Những bức tường dày của lâu đài ngăn thế giới bên ngoài và làm nhẹ bớt âm thanh vang vọng từ bên trong. Tất cả những gì nàng nghe thấy là tiếng lửa tí tách, tiếng chàng nói, trầm và khàn, tiếng tim nàng đập thình thịch.
Nàng chống người trên khuỷu tay để nhìn chàng, vẫn để nguyên bàn tay kia trên ngực chàng, ở đấy nó thật ấm áp, bên trên tiếng tim chàng đập mạnh và bên dưới bàn tay dữ dội khéo léo của chàng.
“Em thấy nghi ngờ những điều như thế lắm,” nàng nói.
“Em nên yêu lại anh,” chàng nói. “Anh không hiểu vì sao em không thể yêu anh. Chúng ta sinh ra là để cho nhau. Điều đó hiển nhiên như mặt trời mọc đằng Đông.”
Nàng lại hít thật sâu và thở dài.
“Ở đây nhé,” nàng nói.
Nàng trượt ra khỏi giường, cầm cái váy ngủ trùm qua đầu.
Chàng ngồi bật dậy. Ánh lửa khiến da chàng vàng au và mơn trớn trên những cơ bắp cuồn cuộn của chàng. Đôi mắt màu bạc của chàng mở to, kinh ngạc. “Olivia!”
“Em muốn cho anh xem cái này,” nàng nói. “Em sẽ quay lại ngay thôi.”
Chàng đứng dậy, mặc áo ngủ và đang đi đi lại lại thì Olivia trở lại với một cái hộp trên tay.
“Xin lỗi,” nàng nói. “Bailey, như thường lệ, thức giấc dù cô ấy đang ngủ ngon. Cô ấy lúc nào cũng cảnh giác, giống như thần Argus với ngàn con mắt vậy. Cô ấy phải nhồi em vào một chiếc váy ngủ và càu nhàu em vì ăn mặc phong phanh dễ bị cảm lạnh. Lên giường đi anh.” Nàng đặt cái hộp xuống giường rồi trèo lên. “Lại đây nào,” nàng nhắc lại, vỗ vỗ xuống tấm ga trải. “Em muốn cho anh xem kho báu của em.” Nàng ngồi khoanh chân lại.
“Anh tưởng em đã cho anh xem rồi,” chàng nói.
Chàng trèo lên bên cạnh nàng.
Chàng hôn lên thái dương nàng. “Em không nên nhảy ra khỏi giường hai phút sau khi một người đàn ông nói với em là anh ta yêu em,” chàng nói. “Em không hiểu gì sao?”
“Em muốn anh thấy,” nàng nói.
Nàng mở hộp và bắt đầu lôi mọi thứ ra: những bọc thư chàng đã viết cho nàng, một hình người bằng gỗ nho nhỏ - món quà đầu tiên chàng tặng nàng, cái vòng tay đính đá xanh, mảnh thạch cao tuyết hoa... Vân vân và vân vân. Mười năm gom góp những báu vật nho nhỏ chàng gửi cho nàng. Một chiếc khăn tay với tên viết tắt của chàng mà nàng vừa trộm được mấy tuần trước.
Nàng ngước nhìn chàng, mắt cay sè và cổ họng nàng đau nhói. “Em yêu anh nhiều lắm,” nàng nói. “Anh thấy không?”
Chàng gật đầu chầm chậm. “Anh thấy,” chàng nói. “Ừ, anh thấy.”
Nàng có thể nói ra những lời đó, nhưng lúc nào nàng chẳng nói được mọi thứ và khiến ai cũng phải tin.
Nàng biết điều đó. Nàng hiểu chàng cũng biết điều đó.
Cái hộp lưu giữ những bí mật của nàng, những thứ thực sự có ý nghĩa với nàng.
Nàng để chàng nhìn sâu vào trái tim nàng, vào những điều nàng không nói, vào những điều chân thật.
Chàng nuốt mạnh. Sau một khoảnh khắc im lặng đầy xáo động, chàng nói, “Em phải cưới anh.”
Nàng nhìn hồi lâu vào bộ sưu tập bí mật của mình. “Em nghĩ em phải làm thế thôi,” nàng nói. “Em đã muốn dũng cảm và mạnh mẽ nhưng mọi chuyện đâu như em muốn.”
Chàng nhìn nàng. Nàng đặt những món nữ trang rẻ tiền vào, rồi đến những lá thư.
“Thật sao?” chàng hỏi.
“Vâng,” nàng đáp. “Em nghĩ em không thể kéo dài chuyện này, nhưng anh mỗi ngày một lớn trong em. Giống như đám mốc ấy.”
“Nghe buồn cười nhỉ.”
Nhưng sự nhẹ nhõm là có thực. Chàng đã không nhận ra sức nặng của cảm giác nản lòng đè lên chàng cho tới tận bây giờ, khi nó cất gánh đi.
“Chúng ta hòa nhau nhé,” nàng nói. “Chúng ta yêu nhau. Chúng ta là bạn bè. Và chuyện làm tình cũng khá tốt.”
“Khá tốt?”
“Tốt hơn nhiều so với trải nghiệm đầu tiên của Quý bà Cooper,” nàng nói. Nàng nhắc lại mô tả của hai quý bà về những cuộc hôn nhân đầu tiên của họ.
Chàng bật cười. “Ta đã làm tốt hơn ông chồng đầu tiên của Quý bà Cooper - và ta có một cái nhẫn và mọi thứ,” chàng nói.
“Cái nhẫn ở trong hòm,” nàng nói. “Ồ, đúng rồi.”
Chàng kéo nàng vào vòng tay và hôn nàng. “Nếu chúng ta đi đánh thức hai nhân chứng dậy, chúng ta có thể tự tuyên bố hôn ước của mình, chúng ta sẽ làm thế, và rồi em sẽ được ngủ lại đây đêm nay,” chàng nói. “Ở Scotland chuyện hôn nhân đơn giản hơn.”
Nàng ngả người ra sau và vuốt má chàng. “Nghe hấp dẫn lắm, nhưng em nghĩ mẹ em muốn thấy đám cưới của em.”
“Mẹ em, phải rồi.” Chàng lắc đầu. “Ta quên bẵng mất. Cha mẹ. Chết tiệt. Cha mẹ, quỷ tha ma bắt họ đi.”
“Em có một ý kiến,” nàng nói. “Chúng ta hãy mang theo mấy tấm chăn, chuồn xuống cầu thang, chôm một ít thức ăn trong chạn rồi làm tiệc picnic ngay trước lò sưởi lớn, và nghĩ kế đối phó với cha mẹ chàng.”
Nửa giờ sau
Họ ngồi khoanh chân trước đống lửa Lisle vừa nhóm. Họ có nửa ổ bánh mì, một miếng pho mát tuyệt hảo và một bình rượu mà họ có thể cầm cả bình mà tu.
“Cha mẹ ta,” chàng nói. “Những con người quái lạ. Ta đang ở đây, trong giây phút hạnh phúc nhất trong đời, một trong những giây phút như thế, còn họ chỉ mải nghĩ tới những chuyện kiểu như...”
“Ma mãnh,” nàng tiếp lời.
Chàng đặt một miếng pho mát lên lát bánh mì rồi đưa cho nàng. “Cha ta,” chàng nói vẻ dữ dằn.
“Những gì ông đã làm với mọi người ở đây. Ông thay đổi ý kiến hàng trăm lần. Ông đặt ra những luật lệ quái gở. Ông tăng giá thuê đất khi tự cho rằng mình kiếm chác từ họ như vậy là chưa đủ. Cứ hễ để mắt đến Gorewood là ông lại gây ra bao nhiêu chuyện tệ hại. Anh em nhà Rankin và những kẻ giống như chúng hoành hành, trộm cướp và gây rối, nhưng chẳng ai chứng minh được điều gì cả, và họ không có quyền lực để giữ gìn an ninh trật tự. Ngài Glaxton sẽ không can thiệp, ông ấy đã cố thử mấy lần nhưng cha ta dọa kiện cáo - và đơn giản là thật chẳng đáng làm mọi chuyện tệ hơn. Người trong làng quá chán nản và quá mải nỗ lực sống sót nên không thể chống trả lại. Và tất cả những gì ta có thể nghĩ là, ta có thể khôi phục tòa lâu đài và tạo ra công ăn việc làm, nhưng ta không thể ngăn cha ta lại, và ngay khi ta đi thì mọi chuyện sẽ lại tệ hại như cũ. Nhưng ta không thể ở đây được.”
Nó lại xuất hiện, vẻ có lỗi ấy trên gương mặt chàng.
“Anh không thể,” nàng nói. “Anh đã dành mười năm cuộc đời ở Ai Cập. Từ khi còn là một cậu nhóc, anh đã biết mình muốn gì và đã theo đuổi nó một cách cần mẫn. Đó là sự nghiệp của anh. Yêu cầu anh từ bỏ nó chẳng khác nào bắt một nhà thơ ngừng viết hay một họa sĩ thôi vẽ, hoặc cha dượng em từ bỏ chính trị. Anh không thể từ bỏ được.”
“Thế nhưng ta lại cảm thấy ta phải làm thế,” chàng nói.
“Ồ, tất nhiên anh sẽ cảm thấy như vậy rồi,” nàng nói. Nàng đưa tay vuốt má chàng. “Tất nhiên, anh... anh là người tốt.”
Nàng lướt tay xuống vỗ nhẹ lên ngực chàng. “Thật may mắn cho anh, cô dâu tương lai của anh vốn là người vô nguyên tắc.” Nàng hạ tay xuống, nhấc bình rượu lên uống.
“Anh yêu em nhiều lắm,” chàng nói.
“Em yêu anh dại khờ,” nàng nói. “Dù phải giết người để khiến anh hạnh phúc em cũng làm. Nhưng chắc không cần phải làm vậy đâu.” Nàng nhìn ngọn lửa hồi lâu, cân nhắc hết ý nghĩ này tới ý nghĩ khác. Rồi ý nghĩ ấy lóe lên trong đầu nàng, cực kỳ đơn giản. “Ôi, Lisle, em có một Ý Tưởng.”
Đại sảnh, Lâu đài Gorewood
Mười ngày sau
“Chuyện này thật không chịu nổi!” cha chàng hét lên. “Chú đã nuông chiều nó quá mức, Rathbourne, và chú biết chuyện này cực kỳ quái gở. Con trai ta đây, sẵn lòng, ồ không, háo hức được kết hôn...”
“Nó rất đau khổ,” mẹ chàng khóc tức tưởi. “Cứ nhìn thằng bé tội nghiệp mà xem.”
Vẻ mặt Lisle chẳng khác gì vẻ mặt chàng mỗi lúc cha mẹ chàng diễn kịch. Nhưng họ luôn thích áp đặt ý nghĩ của riêng họ lên bất cứ điều gì chàng nói và làm. Vậy thì cớ gì phải ngăn họ?
Chàng đã viết cho cha mẹ một lá thư do Olivia đọc, bỏ qua những chữ viết hoa và gạch chân của nàng, và cũng giảm bớt phần kịch tính nữa. Nàng cũng viết thư cho cha mẹ mình. Cha mẹ chàng vừa đến, ngay sau ông bà Rathbourne. Dù lý do khác nhau nhưng cả bốn người bọn họ đều háo hức được nhìn thấy hôn lễ diễn ra.
Rồi Olivia bảo họ nàng đã thay đổi ý định.
Hai Nữ Yêu đang ở lâu đài Glaxton. Không ai có thể hy vọng họ sẽ từ bỏ cuộc chơi này. Họ rất muốn tham dự, nhưng họ không thể đoán trước khi nào mình say xỉn.
Ngay cả Lisle, hoàn toàn tỉnh táo, cũng phải hy vọng là mình sẽ không nói sai điều gì. Diễn trò không phải là sở trường của chàng.
“Mọi chuyện ổn cả thôi, mẹ ạ,” chàng nói. “Con rất thất vọng, đúng thế, nhưng con sẽ phải chịu đựng chuyện này.”
“Ta không thể bắt Olivia cưới,” ngài Rathbourne nói.
“Nhưng con bé bảo nó yêu Lisle,” mẹ chàng gào lên. “Thằng bé cũng yêu nó. Chúng bảo chúng sẽ làm đám cưới. Lisle đã viết trong thư như thế. Tôi đã nói với tất cả mọi người!”
“Olivia đổi ý rồi,” Quý bà Rathbourne nói. “Olivia vẫn hay sớm nắng chiều mưa vậy mà.”
“Nhưng tại sao?” mẹ chàng kêu lên. “Tại sao hả Olivia?”
“Nếu bác cần phải biết - và thực lòng, cháu không muốn nói - cháu không bao giờ có ý làm tổn thương bác,” Olivia nói. “Nhưng sự thật là, cháu đã không nhận ra anh ấy không xu dính túi. Như thế đơn giản là không đạt tiêu chuẩn.”
Ông bà Rathbourne đưa mắt nhìn nhau.
Cha mẹ chàng thì không để ý. Họ chẳng để ý tới cái gì ngoài bản thân. Giây phút ấy, tất cả những gì họ biết là một trong những tiểu thư giàu có nhất nước Anh đang chối bỏ con trai họ.
“Nhưng nó sẽ được thừa kế!” cha chàng nói. “Nó là con trai cả của ta và là người thừa kế. Nó sẽ có mọi thứ.”
“Nhưng điều đó còn lâu mới xảy ra, theo ý Chúa,” Olivia nói. “Tất nhiên cháu rất mong hai bác sẽ sống lâu, mạnh khỏe và hạnh phúc.”
“Cháu nói cháu quan tâm tới nó, Olivia,” mẹ chàng trách móc. “Trước khi cháu tới đây, cháu đã để chúng ta hiểu rằng cháu sẽ mở lòng trước lời thỉnh cầu của Lisle cơ mà.”
Càng nhìn cha mẹ chàng tức điên lên với chàng, Olivia càng thấy khó giữ vẻ mặt nghiêm trang. Lisle thấy nàng phải mím môi để không bật cười.
“Đó là trước khi cháu nhận ra tình trạng vô sản của anh ấy,” nàng nói. “Nếu cưới anh ấy cháu sẽ thành trò cười còn anh ấy sẽ bị dư luận đeo bám. Mọi người sẽ nói cháu quá tuyệt vọng muốn lấy chồng đến nỗi phải lấy một kẻ đào mỏ.”
“Kẻ đào mỏ!” mẹ chàng rú lên.
“Cháu thì không nói vậy đâu,” Olivia nói. “Cháu biết Lisle không quan tâm tới những thứ như thế. Cháu biết anh ấy chỉ quan tâm đến cháu.” Ánh mắt xanh biếc của nàng thoáng nhìn sang phía chàng. “Nhưng hai bác biết người đời có thể khó chịu thế nào rồi đấy. Cháu không chịu được, vì cháu mà cũng vì Lisle nữa, khi cái tên đẹp đẽ của anh ấy bị những kẻ xấu mang ra đàm tiếu. Cháu thấy buồn khổ lắm... Cháu nghĩ bọn cháu rất hợp nhau... nhưng cháu sợ mình sẽ không bao giờ chịu đựng được chuyện này.”
Nàng quay sang Lisle, đôi mắt xanh của nàng ngân ngấn lệ. Chàng biết nàng có thể điều khiển những giọt nước mắt ấy rơi xuống hoặc không. “Lisle, em sợ là tình ta Vỡ Tan rồi.”
“Thật quá bất hạnh,” chàng nói. “Ta đã có chiếc nhẫn và mọi thứ khác.”
“Chuyện này thật ngu xuẩn!” cha chàng kêu lên. “Tất nhiên là Lisle không nghèo kiết xác rồi.”
“Anh ấy chẳng có tài sản riêng gì cả,” Olivia nói. “Chẳng có gì thuộc về anh ấy, ngoài chính con người mình. Anh ấy không có nguồn thu nhập đáng tin cậy. Anh ấy chỉ có một khoản trợ cấp...”
“Một khoản cực kỳ hào phóng,” cha chàng nói, “và ta sẽ tăng thêm nữa, vì nó có công hoàn thành tốt mọi việc ở đây.”
“Một khoản trợ cấp thì bác có thể cung cấp hoặc tịch thu tùy theo tâm trạng của bác,” nàng nói. “Nó không phải của anh ấy.”
Cuối cùng thì hẳn cha chàng cũng hiểu ra vấn đề, vì ông thôi đi đi lại lại trong phòng và nét mặt có vẻ trầm ngâm. “Tất cả trở ngại chỉ có vậy thôi hả?” ông nói. “Tiền ấy?”
“Tiền,” Olivia nói. “Nhưng không, không chỉ có tiền. Một khoản tiền không phải là... tài sản vững chắc. Cái chúng cháu muốn là đất đai cơ. Không ai có thể gọi anh ấy là kẻ đào mỏ nếu anh ấy có đất đai.” Nàng nhìn ra xung quanh, vào những bức tường của căn phòng rộng thênh thang, giờ đã treo đầy tranh ảnh. “Vùng đất này chẳng hạn. Đúng thế,” nàng nói vẻ suy tư. “Cháu đang nghĩ về chỗ này đấy, như thế sẽ rất ổn. Trao lại toàn bộ Gorewood cho anh ấy thì cháu sẽ kết hôn với anh ấy ngay khi hai bác thấy thuận tiện.”
Đêm hôm ấy
Sẽ có một đám cưới lộng lẫy và một bữa tiệc cưới hoành tráng trong vòng một tháng tới. Tuy nhiên, từ giờ đến lúc đó, ông bà Atherton quyết không để Olivia hối hôn. Họ bảo người hầu tới Edinburgh mời về một luật sư, ông này sẽ soạn mọi giấy tờ, bàn giao Gorewood cùng toàn bộ những thứ thuộc về vùng đất này và mọi thu nhập, vân vân và vân vân, cho Bá tước Lisle.
Mọi việc xong xuôi vừa lúc mặt trời buông xuống.
Ngay sau đó, Olivia và Lisle tuyên bố hôn ước trước cha mẹ họ, Quý bà Cooper và Quý bà Withcote, ngài Glaxton cùng vài người thân của ông, và tất cả người hầu trong nhà.
Aillier chuẩn bị một bữa tối thịnh soạn, có cả món bánh ngọt tuyệt ngon nướng trong cái lò xấu xí của ông ta.
Tất cả mọi người tụ tập trong đại sảnh, tổ chức tiệc mừng.
Khi Lisle và Olivia bước ra khỏi phòng, mọi người đều mỉm cười.
Trong ánh mắt của phụ mẫu hai bên thì đám cưới nên diễn ra càng sớm càng tốt.
Chàng đưa Olivia lên gác thượng.
Chàng cẩn thận cài then cửa lại.
Chàng mang theo chăn mền và áo lông thú, bởi vì lúc này là tháng Mười một, tháng Mười một ở Scotland, không khí lạnh như băng. Tuy nhiên đêm nay, những vị thần thời tiết tính khí thất thường đã mỉm cười với họ và xua tan mọi đám mây.
Olivia dựa vào cánh tay chàng và nhìn lên bầu trời đêm. “Trời nhiều sao quá,” nàng nói. “Em chưa bao giờ thấy nhiều sao đến thế.”
“Nơi này thật đẹp theo cách riêng của nó,” chàng nói. “Nó xứng đáng được đối xử tốt hơn những gì cha ta đã làm.” Chàng kéo nàng lại gần hơn và hôn nàng. “Nó thật lộng lẫy. Em cũng thật lộng lẫy.”
“Vô lương tâm và vô nguyên tắc, nói dối và lừa gạt,” nàng nói. “Đúng thế đấy, vừa rồi em đã thể hiện hết mình.”
“Đó là một ý tưởng tuyệt vời.”
“Đó là một kế hoạch hiển nhiên. Ai có thể tốt hơn anh trong việc làm chủ thái ấp Gorewood?”
“Và ai giỏi hơn em để làm một việc mà chẳng ai khác làm được: Khiến cha anh nhường lại một thứ mà ông không muốn nhường.”
“Anh đợi đã,” nàng nói. “Đến một thời điểm nào đó, chúng ta cũng sẽ đánh cắp các em trai của anh nữa.”
“Khi chúng lớn hơn một chút, ta sẽ đưa chúng vào trường học,” chàng nói. “Trường học không bao giờ hợp với tính cách của anh, nhưng bọn chúng không giống anh. Anh nghĩ chúng sẽ hạnh phúc khi ở đó.”
“Anh sẽ hạnh phúc khi ở đây chứ?” nàng nói.
“Tất nhiên rồi,” chàng nói. “Rất nhiều. Nhưng em biết đấy, anh sẽ không bao giờ thực sự hòa hợp được.”
“Em không muốn anh phải hòa hợp. Anh không cần phải hòa hợp. Chúng ta đã có Herrick.”
Chàng cười. “Và hành động đầu tiên để thể hiện địa vị chủ nhân của Gorewood sẽ là thăng chức cho ông ấy làm người quản lý lâu đài. Ôi, Olivia, quyền lực thật dễ chịu. Chẳng khác gì được sống ở Ai Cập. Thật tuyệt khi được tự do hành động, tự do làm những gì anh nghĩ là đúng. Nếu để những người ở đây sống dưới sự cai quản của cha anh thì anh sẽ bị cảm giác tội lỗi gặm nhấm tới mòn mỏi mất thôi. Giờ anh không cần phải nói với ông về Jock và Roy. Nếu có biết chuyện thì ông cũng chẳng làm được gì. Ông chẳng thể làm gì với Mary Millar. Ông không thể sa thải hay thuê mướn người. Đây là nơi duy nhất cha anh không thể gây náo loạn.”
Chàng đã bảo anh em nhà Rankin là chúng có thể dành năm năm tới giúp đỡ xây dựng lại và hiện đại hóa đường sá cũng như nhà cửa trong làng, hoặc chúng có thể tìm cơ hội cho mình ở trong tù. Chúng đã chọn được làm việc.
“Năm năm lao động thực sự có thể sẽ thay đổi anh em Rankin,” chàng nói. “Nếu không thì... ừm, chúng ta không phải lo lắng gì về chuyện đó. Và anh cũng không thấy có lý do gì phải đuổi việc Mary.”
“Cô ấy đã mắc vào tình huống bất khả kháng,” Olivia nói. “Nhưng cuối cùng, cô ấy đã hành động rất đúng đắn.”
“Đó là điều lớn nhất chúng ta có thể đòi hỏi ở con người,” chàng nói. “Hành động đúng đắn.”
Nàng quay đầu lại ngước nhìn chàng, chiếc áo lông tuột xuống vai nàng. Chàng kéo nó lên. Lát nữa chàng sẽ cởi bỏ váy áo nàng, thật chậm. Mà cũng có thể sẽ thật nhanh. Nhưng đêm trên gác thượng thì quá lạnh để có thể mơn trớn nhau.
“Anh đã hành động rất đúng đắn,” nàng nói. “Trong việc giải quyết mọi tình huống, ở một nơi mà anh không bao giờ muốn ở.”
“Anh đã học được nhiều điều.” Chàng kéo nàng lại gần. “Ta đã được một thứ rất lớn. Thật đáng bực mình. Nhưng ta phải cảm ơn cha ta, vì đã khơi nguồn chuyện này.”
“Và cảm ơn em,” nàng nói. “Vì đã kết thúc nó một cách cực kỳ đẹp đẽ.”
“Chúng ta kết thúc rồi sao?” chàng nói.
“Không hẳn,” nàng nói. “Tuy nhiên, khi tổ chức tiệc cưới hoành tráng, chúng ta phải lên kế hoạch chi tiết cho mọi thứ. Khi ấy chúng ta có thể lên đường đi trăng mật.”
“Ồ, anh quên mất chuyện đó đấy. Anh nghĩ em muốn tới một nơi nào đó thật lãng mạn. Paris. Venice.”
“Không đâu,” nàng nói. “Anh ngốc quá. Những chỗ ấy thì ai chẳng đến.” Nàng quay lại phía chàng. “Em muốn tượng Nhân sư và những Kim tự tháp, những hầm mộ và những xác ướp bốc mùi cơ.” Đôi môi nàng chạm nhẹ lên tai chàng. “Đưa em tới Ai Cập nhé, bạn thân mến.”