Vừa hay tên ta là Mẫu Đơn lại còn là một quỷ câu hồn.
Bảy trăm năm trước, ta hai mươi mốt tuổi, chết ở vườn đào trong sân nhỏ nhà mình, sau khi chết thì xuống địa phủ làm quỷ câu hồn. Lăn lộn ở Phong Đô vài trăm năm cũng được một cái tên thân mật gọi là Hoa Nhi gia, cuộc sống tiêu dao cứ chầm chậm trôi đi.
Sau này ngẫm lại, đã hơn bảy trăm tuổi, làm quỷ câu hồn cũng có cái hay của nó, họ hàng năm xưa giờ chỉ là một nắm cát bụi. Rất nhiều chuyện khi còn sống vốn tưởng rằng là chuyện cực kỳ kinh thiên động địa nhưng giờ ngẫm lại cũng chỉ nhỏ như móng tay hay lớn như lông gà, vỏ tỏi.
Ở Phong Đô, ngoại trừ khi đi câu hồn hoặc tu luyện, lúc rảnh rỗi còn được nghe kể về đủ thứ chuyện ở trên trời, mà chuyện được quan tâm nhiều nhất chính là tình kiếp.
Tình kiếp là việc ném các vị thần tiên ở trên mây xuống nhân gian chịu khổ như: yêu nhau mà không đến được với nhau, cầu không được bỏ cũng không xong, v..v… Từ trước đến nay, đám người trên Cửu Trùng Thiên đều là rắm thối, giờ phải lăn qua lộn lại tại nhân gian đến khi trở về thì chật vật nhếch nhác, tất nhiên là khiến cho quỷ sai chúng ta cảm thấy vô cùng sảng khoái.
Bởi vậy, tình kiếp rơi phải ai thì người đó phải chịu xui xẻo, còn ta tin chắc nó sẽ không bao giờ rơi vào mình, nếu có thì cũng đã gặp từ lâu, từ khi ta còn sống cơ.
Có điều, ý trời khó đoán, Ti Mệnh Tinh Quân chắc hẳn đã quá nhàm chán, nếu không mấy chuyện máu chó sau này của ta cũng sẽ không trở thành đề tài bàn tán suốt trăm năm ở Phong Đô. Tất nhiên đây là chuyện về sau.
Sau khi kết thúc vụ án của Vương phu nhân, ta nghỉ ngơi dưỡng sức một thời gian.
Dẫu sao thứ như lệ quỷ đều rất khó nói lí lẽ, chỉ cần hơi sơ sẩy chút thôi cũng bị xơi tái ngay, huống chi là Vương phu nhân ngông cuồng hơn mấy chục năm mà vẫn không bị tìm ra tung tích, có lần oán khí chấn xuống lòng đất kinh động tới cả thú cưỡi của Địa Tạng Vương Bồ Tát. Một khoảng thời gian dài sau khi giải quyết nàng ta, mỗi lần gặp ta, cha đều cười đến híp cả mắt. Tiện thể nhắc tới, Diêm Vương là cha ta, chính xác hơn là cha nuôi.
Mấy hôm sau lên trần gian thu hồn trở về, ta phát hiện Phong Đô có gì đó là lạ.
Ngày đó, bầu không khí ở Phong Đô rất bất bình thường. Ta mang cái đèn lồng chứa đầy linh hồn tới cho ngục tốt nghiệm thu, nhưng lửa hồn cháy quá lớn đốt luôn vào đèn khiến cho bông mẫu đơn run rẩy chực co lại. Ta phẩy tay một cái, từng ngọn lửa chầm chậm bay ra, cảnh tượng trông như một dòng sông hoa đăng.
Ngục tốt nhìn vào danh sách để đếm nhận, bông mẫu đơn trên đèn lồng dần dần héo rũ, ta liền gấp đèn lồng lại thành một mảnh giấy nhỏ nhét vào trong người rồi đi tìm Tiểu Hắc.
Tiểu Hắc nói: “Hôm nay Phong Đô xuất hiện mấy đám mây tím từ phía Đông bay đến, có lẽ là vị thần tiên nào đó giá lâm.”
Thì ra thần tiên giá lâm! Ta kéo Tiểu Hắc đi xem, thấy thiên binh thiên tướng, quả thực là thiên binh thiên tướng, mây khói vòng quanh đai lưng to bản tràn đầy tiên khí, giống y như những gì được miêu tả trong sách.
Bốn thiên binh áp giải một người toàn thân đầy máu ra khỏi điện Diêm La, đi từng bước tới đầu cầu Nại Hà. Hoa bỉ ngạn hai bên đường hoàng tuyền nở rộ, màu đỏ thẫm khiến cho Phong Đô vốn chìm trong sương mù bỗng trở nên đẹp lạ thường.
Khi nhìn thấy người kia, ta liền hơi kinh hãi, quay đầu hỏi Tiểu Hắc: “Huynh khẳng định y là thần tiên?”
Tiểu Hắc không nói, trên mặt chỉ có một biểu cảm, mắt nhìn chăm chăm vào người kia.
“Được rồi, nếu không phải thần tiên,” Ta thay đổi cách nói: “Huynh khẳng định kia… là người?”
Cả người kia máu thịt lẫn lộn, xét theo vóc dáng thì chắc là đàn ông. Ta không thể hình dung được y phải chịu hình phạt gì mà y phục và vết thương dính vào với nhau tới không thể phân biệt nổi. Trên người chi chít phong ấn chú văn màu vàng, cái xích nặng nề phát ra âm vang mỗi khi y đi một bước, kéo theo trên mặt đất là một vệt máu dài.
Ta quan sát cẩn thận, song ngay cả lỗ mũi của y cũng không thấy rõ. Ở âm tào địa phủ đã lâu như vậy có cái gì mà chưa từng gặp, chỉ riêng diện mạo của vị này là khó mà vừa mắt thôi. Ta tự suy xét, quả thực nghi ngờ y chết do bị lăng trì, lại không cảm nhận được khí tức trên người y, cho nên chẳng biết y có phải là thần tiên thật hay không.
“Cứ coi là người đi, nhưng y đã phạm vào luật trời gì mà bị đày đọa thành như vậy nhỉ?” Còn bị bốn vị thiên binh áp giải, thật là bái phục: “Chẳng lẽ là y vụng trộm với vợ của Thiên đế?”
Tiểu Hắc gật nhẹ đầu: “Rất có khả năng.”
Bốn vị thiên binh đưa đến đầu cầu Nại Hà thì dừng lại, chà xát trường kích, xích chân của nam nhân kia liền vỡ nát, các mảnh vụn hóa thành bụi phấn rồi biến mất trong không khí.
Y chầm chậm đi qua cầu, Mạnh Bà múc một chén thuốc nóng hổi từ trong nồi ra đưa cho y. Y nhận lấy, máu tươi trên tay cứ từng giọt từng giọt rơi xuống.
Ta chạy đến bên cầu Nại Hà góp vui nhìn nam nhân kia uống hết chén thuốc. Y uống xong rồi trả chén lại cho Mạnh Bà, mắt bỗng lướt qua bên này.
Trong lòng ta ngẩn ra, khuôn mặt chìm trong bóng tối quả thật đang nhìn về đây.
Chẳng lẽ lại là một người bị ta mê đảo? Thì ra ta còn đẹp hơn cả vợ Thiên đế ư?
Ha ha… thật là ngại quá đi, hoàn toàn quên mất chuyện trước đó vài ngày bị nhiều người phàm nhận lầm thành nam nhân. Tuy bây giờ cả người mặc y phục đen cũng chẳng nhìn ra nếp nhăn, nhưng ta vẫn vuốt phẳng xiêm y lại, sau đó nở nụ cười tự nhận là quyến rũ với y.
Vậy mà nam nhân kia chỉ ngừng lại một chút rồi xoay người đi thẳng xuống cầu.
Ta chợt cảm thấy không có thú vị gì hết, Tiểu Hắc đi tới hỏi làm sao vậy, ta dùng tay áo xoa mặt ra vẻ như đang phải chịu nhiều ấm ức lắm: “Tiểu Hắc, trái tim của ta bị tổn thương, người ta muốn ăn bánh hoa đào.”
Ta cho rằng chuyện này đã trôi qua, không ngờ một thời gian sau Thập điện Diêm La cho mời ta tới, nói là có việc gấp.
Tay trái ta nhấc váy, tay phải cầm đèn lồng không nhanh không chậm đi vào trong điện. Diêm Vương vừa nhìn thấy đèn lồng của ta liền che mắt: “Đồ quỷ, dương khí sinh sôi đốt mù mắt lão phu rồi. Mẫu Đơn, con mau mau xử lý nó đi, lão phu còn có việc muốn bàn với con.”
“Đấy không phải do dương khí của nó quá nặng mà là do cha ru rú ở đây quá lâu rồi.” Ta treo đèn lồng ở cái xà cạnh điện rồi thổi một cái, du hồn trong đèn nhảy lên càng thêm lợi hại. Đóa mẫu đơn trên giấy nở bung ra, các cánh hoa trùng trùng điệp điệp hợp với ánh lửa xanh nhìn qua cực kỳ đẹp mắt.
Diêm Vương rên lên một tiếng rồi chui xuống gầm bàn. Ta nói: “Có chuyện gì thì cha cứ dặn dò, khuê nữ sẽ đi làm cho người.”
Diêm Vương vừa nghe thấy vậy thiếu chút nữa lão lệ tung hoành: “Mẫu Đơn à, việc câu hồn cứ giao cho con nhé.”
“Chẳng phải con vẫn thường đi câu hồn còn gì.”
Cha mở quyển trục ra, chỉ vào một cái tên được viết trên đó.
“Mẫu Đơn, con có thể đặc biệt đến đây một lần không? Phải câu hồn phách của nàng đi, nàng không thể ở lại dương thế nữa.”
Sau hồi lâu nghe cha giảng giải, cuối cùng ta cũng đã hiểu.
Thì ra cha muốn ta đi câu hồn người tình của người. Cha không nói thẳng nhưng ta có thể đoán được.
Mệnh số của nàng đã tới, người muốn ta câu hồn nàng về để gặp mặt một lần, ôn lại chuyện cũ.
Nói trắng ra là cha muốn một mình gặp nàng, vì vậy để tránh cho hồn khí bị vẩn đục nên phải nhờ ta giúp đỡ. Chuyện này nào có đáng gì, chỉ là một nữ hồn mà thôi. Ta lười hỏi lại vì sao người ấy lại là một phàm nhân ở dương gian, đầu năm nay kẻ thích phàm nhân cũng quá nhiều rồi.
Ta quay về thu dọn chút đồ rồi vội xuống nhân gian, may là tìm được ngay nơi nữ nhân kia đang sống, trong một Vương phủ ở thành Giang Nam phồn hoa.
Ta bay vào một nơi tĩnh mịch quanh đó liền gặp được một phụ nhân đang mang bầu nằm trên mỹ nhân kháo[1], lấy điểm tâm ném vào trong nước cho cá ăn. Ta nhìn một cái, không hổ là người tình của cha, không hổ là người trong hoàng tộc, trông nàng xinh đẹp đến lạ kì. Ta chăm chú ngắm nàng rất lâu, càng ngắm càng cảm thấy có phần quen thuộc.
Không bao lâu sau, nữ nhân liền cảm thấy mệt mỏi day day huyệt thái dương, khiến cho tua rua ở thoa cài đầu bằng vàng ròng lắc qua lắc lại. Thị nữ hầu bên cạnh cung kính lên tiếng: “Quận chúa, bây giờ đã không còn sớm, mời người mau nghỉ ngơi.”
Tay nữ nhân sờ bụng mình một hồi, đang muốn mở miệng thì có một thị nữ bước đến, hành lễ với nàng: “Bẩm Quận chúa, có một tên ăn mày bẩn thỉu đang ở hậu môn ngồi chờ.”
Quận chúa nhướn mày: “Không phải sáng nay Kim nhi đã đưa tiền cho y rồi ư?”
“Đúng đó, vậy mà hiện tại y lại la lối om sòm trước cửa phủ đòi phải gặp mặt người một lần. Quận chúa mềm lòng thưởng cho y một cái bánh là do trước đây y bị người khác ức hiếp. Giờ y vịn vào cớ đấy để gặp mặt Quận chúa, cũng nên bị đánh cho vài gậy.” Một thị nữ nhỏ tuổi nói.
Thị nữ vẫn đứng hầu hạ bên cạnh Quận chúa lên tiếng: “Thanh nhi, chuyện tình yêu sao có thể tự mình khống chế được.”
Thị nữ nhỏ tuổi giận dữ nói: “Vậy cũng không thể cóc ghẻ mà đòi ăn thịt thiên nga!”
“Được rồi Thanh nhi, chớ có nói mò.” Quận chúa day day thái dương, nheo mắt lười biếng nói: “Ăn mày cũng là người, các ngươi không được nói lung tung. Ta mệt rồi, mau lại đây đỡ ta vào trong nghỉ ngơi đi!”
Thị nữ Thanh nhi bĩu môi, nói: “Được rồi, Quận chúa của chúng ta thật là quá tốt bụng. Thế cũng đúng, bằng không Tướng quân sao có thể thương yêu Quận chúa như vậy chứ.”
Ta dựa vào mỹ nhân kháo nhìn ba người bọn họ rời đi, thầm nghĩ con mắt của cha quả thật là không tồi.
Mệnh cách viết vị Quận chúa này chết do khó sinh, bấm ngón tay tính toán thì ngày đó cũng đã tới gần.
Thở dài, đúng là tạo hóa trêu ngươi.
Nhớ lại đoạn đối thoại vừa rồi của họ, Quận chúa này có lẽ là người hào hiệp. Trên đường cái thấy một tên ăn mày bị ức hiếp liền ra tay giúp đỡ, lại thưởng cho bánh, còn tên ăn mày kia vừa gặp nàng tưởng là tiên nữ hạ phàm nên đem lòng yêu mến, dây dưa không dứt. Trong vòng ba trăm năm, tiết mục này ta đã xem nhiều tới mức không muốn cắn hạt dưa nữa, chỉ muốn ăn bánh hoa đào.
Nói đến bánh hoa đào, chắc là Tiểu Hắc đã mua được rồi, ta suy xét khi trở về thuận tiện đem công việc của mấy ngày tới giao cho người khác. Nghĩ thế, ta đứng dậy định xuyên qua tường nhưng tiếng động gậy gộc vang lên ở sân sau đã hấp dẫn sự chú ý của ta.
Ồ, kia chẳng phải mấy tên gia đinh chuyên đánh gậy hay sao, cô nương Thanh nhi thật là ngoan độc.
Ta ngừng một chút, cuối cùng không chống cự được sức hút của bánh hoa đào, đành quay trở về.
Hết chương 2
______________________
[1] Mỹ nhân kháo: Tục truyền, những nhà dân ở phủ Huy Châu nay thuộc tỉnh An Huy, Trung Quốc thường thiết kế ghế ngồi trong lầu các phía trên sân nhà. Con gái thời cổ đại không được bước xuống lầu, khi cô quạnh thì thường dựa vào đó mà trông ra bên ngoài, bởi thế ghế này mới được gọi là “mỹ nhân kháo”.