Tống Uyên Minh nhét đồ vào tủ lạnh vốn đã đầy ắp, tủ lạnh lại trở nên ngổn ngang không chịu nổi như ngày hôm qua.
Tôi đứng bên cạnh nhìn thấy thế cảm thấy khó chịu.
“Buổi tối gió lớn, cậu cẩn thận bị cảm.”
Tống Uyên Minh xoay người muốn đến ban công đóng cửa sổ nhưng lại bị tôi gọi lại.
“Cứ để vậy đi.” Tôi vội nói thêm, “Cứ để nó mở đi.”
Tống Uyên Minh đẩy kính gọng vàng lên, có lẽ hiếm khi nghe thấy tôi có ý kiến nên đôi mắt phượng sau đôi kính cận ấy hằn lên ý cười: “Được, nghe cậu.”
Tống Uyên Minh kéo tôi đứng ở cửa phòng vẽ tranh trên gác mái.
Tôi vốn là một họa sĩ đầy triển vọng, nhưng sáu tháng qua, tôi bị trầm cảm và cơn đau tim dày vò.
Với chứng đau mãn tính lâu năm, tôi không thể sáng tác bất kỳ tác phẩm hội họa nào, mà phòng vẽ tranh tôi vốn yêu thích nhất cũng vì thế mà phủ đầy bụi.
Tống Uyên Minh luôn muốn vào phòng vẽ tranh nhưng luôn bị tôi ngăn lại.
“Có thể nguyên nhân khiến cậu bị đau tim ở trong đó.” Mỗi lần cậu ta cố gắng thuyết phục tôi, tôi đều im lặng.
Trong thâm tâm tôi biết Tống Uyên Minh có ý tốt và thực sự muốn chữa bệnh cho tôi.
Nhưng phòng vẽ tranh là không gian cá nhân riêng tư nhất của họa sĩ, là nơi tôi có thể trút bỏ mọi cảm xúc, và tôi không có lý do gì để phơi bày nó trước một người mà tôi không đủ tin tưởng.
“Lần sau đi.” Tôi cúi đầu, tỏ vẻ cáu kỉnh.
3
Sau khi Tống Uyên Minh rời đi, tôi đã đứng ở cửa phòng vẽ tranh rất lâu.
Cánh cửa này đã bị đóng chặt nửa năm rồi, nửa năm này tôi đã uống rất nhiều thuốc chống trầm cảm, không biết có phải do tác dụng phụ của thuốc hay không mà bây giờ rất nhiều kí ức của tôi đều trở nên mờ mịt, đến cả chính tôi cũng không nhớ nổi rốt cuộc đằng sau cánh cửa phòng vẽ tranh này có gì.
“Có thể nguyên nhân khiến cậu bị đau tim ở trong đó.”
Tôi nắm chặt chìa khóa trong tay, loay hoay mở khóa.
Vô số lần của nửa năm trước tôi đã đứng trong đó cố gắng dùng cọ vẽ thứ gì đó, nhưng cuối cùng tôi lại bỏ chạy trước khung tranh trống rỗng.
Cảm giác bất lực đó khiến tôi hoàn toàn nản lòng, vì hèn nhát tôi đã chọn cách khóa cánh cửa này lại.
Hôm nay, tôi vẫn không đủ dũng khí để mở cánh cửa này.
Khi tôi quay người đi xuống bậc thềm, một giọng nói lạ đột nhiên vang lên sau lưng.
Nó giống như âm thanh của những vật nhỏ bằng kim loại rơi xuống đất.
Tôi sững sờ một lúc rồi ngoảnh lại thì thấy ổ khóa trên cửa đã biến mất.
Chuông gió đung đưa, gió thổi vào từ ban công thổi tung cánh cửa phòng vẽ tranh trên gác mái.
Vài tia nắng từ từ lọt qua sau cánh cửa, trong không khí tràn ngập vị mặn của nước biển, cánh cửa từ từ bị đẩy ra, tôi nhìn thấy một chàng trai tóc đen gầy gò yếu ớt đang ngồi trên chiếc ghế đầy bụi bặm.
Mái tóc đen như tảo tùy ý sinh trưởng dưới đáy biển sâu, che mất nửa khuôn mặt của chàng trai, ánh sáng lướt qua chiếc mũi cao, dừng lại trên làn da trắng như tuyết của chàng trai ấy, anh mặc một chiếc áo sơ mi trắng tinh, trong tay cầm một cây cọ vẽ, không biết khi nào cánh tay mảnh khảnh ấy đã vẽ màu lên trang giấy trắng.
Klein Blue.
Ánh mặt trời tràn xuống qua ô cửa sát đất to lớn, sự ấm áp tràn ngập khắp mọi ngóc ngách của căn phòng, mà chàng trai ngồi trong đó càng chói mắt hơn cả những tia sáng ấy.
Khi tôi đến gần, anh ấy dường như cảm nhận được sự hiện diện của tôi.
Từ từ xoay người lại, mái tóc gần như che đi đôi mắt hẹp dài của anh, anh nghiêng đầu cười với tôi, cong môi cười để lộ hàm răng trắng.
Anh ta mở miệng nhưng không phát ra tiếng động, con ngươi màu nâu nhạt đầy vẻ dịu dàng, khóe miệng như muốn nói: “Đừng sợ.”
Trang giấy trước mặt anh được bao phủ bởi màu xanh lam thuần khiết, màu xanh đậm, là màu Klein Blue.
Không hiểu sao nước mắt tôi trào ra.
“Chúng ta đã từng gặp nhau sao?”
Lời còn chưa dứt cơ thể của chàng trai tóc đen đã hóa thành vô số con bướm trắng như tuyết bay về phía cửa sổ sát đất, trong không khí có một tiếng thở dài khe khẽ.
“Em không nên đến gặp anh.”