng lúc trước cháu đã hạnh phúc. Giờ thì cháu biết cháu mới chỉ mơ một giấc mơ êm đềm về hạnh phúc. Đây mới là thực tế.”
“Cháu không được nói chuyện, Anne à... phải đợi đến lúc khỏe hơn đã,” bà Marilla nói vẻ cảnh cáo.
“Bác biết cháu mà không nói thì khó thế nào mà,” Anne mỉm cười.
Ban đầu cô quá yếu và quá hạnh phúc để thấy rằng Gilbert và bà y tá trông thật nghiêm trang và bà Marilla thì thật buồn. Rồi, nhẹ nhàng, và lạnh lẽo, và không chút xót thương, như một màn sương mù từ biển lướt vào đất liền, nỗi sợ hãi trườn vào tim cô. Sao Gilbert không vui mừng hơn? Sao anh không nói về đứa bé? Sao họ không cho con bé ở cạnh cô sau cái giờ đầu tiên hạnh phúc thiên đường đó? Có... có chuyện gì không hay sao?
“Gilbert,” Anne thì thầm vẻ van nài, “con bé... nó ổn chứ phải không anh? Nói cho em biết đi... nói em biết đi.”
Gilbert phải mất thật lâu để quay lại; rồi anh cúi xuống cạnh Anne và nhìn vào mắt cô. Bà Marilla, lắng nghe đầy lo sợ ngoài cửa sổ, nghe thấy một tiếng rên đau đớn, xé lòng, và chạy biến vào nhà bếp nơi bà Susan đang khóc.
“Ôi, con cừu nhỏ tội nghiệp... con cừu nhỏ tội nghiệp! “Làm sao cô ấy chịu được, hả chị Cuthbert? Tôi sợ cô ấy chết mất. Cô ấy sẵn sàng biết mấy, hạnh phúc biết mấy, chờ đợi đứa bé đó, rồi chuẩn bị cho nó. Tuyệt không làm được gì thật ư, chị Cuthbert?”
“Tôi e là không, Susan à. Gilbert nói không có hy vọng gì. Nó biết ngay từ đầu là đứa bé không thể sống được.”
“Mà một đứa bé mới ngọt ngào làm sao chứ,” Susan khóc “Tôi chưa bao giờ thấy đứa con nít nào trắng như thế… bọn chúng hầu hết là đỏ và vàng. Và nó mở đôi mắt to như thể nó phải đến hàng tháng tuổi rồi í. Con bé nhỏ xíu, nhỏ xíu! Ôi, cô bác sĩ trẻ tội nghiệp!”
Đến hoàng hôn thì linh hồn nhỏ đến cùng bình minh đã ra đi, để lại những trái tim tan vỡ. Cô Cornelia đón lấy cô bé nhỏ xíu, trắng bệch từ đôi bàn tay ân cần nhưng xa lạ của người y tá, và mặc cho thân thể như sáp nhỏ xíu bộ váy đẹp mà Leslie đã may cho nó. Leslie đã yêu cầu bà làm thế. Rồi bà mang nó trở lại đặt cạnh người mẹ bé nhỏ tội nghiệp, tan nát, đã khóc mờ cả mắt.
“Chúa đã ban cho và Chúa đã lấy đi, cháu à,” cô nói qua làn nước mắt của chính mình. “Tên Người là ơn sáng.”
Rồi cô ra đi, để Anne và Gilbert lại một mình với đứa con đã mất của hai người.
Ngày hôm sau, Joy trắng bệch bé bỏng được đặt nằm trong một chiếc nôi nhung mà Leslie đã viền đầy hoa táo, và mang đến nghĩa trang nhà thờ bên kia cảng. Cô Cornelia và bà Marilla cất tất cả những món quần áo nhỏ may bằng yêu thương đi, cùng với chiếc giỏ diềm đăng ten đã được trang trí diêm dúa dành cho những bàn tay bàn chân bụ bẫm và mái đầu non tơ. Joy bé nhỏ không bao giờ được ngủ trong đó; cô bé đã tìm thấy một chiếc giường lạnh lẽo, chật chội hơn.
“Đây là một nỗi thất vọng khủng khiếp với tôi,” cô Cornelia thở dài. “Tôi đã rất trông chờ đứa bé này… và tôi quả thật còn mong nó là một đứa con gái nữa.”
“Tôi chỉ có thể mừng là mạng sống của Anne đã được cứu,” bà Marilla nói, với một cái rùng mình, nhớ lại những giờ đen tối khi cô gái bà yêu thương đang đi ngang qua thung lũng bóng tối.
“Con cừu nhỏ tội nghiệp! Trái tim con bé tan nát,” bà Susan nói.
“Cháu ghen tị với Anne,” Leslie nói đột ngột và dữ dội, “và cháu sẽ vẫn ghen tị với cô ấy ngay cả nếu cô ấy chết! Cô ấy đã được làm mẹ trọn một ngày đẹp đẽ. Cháu sẽ vui mừng hiến cả đời mình cho điều đó!”
“Ta sẽ không nói như vậy đâu, Leslie, cưng,” cô Cornelia nói vẻ khoản nài. Cô đang sợ là bà Cuthbert phẩm hạnh sẽ nghĩ Leslie quá kinh khủng.
Thời gian hồi sức của Anne kéo dài khá lâu, và càng cay đắng vì nhiều lẽ. Sự sinh sôi và ánh nắng của thế giới Bốn Làn Gió cay nghiệt trêu ngươi cô; thế nhưng, khi mưa rơi nặng hạt, cô hình dung mưa đang dập xuống chẳng chút xót thương lên ngôi mộ nhỏ bên kia cảng đó; và khi gió thổi quanh mái nhà cô nghe được những tiếng buồn thương mà trước đó chưa bao giờ lọt vào tai cô.
Những kẻ viếng thăm đầy ý tốt cũng làm cô đau lòng, với những lời nhạt nhẽo hảo tâm mà họ dùng để cố gắng che đậy sự trần trụi của tang gia. Một bức thư từ Phil Blake là một cú bồi đau xót. Phil đã nghe nói về sự ra đời của đứa bé, nhưng chưa nghe nói về cái chết của nó, và cô viết cho Anne một lá thư chúc mừng đầy những nô giỡn ngọt ngào làm cô đau lòng ghê gớm.
“Cháu hẳn đã cười thật hạnh phúc với lá thư đó nếu cháu có con,” cô khóc với bà Marilla. “Nhưng khi cháu không có, nó thật giống một trò nghịch ác... mặc dù cháu biết Phil không bao giờ muốn làm cháu đau lòng dù vì bất cứ điều gì. Ôi, bác Marilla, làm sao cháu còn có thể vui lại được nữa đây... mọi thứ đều sẽ làm cháu đau lòng cho đến cuối đời.”
“Thời gian sẽ giúp cháu,” bà Marilla nói; bà nhói lòng vì cảm thông nhưng không bao giờ có thể diễn tả được điều đó bằng cách nào khác ngoài những công thức cũ mòn.
“Thật không công bằng,” Anne điên cuồng nói. “Trẻ con được sinh ra và sống ở những nơi chúng không được mong muốn... nơi chúng bị sao nhãng... nơi chúng không có một cơ hội nào hết. Cháu sẽ yêu con cháu đến chừng nào... và chăm sóc cho nó dịu dàng đến chừng nào... và cố gắng mang đến cho nó mọi cơ hội tốt đẹp. Thế mà cháu lại không giữ được con mình.”
“Đấy là ý Chúa, Anne à,” bà Marilla nói, bất lực trước bí ẩn của vũ trụ... cái tại sao của nỗi đau không đáng phải gánh chịu. “Và vậy là tốt hơn cho Joy bé nhỏ.”
“Cháu không tin điều đó,” Anne khóc cay đắng. Rồi, khi thấy bà Marilla có vẻ sốc, cô cuồng nhiệt nói thêm, “Tại sao nó phải được sinh ra... tại sao bất cứ ai phải được sinh ra... nếu chết là tốt hơn cho nó? Cháu không tin là một đứa trẻ chết lúc mới sinh thì tốt hơn là sống trọn cuộc đời yêu và được yêu… vui sướng và đau khổ... và làm việc của mình... và phát triển một tính cách sẽ cho nó một nhân cách trong vĩnh cửu. Mà làm sao bác biết đấy là ý Chúa? Có thể nó chỉ là sự phá ngang ý Ngài bởi Quyền năng Ma quỷ. Chúng ta không cần phải chấp nhận điều đó.”
“Ôi Anne, đừng nói như thế,” bà Marilla nói, thật sự sợ rằng Anne đang trôi vào những vùng nước sâu nguy hiểm. “Chúng ta không thể hiểu... nhưng chúng ta phải có niềm tin... chúng ta phải tin là tất cả đều hướng tới điều tốt đẹp nhất. Ta biết cháu thấy khó mà nghĩ vậy, ngay bây giờ. Nhưng hãy cố dũng cảm... vì Gilbert. Nó lo lắng cho cháu lắm. Cháu không hồi phục nhanh cho lắm.”
“Ôi, cháu biết cháu đã rất ích kỷ,” Anne thở dài. “Cháu yêu Gilbert hơn bao giờ hết... và cháu muốn sống vì anh ấy. Nhưng dường như một phần trong cháu đã bị chôn ở đằng kia trong ngôi mộ nhỏ đó... và cháu đau đến nỗi cháu sợ sự sống.”
“Không phải lúc nào cũng đau như thế đâu, Anne ạ.”
“Ý nghĩ rằng sẽ có ngày cháu thôi không đau nữa lại làm cháu đau đớn hơn tất cả mọi thứ, bác Marilla ạ.”
“Đúng, ta biết, ta cũng đã cảm thấy như thế, về những điều khác. Nhưng chúng ta đều yêu cháu, Anne ạ. Thuyền trưởng Jim đến đây mỗi ngày để hỏi thăm cháu... và con bé Moore thì đi lại luôn luôn... và cô Bryant cũng dành phần lớn thời gian của cô ấy, nấu các thứ ngon cho cháu ăn, ta nghĩ thế. Susan chẳng thích gì chuyện đó. Bà ấy nghĩ bà ấy nấu cũng ngon như cô Bryant.”
“Susan thân mến! Ôi, mọi thứ đều thân thương và tốt và đáng yêu với cháu, bác Marilla ạ. Cháu không phải vô ơn đâu… và có lẽ… khi cơn đau khủng khiếp này dịu đi một chút... cháu sẽ thấy rằng cháu có thể tiếp tục sống.”