Olivia cưỡi ngựa thành thạo đâu thua gì dân di gan.
Khi cưỡi ngựa, nàng đã ngồi sau lưng cha không biết bao nhiêu lần.
Nhưng đó là cha nàng, và khi ấy nàng còn bé.
Lisle không phải cha nàng. Trên lưng ngựa, nàng đã ngồi sau chàng một hai lần, nhưng chuyện đó xảy ra cách đây bao nhiêu năm rồi, thuở ấy chàng còn chưa lực lưỡng nam tính thế này.
Nàng đã không nghĩ ra chuyện bám vào áo khoác của chàng mà cứ thế vòng tay quanh hông chàng, bởi vì với nàng việc đó hết sức tự nhiên.
Giờ đây, nàng chợt cảm nhận được vòng hông rắn chắc dưới cánh tay nàng và tấm lưng thẳng thớm tựa vào ngực nàng. Nàng cảm nhận được đùi áp vào đùi, chân tì lên chân và sự chuyển động nhịp nhàng của hai cơ thể khi ngựa chạy trên con đường lầy lội bùn.
Nàng thực sự cảm thấy từng thớ thịt của mình như tan ra.
À, không sao, chỉ là một đoạn đường ngắn thôi, và cuối đoạn đường sẽ là một bài thuyết giáo chán ngắt lê thê. Sẽ vô vị và phiền phức đến khó chịu.
Nàng nhẹ nhàng áp má lên cổ Lisle, hít lấy hương thơm tự nhiên của đàn ông, của ngựa và không khí vùng nông thôn sau cơn mưa, đâu đó thoảng đưa thử mùi nước cạo râu như thể trêu ngươi nàng vậy.
Một lát sau chàng hỏi, “Ta thắc mắc là bà Millicent nhanh nhẹn kiểu gì vậy?”
“Không có gì kỳ cục như ngài tưởng tượng đâu,” nàng nói. “Không có gì giống kiểu những vũ nữ hậu cung của chàng, em đảm bảo đấy. Không điêu luyện bằng.”
“Thứ nhất, ta không tưởng tượng,” chàng đáp. “Thứ hai, nếu em đang ám chỉ đến gái nhảy thì nói chính xác ra họ không phải là vũ nữ hậu cung.”
Ồ, được thôi, một bài giảng ngôn ngữ. Điều đó sẽ giúp tâm trí nàng khỏi phải nghĩ tới vẻ rắn rỏi đầy nam tính và hương thơm đàn ông, những thứ lẽ ra phải đóng chai có dán nhãn nguy hiểm chết người.
“Từ hậu cung, em biết không, thường dùng để chỉ các phụ nữ của một gia đình,” chàng tiếp lời, “mặc dù đó không phải nghĩa chính xác của từ ấy, một từ vốn dùng để chỉ một nơi cấm kỵ và thiêng liêng. Còn gái nhảy lại ngược lại...”
“Em cứ tưởng chúng ta sẽ rẽ trái chứ nhỉ,” nàng nói.
“Ồ. Phải.” Chàng quay ngựa lại.
Vừa kịp lúc. Có thể là do mùi hương của chàng, do sức nóng cơ thể chàng, tất cả vẻ nam tính đó hoặc có khi đúng hơn là toàn bộ sự kết hợp nguy hiểm này, cho nên nàng thấy mình thật lòng càng lúc càng thích cái nghĩa hàm ẩn của từ hậu cung.
Lát sau, họ phi vào một đồng cỏ, tiến tới một khoanh đất nhỏ có rào bảo vệ, bên trong hóa ra là một phiến đá.
“Đây rồi,” chàng nói.
Khi tới gần hơn, nàng nhìn thấy một tấm biển sắt gắn trên phiến đá.
“Một tảng đá,” nàng nói. “Ngài dừng ngựa đưa em đi xem một tảng đá ư.”
“Đây là Phiến đá Khinh khí cầu,” chàng nói. “Chiếc khinh khí cầu đầu tiên của nước Anh đã hạ xuống chỗ này.”
“Thế ư, thật không?”
“Người ta đã tịch biên chỗ này, nhưng...”
“Ồ, em phải xem mới được.”
Mong mỏi được tách xa chàng để đầu óc thanh bình trở lại, nàng không muốn chậm trễ giây nào nữa. Nàng đặt một tay lên yên ngựa và một tay lên đùi chàng, chuẩn bị nhảy xuống. Nàng cảm thấy nó ngay lập tức, cú sốc từ sự đụng chạm thân mật, nhưng quá trễ để có thể dừng lại - và thật thô lỗ nếu làm thế. Đây là cách nhanh và dễ nhất để xuống ngựa.
Nàng vung chân qua mông ngựa, cảm nhận sức ép của bàn tay Lisle trên tay nàng... trên chân chàng... giữ nàng chắc chắn. Tim đập mạnh, nàng trượt xuống đất.
Nàng không đợi chàng xuống ngựa mà vội đi tới bên hàng rào, tay xách váy và trèo qua rào để vào khoanh đất nhỏ.
Nàng biết đã để chàng thấy một phần váy lót và bít tất. Nàng biết hình ảnh đó tác động đến đàn ông mạnh chừng nào. Nhưng chàng đã làm nàng xáo động theo cách đó. Trả đũa như vậy mới công bằng.
“‘Hãy Để Hậu Thế Biết,’” nàng đọc to với chất giọng hùng hồn thường sử dụng khi phát biểu, “‘Và Kinh Ngạc Trước Việc Vào Ngày 15 Tháng Chín Năm 1784, Vincent Lunardi Của Thành Lucca Xứ Tuscan Là Người Đầu Tiên Du Hành Bằng Khinh Khí cầu Trên Bầu Trời Nước Anh, Đã cất Cánh Từ Artillery ở London Và Bay Ngang Qua Các Vùng Trong Vòng Hai Giờ Mười Lăm Phút, Tại Địa Điểm Này Con Người Đã Khám Phá Lại Trái Đất.’”
Lisle đứng lại bên hàng rào. Chàng vẫn chưa tĩnh trí được sau quãng đường vừa rồi: cánh tay Olivia vòng quanh hông chàng, bộ ngực phì nhiêu của nàng tì lên lưng chàng, đôi chân nàng ép chặt sau chân chàng. Sự xao động thể xác vẫn còn rung chuyển khắp cơ thể chàng, nhất là nơi chạm vào phía trước yên ngựa.
Nàng đã khiến chàng quá mụ mị tới nỗi chàng phi quá cả chỗ rẽ.
Chàng chưa kịp tĩnh trí lại thì nàng đã bước qua hàng rào, để lộ cho chàng thấy hình ảnh tuyệt vời của váy lót và bít tất nàng mang.
Đó là hành động tinh quái đặc trưng của nàng, trước kia, khi hai người ở bên nhau nàng cũng thường làm như thế. Nàng nghĩ về chàng như một người anh trai. Đó là lý do tại sao nàng không để ý tới váy xống và nàng không ngần ngại nhảy lên ngựa, ngồi ngay sau lưng chàng.
Nhưng chàng đâu phải anh trai nàng và cũng không còn là cậu bé ngày xưa, điếc lác, trì độn, mù tịt trước sự rập rờn của váy áo con gái. Đấy là còn chưa nói tới chuyện hồi bé nàng không đi đôi tất giống bây giờ, với những đường thêu xanh biếc quyến rũ, và cũng không mặc chiếc váy lót có những đường diềm vô cùng nữ tính thế kia. Và ngày ấy nàng không sở hữu đôi chân chắc nịch với mắt cá chân bóng láng - hoặc là nàng vẫn có từ xưa, chỉ là chàng không để ý.
Sau khi xua đuổi được những ý nghĩ này, toàn thân dịu xuống và trí óc tĩnh lại, chàng bước qua hàng rào, đứng sau lưng nàng trong lúc nàng đọc xong lời vinh danh được trang trí lộng lẫy dành cho nơi chiếc khinh khí cầu đầu tiên của nước Anh hạ xuống.
Cuối cùng nàng nhìn chàng, nói, “Không phải kỳ lạ lắm sao? Cánh đồng yên tĩnh này đã chứng kiến một sự kiện quan trọng như thế. Thật tuyệt vì họ đã đánh dấu địa điểm này.”
“Em bảo em chưa bao giờ đi ngắm cảnh,” chàng nói. Và dù đã rất bực - tới giờ vẫn bực - nhưng chàng cũng thấy rất thương nàng. Khi chàng còn nhỏ, dượng nàng thường đưa chàng đi chu du cùng. Ngài Rathbourne luôn dành thời gian chỉ cho chàng xem các thắng cảnh và kể những câu chuyện về chúng, đặc biệt là những câu chuyện kinh dị mà bọn con trai ưa thích, về những kẻ giết người rùng rợn và ma quỷ.
Thật kỳ cục và bất công khi một cô gái với trí tưởng tượng sống động như thế, người luôn khao khát thay đổi và thích sự phấn khích như thế, lại có quá ít cơ hội thăm thú đó đây.
“Em chẳng biết gì về chuyện này,” nàng nói. “Chỉ có tưởng tượng thôi. Gần năm mươi năm rồi. Không biết người dân quanh đây nghĩ gì khi thấy chiếc khinh khí cầu ấy nhỉ?”
“Họ đã sợ hãi,” chàng đáp. “Thử hình dung em là một người trong làng vào thời ấy xem.” Chàng nhìn lên bầu trời xám xịt. “Em nhìn lên và đột nhiên thấy xuất hiện một thứ khổng lồ ở nơi vốn chỉ có chim lượn và mây bay.”
“Em không biết mình có thấy sợ không nữa.”
“Ta không nói là em,” chàng nói. “Mà ta đang nói giả sử em là một dân làng, một người bình thường.”
Thật không thể hiểu nổi. Tối thiểu thì Olivia cũng là người bình thường chứ.
“Em luôn muốn được lên một chiếc khinh khí cầu,” nàng nói.
Chẳng có gì đáng ngạc nhiên.
“Chắc hẳn phải sướng run người,” nàng nói, “khi được nhìn xuống toàn bộ thế gian từ độ cao như thế.”
“Lên cao thì tuyệt lắm,” chàng nói. “Nhưng hạ xuống lại khác hẳn. Lunardi không biết làm cách nào để lái cái khinh khí cầu. Ông ấy đã mang theo mái chèo với ý nghĩ mình có thể chèo trong không khí.”
“Nhưng ông ấy đã thử,” nàng nói. “Ông ấy hình dung ra một thứ và theo đuổi nó. Một Hành trình Chinh phục. Và đây là viên đá ghi dấu sự kiện đó, cho tất cả hậu thế, đúng như lời khắc trên đây.”
“Em không thấy đoạn văn ấy bị thổi phồng quá đáng à?” chàng nói. Đó là một câu chơi chữ liều lĩnh, nhưng chàng không thể cưỡng lại được.
“Thổi phồng, ôi, Lisle. Đó là...” Nàng khịt mũi, cố nén cười, chuyện đó khiến nàng suýt nghẹt thở. “Xấu xa.”
“Ông ấy mang theo một con mèo, một con chó, một con bồ câu, và một hòm đồ dự trữ,” chàng nói. “Đồ dự trữ thì ta hiểu. Còn lũ động vật thì ta chịu. Dù sao đi nữa, chẳng mấy chốc con bồ câu đã bay mất, và con mèo không hợp với chu du trên không, thế nên ra khỏi London chưa bao xa thì nó phóc ra ngoài mất.”
Lúc này thì nàng phá lên cười thực sự, một chuỗi âm thanh êm ái khiến chàng phải giật mình xao xuyến. Nó không hề giống tiếng cười giả tạo của đa số phụ nữ. Tiếng cười của nàng trầm thấp, một âm thanh mỏng manh như làn khói vuốt ve dọc xương sống chàng.
Nó khuấy lên những hình ảnh nguy hiểm - một chiếc giường buông màn rung rinh trong gió nhẹ, chăn ga nhàu nhĩ - và nó lập tức khiến chàng tiêu tan cơn giận. Chàng ngu ngơ mỉm cười với nàng.
“Cũng là một thứ hay,” nàng nói. “Sao ngài không thể vẽ lại cảnh ấy? Cái giỏ của chiếc khinh khí cầu - một không gian nhỏ chật ních đồ ăn thức uống và mái chèo rồi cả dụng cụ nữa, cộng thêm con mèo, con chó và con bồ câu. Và kia là con mèo, nằm bệt trên sàn. Em có thể thấy vẻ mặt của Lunardi. Ông ta hẳn phải rất muốn đá con mèo chết tiệt ấy ra ngoài! Em băn khoăn không biết khi ông ta phóng thích nó thì chiếc khinh khí cầu đã chạm đất chưa.”
“Ồ, Olivia, em biết ta không có trí tưởng tượng...” Chàng khịt mũi, rồi trong chốc lát cũng phá lên cười, không ngừng được, trước những cảnh tượng nàng vẽ nên trong đầu chàng.
Trong một thoáng, mọi oán thán tức giận trong chàng tan biến hết, chàng trở lại là cậu bé vô tư ngày xưa. Chàng dựa lưng vào hàng rào, cười như lâu lắm mới được cười.
Rồi chàng kể cho nàng nghe chuyện bà Letitia Sage nặng gần một tạ, “phụ nữ Anh đầu tiên chu du trên không trung,” bà đã lên một chuyến khinh khí cầu khác cùng với bạn của Lunardi là Biggins.
Tự nhiên, Olivia phác ra một bức tranh: cái giỏ chao đảo trong gió, và người phụ nữ béo phục phịch bò dưới sàn, vô tình lại bị trôi về phía ông Biggins đang sợ chết khiếp. May thay đúng lúc ấy gió lại thổi lên, thế là ông Biggins không bị đè bẹp.
Với ý nghĩ này nàng không chỉ kể; mà còn biểu diễn nó, chêm những giọng nói khác nhau vào từng phần, kể cả tiếng động vật.
Cùng nhau kể bao nhiêu câu chuyện và cười thoải mái, họ xích lại gần nhau hơn. Họ không hề tính tới điều này, tất cả đều hết sức tự nhiên. Ngày xưa họ vẫn luôn như vậy.
Chàng đã ở đó rất rất lâu, quên béng mất cơn giận dữ và bực bội của mình, cứ thế say sưa vui thích vì có nàng ở bên. Chàng đã rất nhớ nàng, đó là một sự thật không thể chối cãi. Chàng nhớ thế giới dường như đã trở lại cân bằng khi nàng kéo chàng vào căn phòng chờ đêm hôm ấy - mới chỉ cách đây vài hôm - và nói, “Kể em nghe.”
Tất nhiên, nàng cũng chẳng mất nhiều thời gian để lại đảo lộn thế giới của chàng, tới một mức độ khủng khiếp, và chàng vẫn muốn giết nàng. Nhưng lúc này đây, chàng đang vô cùng choáng ngợp và hạnh phúc như đã từng như vậy bao nhiêu năm về trước.
Chàng không vội quay về xe, ngay cả khi gió mạnh đang thổi vù vù như quật vào mặt.
Nhưng nàng đang run, thế nên chàng bảo, “Tốt hơn là chúng ta nên quay lại.”
Nàng gật đầu, mắt vẫn nhìn phiến đá. “Chắc chắn chúng ta đã dành cho hai quý bà rất nhiều thời gian để đoán xem chính xác thì chúng ta vừa làm gì.”
“Bộ đôi ấy,” chàng nói. “Làm thế quái nào em thuyết phục được cha mẹ em là họ phù hợp làm người giám hộ? Mà nhân tiện, ta chẳng hiểu sao em có thể thuyết phục mọi người...”
“Lisle, ngài thừa biết giải thích trò bịp là chống lại luật lệ nhà DeLucey cơ mà.”
Chàng ngắm nét mặt nhìn nghiêng thoảng nụ cười của nàng. “Thế nghĩa là em đã bịp bợm,” chàng nói.
Nàng quay lại nhìn chàng, đôi mắt xanh biếc ngây thơ, như thể chẳng có điều gì che giấu. “Xét trên mọi phương diện đều đúng. Ngài vẫn còn giận em sao?”
“Giận điên lên,” chàng đáp.
“Em cũng giận điên lên với ngài đây,” nàng nói. “Nhưng tạm thời em sẽ gác chuyện đó qua một bên bởi vì ngài đã chỉ cho em phiến đá này chứ không lên lớp em một bài chán ngắt về đạo đửc, lương tâm và đủ thứ khác.”
“Ta không lên lớp!” chàng nói.
“Thường xuyên ấy chứ,” nàng đáp trả. “Thường thì em thấy chuyện đó cũng khá dễ thương, nhưng hôm nay em chẳng có tâm trạng. Vì ngài đã kiềm chế, em sẽ hôn để đền bù. Nói một cách ẩn dụ thôi. Đối với lần này thì là thế.”
Chàng nhận ra ánh mắt mình đã lướt xuống bờ môi nàng. Chàng thận trọng tập trung trở lại vào tai phải của nàng, đối tượng này có vẻ an toàn. Nhưng không. Nó thật nhỏ nhắn và xinh xắn. Nó lúc lắc một chiếc bông tai bằng vàng, với rất nhiều vật trang trí xung quanh miếng ngọc bích. Chàng nhận ra đầu mình đang cúi xuống sát nàng hơn.
Chàng buộc mình phải nhìn hẳn ra xa - vào Phiến đá Khinh khí cầu, đồng cỏ, bất cứ cái gì miễn là không phải nàng. Hương thơm thiếu nữ ngào ngạt quá gần chàng - mà ngọn gió chết tiệt ấy từ đâu ra vậy? Nó đột ngột thổi, rồi đột ngột tắt lịm, và giờ đây chàng có thể ngửi thấy nàng.
Chàng quay sang để bảo nàng đã đến lúc phải đi. Cùng lúc đó, nàng quay đầu lại và ngả người vào.
Môi nàng chạm môi chàng.
Một luồng run rẩy xẹt khắp người chàng.
Trong một giây đầy xáo động, họ cứ thế nhìn nhau chằm chằm.
Rồi họ nhảy lùi ra như thể sét vừa đánh vào hàng rào.
Nàng day môi thật mạnh, như thể một con côn trùng vừa đậu ở đó.
Trống ngực đập thình thịch, chàng cũng làm như thế.
Day môi chẳng ích gì. Olivia biết nàng sẽ chẳng bao giờ xóa bỏ được nó: cảm giác ấm áp, rắn chắc của đôi môi chàng, thoáng hương vị như trêu ngươi.
“Đáng lẽ ngài không nên đưa miệng lại đó,” nàng nói.
“Ta đang quay lại để nói với em,” chàng nói. “Lẽ ra miệng em không nên ở gần như thế.”
Nàng trèo qua hàng rào. “Em đã bảo em sẵn sàng hôn để đền bù một cách ẩn dụ thôi mà,” nàng nói.
“Em đã hôn ta!”
“Ý em chỉ là cái hôn vào má của một người em gái.”
Nàng hy vọng mình nghĩ như thế thật. Nàng mong sao mình đã nghĩ cái gì đó. Nàng ước mình không loạn trí thế này.
“Em không phải em gái ta,” chàng vừa nói bằng giọng nghiêm trang như thường lệ vừa bước theo nàng ra khỏi khoảng đất. “Chúng ta chẳng có họ hàng gì cả. Cha dượng em trước đây lấy cô của ta, thế thôi.”
“Cảm ơn ngài về bài giảng phả hệ,” nàng nói.
“Vấn đề là...”
“Em sẽ không làm thế nữa đâu,” nàng nói. “Ngài hãy tin như vậy đi.”
“Vấn đề là,” chàng khăng khăng nói tiếp, “đàn ông có sự phân biệt trong những chuyện như thế. Khi một phụ nữ quyến rũ ở gần thì dường như cô ấy đang đưa ra lời mời mọc...”
“Đó không phải một lời mời mọc!”
“Dường như,” chàng nhắc lại. “Dường như. Em không nghe à?”
“Ngay lúc này thì em ước gì mình bị điếc.”
“Phụ nữ rất tinh tế,” chàng nói. “Họ giỏi phân biệt. Đàn ông thì không. Đàn ông giống như loài chó, và... Chúa ơi, sao ta lại giảng giải chuyện này với em cơ chứ? Em biết rõ đàn ông thế nào mà.”
Trước đây thì nàng nghĩ là mình biết thật.
Họ đi tới chỗ con ngựa. Olivia nhìn nó, rồi nhìn chàng. “Tốt nhất là chúng ta nên quay lại, trước khi các quý bà chết vì tò mò,” nàng nói. “Ngài có thể tiếp tục bài giảng trong khi chúng ta trở lại xe ngựa.”
“Ta không lên ngựa với em nữa đâu,” chàng nói.
Nàng cũng không muốn thế. Cơ bắp và sức nóng cùng mùi hương đàn ông là thuốc độc đối với tâm trí phụ nữ. Nàng không chịu đựng được chuyện mình trở nên ngớ ngẩn vì đàn ông, đặc biệt là vì chàng.
Chàng đan chéo hai tay lại. “Em lên đi.”
Đó là điều khôn ngoan duy nhất đáng làm. Nhưng mà...
“Đường lầy lội bùn đấy,” nàng nói. “Ngài sẽ làm hỏng đôi ủng mất.”
“Ta có ủng khác,” chàng nói. “Lên đi.”
Nàng thở dài ra vẻ cáu kỉnh để giấu đi cái thở phào nhẹ nhõm thật sự trong lòng, cầm lấy dây cương, và đặt chân lên hai bàn tay đan vào nhau của chàng. Nàng nhún người phóc lên ngồi trên yên ngựa rồi khởi hành.
Nhanh nhẹn và khéo léo, chàng giúp nàng điều chỉnh bàn đạp, rồi kéo váy nàng rủ xuống.
“Ôi, vì Chúa,” nàng kêu lên.
“Mọi người có thể thấy hết đấy,” chàng nói.
“Giờ ngài mới khắt khe làm sao chứ,” nàng nói.
“Em quá khinh suất đấy,” chàng càu nhàu, “để lộ ra tất cả... tất cả vẻ nữ tính trước toàn thế giới.”
A, được lắm, điều đó quấy rầy chàng, phải không?
Tốt. Chàng xao động vì nàng.
Nàng mỉm cười, rồi khẽ vỗ vào hông con ngựa, ra hiệu cho nó khởi hành.
Khi Olivia trở lại thì hai quý bà đang ngủ, và khi xe tiếp tục lên đường họ vẫn không tỉnh giấc.
Trong lúc họ ngáy, Olivia mở cuốn Những nẻo đường của Paterson ra. Để giết thì giờ, nàng đọc cho Bailey nghe thông tin về các thị trấn, làng mạc họ đi qua, tên những nhân vật quan trọng sống quanh đây, và những mô tả về nơi ở của những người đó.
Chiếc xe ì ạch chạy lên đồi, đưa họ tới một điểm đổi ngựa ở Buntingford. Con đường tiếp tục dốc lên tới điểm đổi ngựa tiếp theo ở Royston. Từ sau đó, vận tốc của ngựa tăng lên khi họ băng qua một quãng đường đất đẹp bằng phẳng. Họ tiếp tục đi tới sông Cam, rồi lên Arrington. Tại đây, họ dừng lại ở quán trọ HardWicke Arms, được chính nữ chủ nhân ra đón tiếp, chuyện này không có gì đáng ngạc nhiên. Bà ta nhận ra chiếc xe ngựa chạy đường trường của nữ Bá tước thừa kế, như mọi chủ quán trọ khác trên xa lộ của hoàng gia, bà ta biết cái huy hiệu gắn trên chóp xe được diễn giải là: Tiền, Rất nhiều tiền, Tiêu tiền không cần nghĩ.
Ở điểm dừng này, hai quý bà đã tỉnh giấc. Kêu ca đói bụng và khát nước, họ xuống xe ngựa ngay khi cậu đầy tớ đặt bậc thang xuống.
Olivia đang soạn sửa bước xuống thì Lisle đi bộ tới mở cửa xe cho nàng.
“Em biết ngài bảo ngài lãnh quyền chỉ đạo, nhưng chúng ta phải dừng lại ăn thôi,” nàng nói. “Ai cũng đói lả rồi.” Vì có vụ ẩu đả ở quán trọ Falcon, nàng đã không ăn sáng ở đó. Ở Ware, nàng quá bực mình nên không thiết ăn uống gì.
“Ta không định làm em chết đói,” chàng nói. Chàng đưa tay ra và nàng hững hờ nắm lấy bàn tay ấy, lờ đi sự xáo động dữ dội tràn ngập trong lòng, vội vã bước xuống bậc thang chật hẹp. Ngay khi đứng vững trên mặt đất, nàng thả tay chàng ra đoạn rảo bước đi về phía quán trọ.
Tuy nhiên, nàng không thể đi nhanh hơn chàng. Chàng sải bước khoan thai, chẳng mấy chốc đã đuổi kịp nàng.
“Lẽ ra ta nên dừng sớm hơn, sao em không nhắc ta là em chưa ăn sáng,” chàng nói. “Tốt hơn em không nên phó mặc ta phải để ý tới những chuyện như thế. Nếu không đói, ta chẳng bao giờ nghĩ tới thức ăn. Ở Ai Cập, khi bọn ta chu du, ta không khi nào lo chuyện ăn uống, bởi vì có người hầu chuẩn bị tất cả. Hơn nữa, bọn ta thường lái dahabeeya, với một người đầu bếp, đồ dự trữ và dụng cụ nấu nướng. Bọn ta không phải dừng ở quán trọ để ăn uống - mà ở ngoại ô Cairo cũng chẳng có nhiều quán trọ ven đường. Đi bằng dahabeeya cũng giống như chu du trong một ngôi nhà vậy.”
Những hình ảnh bủa vây tâm trí nàng, đủ sống động để giúp nàng quên đi những cảm giác phiền phức. “Thế thì tuyệt vời lắm nhỉ,” nàng nói. “Một con thuyền bơi giữa dòng sông Nile, người lái thuyền mặc áo dài trắng và đội khăn xếp. Khác hẳn ở đây.” Nàng khoát tay chỉ xung quanh cái sân. “Ngài đi dọc con sông. Hai bên bờ trải dài những khung cảnh hùng vĩ. Một vùng cây cối xanh tươi, trù phú. Nơi thảm thực vật kết thúc, sa mạc và núi non trải ra, và ở giữa nơi đó xuất hiện những đền đài và lăng tẩm, những bóng ma của một thế giới cổ đại.”
Nàng vừa miêu tả xong hình ảnh tưởng tượng của mình thì họ cũng bước chân vào quán. Nàng thấy chàng nhìn mình chăm chăm như thể nàng là một nét chữ kỳ lạ trên mảnh đá vậy.
“Gì thế?” nàng nói. “Gì nào? Em nói lung tung quá à?”
“Sao em dễ tưởng tượng thế nhỉ,” chàng thốt lên.
Điều đó với nàng tự nhiên như hơi thở vậy.
“Trong trường hợp này, em chỉ cần nhớ lại thôi,” nàng nói. “Ngài đã gửi cho em bao nhiêu tranh, và nhà em có hàng đống sách.” Hầu hết trong số đó được nàng mua về để theo dõi những hành trình mà chàng kể lại cho nàng qua những lá thư ngắn ngủi. “Em không thể tận mắt ngắm nhìn như ngài, nhưng em hiểu được ngài đã nhớ nơi ấy như thế nào.”
“Thế tại sao...” chàng bỏ lửng, lắc đầu. “Mà thôi. Chúng ta vừa tuyên bố thỏa thuận tạm ngừng tranh cãi.”
Nàng biết điều chàng muốn hỏi. Nếu nàng biết chàng nhớ Ai Cập chừng nào, tại sao nàng lại bẫy chàng vào chuyến đi khủng khiếp tới một trong những nơi chàng ghê sợ nhất thế giới này, để nhân nhượng với cha mẹ, những người chẳng hề bận lòng tới hạnh phúc của chàng và cũng không mảy may hiểu chàng dù chỉ một chút?
Rõ hơn bất kỳ ai, nàng hiểu niềm khao khát có một cuộc sống khác ấy, để theo đuổi một giấc mơ.
Nàng muốn chàng sống cuộc đời ấy.
Nàng cũng muốn sống cuộc đời như thế, nhưng nàng đã nhận ra từ rất lâu rằng điều đó gần như không thể xảy ra với phụ nữ.
Nói thế không có nghĩa nàng hoàn toàn từ bỏ hy vọng hoặc ngừng nỗ lực kiến thiết một con đường để điều đó có thể xảy ra. Gần như không thể không có nghĩa là không thể.
Nhưng chừng nào còn chưa tìm được câu trả lời - nàng sẽ phải sống bằng những trải nghiệm của người khác. Nếu cuối cùng Lisle ở lại hẳn nước Anh - mà thôi, nàng không dám nghĩ tới điều đó. Có lẽ chàng sẽ treo cổ, và nàng cũng tự vẫn theo vì quá tiếc thương - nếu nàng không chết trước vì buồn chán.
Chàng chắc cũng biết điều đó, nhưng chàng là đàn ông, và ngu ngốc.
Và vì là đàn ông và ngu ngốc, chàng chắc không hiểu được sự khôn ngoan trong kế hoạch của nàng.
Chàng có lẽ sẽ vừa bỏ chạy vừa la hét giận dữ với những gì nàng sẽ làm. Không, chàng sẽ bóp cổ nàng.
Nhưng đó là bởi vì chàng quá thiếu trí tưởng tượng.
George, Stamford, Lincolnshire,
cách London tám mươi chín dặm
Vừa qua nửa đêm
Tiếng hét khiến Lisle giật mình choàng tỉnh khỏi giấc ngủ mệt mỏi đầy tiếng ồn ào ầm ĩ.
“Những kẻ chè chén no say,” chàng lẩm bẩm. “Rõ là thế.”
Hộ tống ba quý bà quý cô rắc rối đi bốn trăm dặm không phải một nhiệm vụ dành cho kẻ nhát gan. Giống như ngựa, bọn họ phải được cho ăn, cho uống. Khác với ngựa, họ không thể đổi chác cho tươi tỉnh, khỏe mạnh hơn. Khác với ngựa, họ không chịu để bị gò cương. Điều đó có nghĩa ta phải tính toán thận trọng về thời gian dừng chân. Ta không được để các quý bà quý cô lần lữa, nếu không họ sẽ cứ chậm chạp mãi, và họ lưu lại ở đâu đó càng lâu thì khả năng xảy ra rắc rối càng cao.
Thật đáng mừng, chín rưỡi đêm hôm đó họ đã tới được George mà không gặp thêm bất trắc nào. Ở đây, hai chiếc xe ngựa khác nhập đoàn với họ. Với chừng ấy người hầu và hành lý, họ chiếm gần hết dãy phòng dọc theo một hành lang. Thật nhẹ nhõm biết bao cho chàng, ba quý bà quý cô nhanh chóng chọn phòng cho họ - sau khi Olivia nói với chàng là nàng cần tắm.
“Hai bà bảo em bốc mùi như nông trại ấy,” nàng nói. Đương nhiên là bộ đôi tinh quái đó còn nói ối điều khác nữa: những ám chỉ tà dâm về lũ ngựa và những người phụ nữ giạng chân cưỡi ngựa và, nói chung, mọi thứ chàng đã nghĩ và ước mình có thể tẩy ra khỏi não.
Phải nói thêm là, chàng không cần đến những hình ảnh gây bấn loạn tâm thần về Olivia khi tắm.
Chàng trở người, lôi một cái gối úp lên mặt. Tiếng hét vẫn rất to, nhưng chàng không nghe rõ từng lời.
Giấc ngủ gây nên cảm giác mụ mị.
Những tiếng nói, kèm theo tiếng bước chân giận dữ, tiến tới gần hơn.
“Tôi đã thấy anh làm thế!”
“Cô đang tưởng tượng mọi thứ!”
“Anh đã liếc mắt đưa tình với cô ta!”
“Cô thì sao? Tôi đã thấy cô tán tỉnh thằng đó.”
“Anh say rồi.”
“Tôi không say và tôi không mù.”
Lisle đầu hàng, ném cái gối xuống, và lắng nghe - những người khác trong hành lang hẳn đều đang làm như thế, dù muốn hay không.
“Anh là đồ cặn bã!” người phụ nữ thét lên. “Anh đã làm gì phía sau cái xe ngựa đó?”
“Đi đái, mụ đàn bà ngu ngốc!”
“Tôi không ngu và tôi cũng không mù. Tôi thấy các người, hai đửa các người, ở sân sau.”
“Thế thì cô đã thấy mọi thứ. Mẹ kiếp cô, Elspeth, đừng để tôi phải đuổi cô xuống dưới hành lang này.”
“Đúng đấy, Elspeth,” Lisle lầm bầm. “Hãy để anh ta đuổi cô xuống hành lang khác.”
“Mẹ kiếp tôi?” người phụ nữ gào lên. “Đồ vũ phu xấu xa, lỗ mãng, đê tiện!”
“Quay lại đây!”
Thêm một tiếng thét nữa. “Bỏ tay anh ra khỏi người tôi!”
“Cô là vợ tôi, tiên sư nhà cô!”
“Ồ, phải, tiên sư nhà tôi. Anh phản bội tôi - rồi anh nguyền rủa tôi? Tôi hận anh! Sao tôi lại không nghe lời bố cơ chứ?”
Khi ấy có ai đó gõ cửa. Cửa phòng Lisle?
“Thưa ngài?”
Lisle ngồi lên. Cái bóng lờ mờ của Nichols xuất hiện ở giường ngủ bên cạnh. “Tôi mở cửa nhé?” cậu đầy tớ khẽ hỏi.
“Ôi, không,” Lisle nói. “Tránh xa những cuộc cãi vã yêu đương. Không lường trước được chuyện gì...”
“Bỏ tôi ra nếu không tôi sẽ hét lên!”
Thêm tiếng gõ cửa, nhưng lần này là cánh cửa đối diện.
“Thưa ngài?” Nichols cất tiếng.
“Tôi ghét anh!” người đàn bà gào lên.
“Elspeth, tôi ngán chuyện này lắm rồi!”
“Tôi ngán anh lắm rồi!”
“Đừng để tôi phải lôi cô lại.”
“Anh giống như một kẻ vũ phu ấy nhỉ?” Giờ là một tiếng cười nhạo báng.
Tiếng gõ cửa dồn dập hơn, xa xa phía cuối hành lang.
“Con đàn bà ngu ngốc. Lúc này không ai mở cửa cho người lạ đâu...”
Tất cả đột ngột im lặng.
Rồi có một giọng nói khác. Dù ở quá xa nên không nghe rõ lời, Lisle vẫn dễ dàng nhận ra người nói: Olivia.
“Quỷ tha ma bắt nàng đi,” chàng lầm rầm. Chàng hất tung chăn rồi chạy ra cửa.