Từng thước đất được vun trồng, chăm bón và mọi cửa sổ, nóc nhà đều được sơn bằng những màu xanh tươi vui như để đối chọi lại với cuộc sống khó khăn phải vật lộn, giành giật với vùng đất đã cằn cỗi. Những cây trắc bá cao to, duyên dáng mọc xum xuê bên các đường núi dốc.
- Anh Larry, nhìn kìa - Catherine thốt lên. Anh xem chúng có đẹp không?
- Đối với người Hy Lạp, như vậy đâu có đẹp - Larry đáp.
Catherine nhìn chàng:
Anh nói thế nghĩa là thế nào?
- Họ coi chúng là một điềm xấu. Họ dùng trắc bá để trang trí một nghĩa địa.
Họ đi qua biết bao nhiêu cánh đồng, có những hình bù nhìn làm đơn sơ bằng giẻ vụn buộc vào bên hàng rào.
- Chắc vùng này phải có nhiều quạ khờ khạo lắm mới dễ bị lừa như vậy - Catherine cười ầm lên.
Họ đi qua một làng nhỏ có những cái tên kêu đến nỗi không thể tin được, như: Mesologian, Agelkastron, Etolikon và Amfilhoia.
Gần xế chiều họ tới làng Rion, xuôi thoai thoải ra phía sông Rio, rồi từ đây họ sẽ đi phà tới Ioannina. Năm phút sau họ tiến về phía đảo Epirus nơi có vùng Ioannina.
Catherine và Larry ngồi trên một chiếc ghế dài đặt ở sân thượng của chiếc phà, từ đây họ có thể phóng tầm mắt ra xa phía trước, thấy một hòn đảo lớn đã bắt đầu lờ mờ hiện ra giữa cảnh sương chiều. Catherine cảm thấy thật là hoang dã và vương chút hung gở. Hòn đảo có về hoang sơ như tạo ra để dành cho các vị thần Hy Lạp và những người trần tục lọt vào đây không được ai nghênh đón. Con tàu tiến vào gần bờ, Catherine có thể nhận rõ mép chân hòn đảo được viền bằng đá cứng dựng đứng như muốn đổ xuống biển phía dưới. Hai mươi lăm phút sau chiếc phà cặp vào bờ cảng nhỏ Epirus, và sau đó một lát Catherine và Larry lại đi xe lên núi, hướng về Ioannina.
Catherine đọc một đoạn trong cuốn sách hướng dẫn cho Larry nghe:
- Nằm vắt vẻo trong rặng Pindus, lọt giữa cái cát dốc xung quanh là rặng Alp chót vót, nhìn từ xa Ioanmna có hình dạng như một con đại bàng hai đầu và ở móng con đại bàng là hồ Pamvotis sâu thăm thẳm, những chiếc thuyền chở khách tham quan qua làn nước xanh thẫm tới hòn đảo nằm ở giữa hồ rồi sau đó đi qua hồ sang phía bờ xa tít bên kia.
- Nghe hay thật - Larry nói.
Đến xế chiều họ tới nơi và đi thẳng về khách sạn. Đó là toà nhà cổ một tầng được tu sửa đẹp nằm trên quả đồi vươn cao trên thị trấn, với hàng loạt những nhà nhỏ cho khách xung quanh. Một ông già mặc đồng phục khách sạn tiến ra chào đón họ. Ông ta chăm chú quan sát vẻ mặt vui sướng của hai người.
Ông bà đi hưởng tuần trăng mật? - Ông già hỏi.
Catherine nhìn Larry rồi nói:
- Làm sao ông biết?
- Trông vẻ ngoài thì rõ - Ông lão đưa họ vào sảnh khách sạn đăng ký thủ tục, rồi đưa họ tới ngôi nhà nhỏ của họ. Nó có đủ phòng sinh hoạt, phòng ngủ, phòng tắm, bếp và một thềm hiên rất rộng… Qua những ngọn cây trắc bá, họ nhìn thấy một cảnh tuyệt đẹp của ngôi làng và chiếc đồng hồ bên dưới, tối thẫm choán chùm tất cả. Thật chẳng khác bào cảnh thần tiên in trên hình của tấm bưu thiếp.
- Không đặc sắc lắm song tất cả là của em - Larry mỉm cười.
- Em sẽ tận hưởng hết - Catherine tuyên bố.
- Em vui chứ?
Nàng gật đầu:
- Em không nhớ em đã có lần nào sung sướng như thế này - Nàng tiến lại phía chàng, ghì chặt lấy chàng, thì thào - Đừng bao giờ bỏ em nhé.
Chàng giơ đôi cánh tay mạnh mẽ ra ôm lấy nàng, kéo sát lại gần và hứa hẹn.
- Không bao giờ.
Trong lúc Catherine đang tháo dỡ đồ đạc, Larry quay trở ra sảnh hỏi người nhân viên xếp phòng:
- Ở đây khách thường được làm những gì?
- Đủ mọi thứ ạ - Người nhân viên đáp với vẻ tự hào - Ngay tại khách sạn chúng tôi có suối nước tắm chữa bệnh. Vùng dưới làng có thể đi bơi, câu cá, đi thuyền hoặc đi dạo.
- Hồ này có sâu không? - Larry hỏi vô tình.
Người nhân viên nhún vai:
- Thưa ngài, cái đó thì không rõ. Hồ này là một miệng núi lửa, vì thế có thể coi như không có đáy.
Larry gật gù, trầm tư hỏi tiếp:
- Thế gần đây có hang động gì không?
- À! Có hang Perma. Chỉ cách đây vài dặm đường.
- Người ta đã khai thác chưa?
- Một số thôi. Một số khác vẫn còn đóng kín.
- Thế hả? - Larry nói.
Người nhân viên nói tiếp:
- Nếu ông thích trèo núi, tôi xin giới thiệu có đỉnh Tzoumerks. Chắc là bà nhà không sợ độ cao.
- Vâng - Larry mỉm cười - Nhà tôi trèo núi rất giỏi.
- Vậy thì bà ấy sẽ thích. May mà ông bà gặp dịp thời tiết thuận lợi. Chúng tôi cứ tưởng rằng sẽ có một đợt melteini, song không thấy tới. Có lẽ không tới.
- Melteini là cái gì vậy? - Larry hỏi.
À đó là đợt gió khốc liệt thổi từ phía bắc xuống. Có lẽ nó giống như loại cuồng phong. Ở Athens, thậm chí đến các tàu viễn dương cũng phải tuân lệnh cấm rời cảng.
- Tôi mừng là chúng tôi đã tránh được đợt gió đó.
Khi Larry trở về nhà nghỉ, chàng bảo với Catherine rằng họ sẽ đi ăn tối ở dưới làng. Họ đi theo một lối đi dốc, bằng đá cứng dẫn xuống chân đồi tới rìa ngôi làng.
Ioannina chỉ có một phố chính là Đại lộ Hoàng đế George, và hai ba phố nhỏ bên đại lộ chính. Xa xa phía ngoài các phố là những con đường nhỏ lấm bụi đất, toả về các ngôi nhà cư dân. Các ngôi nhà này đều cũ rích với gió mưa.
Ở giữa Đại lộ Hoàng đế George có những sợi dây thường phân chia dường làm hai luồng: ô tô đi phía bên trái, còn khách bộ hành tự do đi phía bên phải.
- Có lẽ ở đại lộ Pennsylvania người ta cũng nên áp dụng kiểu này mới phải - Catherine bảo.
Tại quảng trường thị trấn có một công viên nhỏ duyên dáng với một cái tháp cao to có gắn một chiếc đồng hồ lớn có đèn chiếu sáng. Một cái phố hai bên đường có những cây Platanus rất to chạy ra phía hồ. Catherine có cảm giác tất cả thành phố của thị trấn này đều chạy ra phía hồ.
Nàng lại có cảm giác sờ sợ về cái hồ này. Cảm giác thật lạ lùng luôn ám ảnh nàng. Dọc quanh bờ hồ cỏ lác cao ngút, um tùm vươn những ngón tay ra như muốn chờ đợi lôi kéo người ta xuống nước.
Catherine và Larry bước vào khu trung tâm buôn bán nhỏ bé đầy màu sắc sặc sỡ, hai bên đường chen chúc các cửa hàng. Có một tiệm kim hoàn, cạnh đó một tiệm rượu, một hiệu giày dép. Trẻ em đang xúm xít bên ngoài một hiệu cắt tóc, lặng lẽ xem người ta cạo mặt cho khách hàng. Catherine có cảm tưởng những đứa trẻ này là những đứa trẻ kháu khỉnh nhất mà nàng từng gặp từ trước đến nay.
Trước đây, Catherine có nói với Larry về chuyện nàng muốn có một đứa nhỏ, song chàng luôn gạt ý kiến đó với lý do rằng chàng chưa chuẩn bị một chỗ định cư thật tốt. Tuy nhiên có lẽ bây giờ chàng đã thay đổi ý kiến. Catherine liếc nhìn chàng đang bước bên cạnh nàng, chàng cao lớn hơn người khác và rất giống một vị thần Hy Lạp. Nàng quả quyết rằng sẽ đem chuyện đó ra trao đổi với chàng trước khi họ rời đây ra về. Dù sao đây cũng là tuần trăng mật kia mà.
Sáng hôm sau, Catherine và Larry đi xe hơi quanh vùng quê xinh đẹp, thám hiểm con đường hẹp chạy dọc quanh hồ, chạy dọc bờ đá vài ba dặm liền sau đó lại uốn éo ngược lên những ngọn đồi. Có nhiều ngôi nhà tạc vào trong vách núi đá dốc. Nhô cao lên trên bờ hồ giữa đám rừng cây đập vào mắt họ là một toà nhà đồ sộ quét sơn trắng trông giống như một toà lâu đài cổ.
- Cái gì vậy? Catherine hỏi.
- Anh không rõ - Larry đáp.
- Ta đến tìm hiểu xem sao.
- Đồng ý.
Larry cho xe chạy theo lối đi bằng đất dẫn tới toà nhà, qua một đồng cỏ có những con dê đang ăn cỏ và một người chăn dê nhìn theo họ khi họ chạy xe qua. Họ đỗ xe lại ở đằng trước lối vào toà nhà bị bỏ hoang.
- Chắc đây là toà lâu đài của một lão phù thủy trong chuyện cổ tích của anh em Grim đây mà Catherine bảo.
- Em có muốn vào thăm không? - Larry hỏi.
- Có chứ? Chúng mình phải kịp thời đến cứu một cô gái đang trong tình trạng tuyệt vọng chứ.
Larry bỗng liếc nhìn Catherine rất nhanh, đầy vẻ lạnh lùng.
Họ ra khỏi xe và đi về phía chiếc cửa đồ sộ làm bằng gỗ với một chiếc đập cửa bằng sắt, rất to gắn ở giữa cửa, Larry đập cửa mấy lần liền rồi họ đứng đợi. Không có fiếng động nào, trừ tiếng rì rầm của côn trùng mùa hè từ ngoài đồng cỏ vọng tới và tiếng gió thì thào qua cỏ lác.
- Anh đoán có lẽ không có người bên trong - Larry bảo.
- Có lẽ chúng đã thiêu hủy hết các thi thể - Catherine nói thì thào.
Đột nhiên cánh cửa khổng lồ từ từ mở ra kèn kẹt, một bà sơ vận đồ đen xuất hiện trước mặt họ.
Catherine bỗng cảnh giác, nói:
- Tôi… tôi xin lỗi. Chúng tôi không biết đây là nơi nào. Bên ngoài không có dấu hiệu gì cả.
Người nữ tu nhìn hai người hồi lâu rồi ra hiệu mời họ vào. Họ bước theo một lối đi và tới một khu sân rộng là trung tâm của ngôi nhà. Không khí ở đây yên tĩnh lạ lùng, và đột nhiên Catherine nhận ra điều thiếu hẳn ở đây: đó chính là tiếng nói con người.
Nàng quay sang bà xơ bảo:
- Chỗ này là gì ạ?
Bà xơ im lặng lắc đầu, ra hiệu cho họ đứng đợi ở đó. Họ nhìn theo bà quay gót đi về phía toà nhà bằng đá cổ ở cuối khu đất.
- Bà ta đi tìm Bà nhất Bela Lugosi đấy - Catherine thì thào.
Phía bên kia toà nhà có một doi đất nhô lên trên mặt biển và họ thấy một nghĩa trang nằm gọn trong những hàng cây trắc bá cao hơn.
- Nơi này khiến anh thấy rờn rợn - Larry bảo.
- Giống như chúng ta vừa lạc sang một thế giới khác - Catherine đáp.
Tự nhiên họ chỉ nói thì thầm với nhau, như không muốn phá vỡ cái không khí im lặng nặng nề này. Qua cửa sổ của toà nhà chính họ không thấy những bộ mặt tò mò của những người phụ nữ, tất cả đều vận đồ đen đang chằm chằm nhìn họ.
- Đây là một dòng tu kín - Larry nhận định.
Một người đàn bà cao gầy từ trong ngôi nhà hiện ra, đi nhanh về phía họ. Bà ta mặc quần áo nữ tu bình thường, nét mặt dịu dàng, khả ái. Bà ta nói:
- Tôi là xơ Theresa. Các vị cần gì ạ?
- Chúng tôi đi ngang qua đây - Catherine bảo - Chúng tôi tò mò muốn biết nơi này là gì - Nàng nhìn về phía những bộ mặt thấp thoáng qua cửa sổ. Chúng tôi không có ý làm phiền các xơ.
Xơ Theresa nói:
- Chúng tôi không được cái vinh hạnh là đón chào quý khách. Chúng tôi hầu như không có quan hệ với thế giới bên ngoài. Chúng tôi là những nữ tu dòng lệnh của Carmelite, đã nguyện sẽ giữ im lặng.
- Trong bao nhiêu lâu? - Larry hỏi.
- Giapanta - Suốt đời. Tôi là người duy nhất ở đây được phép nói chuyện và cũng chỉ nói mỗi khi cần thiết thôi.
Catherine liếc nhìn quanh cái sân rộng, lặng như tờ và cố trấn tĩnh:
- Có ai được rời nơi đây không?
Xơ Theresa mỉm cười:
- Không. Không có lý do gì để rời đây cả. Cuộc đời chúng tôi ở bên trong bức tường này.
- Xin và tha lỗi cho việc chúng tôi đã quấy rầy các xơ - Catherine nói.
Bà xơ gật đầu.
- Không sao cả. Cầu Chúa phù hộ các người.
Khi Catherine và Larry vừa bước ra khỏi cửa nhà, cánh cửa to lớn lại từ từ khép lại phía sau họ. Catherine quay nhìn lại. Nó đúng như một cái nhà tù. Thậm chí còn có phần tồi tệ hơn. Có lẽ đó là vì nó là một hình phạt tự giác một sự uổng phí. Catherine nghĩ đến những thiếu nữ mà nàng đã thấy qua cửa sổ. Họ bị giam cầm giữa bốn bức tường, bị ngăn cách với thế giới suất cả quãng đời của họ, họ phải sống trong một sự im lặng chìm sâu, vĩnh viễn của nhà mồ.