Họ rong ruổi đây đó, thu thập dây vân sam và tùng leo để tết thành vòng hoa… luôn cả vài nhánh dương xỉ vẫn xanh um nơi một lũng sâu nào đó trong rừng suốt cả mùa đông… cho đến khi ngày cười tạm biệt, ẩn mình sau những ngọn đồi bị tuyết bao phủ, họ mới chịu đắc thắng quay trở lại Chái Nhà Xanh… để gặp một chàng trai trẻ cao lớn với cặp mắt lục nhạt và hàng ria mép mờ mờ khiến anh nhìn có vẻ già hơn và chững chạc hơn rất nhiều, vì thế, Anne không khỏi có một phút sững sờ, tự hỏi liệu đây có thực là Gilbert hay một người lạ.
Katherine, cười tủm tỉm cố tỏ vẻ mỉa mai nhưng không mấy thành công, để mặc bọn họ ngồi trong phòng khách rồi bỏ đi chơi với hai đứa nhỏ sinh đôi trong nhà bếp suốt buổi chiều. Cô hết sức ngạc nhiên khi thấy mình rất tận hưởng khoảng thời gian đó. Và thật thú vị khi cùng Davy đi xuống hầm và phát hiện ra rằng những quả táo ngọt thật sự vẫn còn tồn tại trên đời này.
Katherine chưa đặt chân vào hầm chứa của một nông trại bao giờ, và không thể tưởng tượng nổi nó có thể trở nên hết sức quyến rũ, ma quái và liêu trai thế nào dưới ánh nến. Cuộc sống dường như đã trở nên ấm áp hơn. Lần đầu tiên Katherine ý thức được rằng cuộc sống có thể trở nên tươi đẹp, ngay cả đối với cô.
Davy ồn ã đến mức đủ sức đánh thức Bảy người say ngủ[1], vào lúc sáng sớm tinh mơ ngày Giáng sinh, lắc chiếc chuông đeo cổ bò cũ trong lúc chạy lên chạy xuống cầu thang. Bà Marilla hết hồn khi cậu dám hành động như thế lúc nhà có khách, nhưng Katherine đã tươi cười bước xuống lầu. Chẳng hiểu vì sao mà giữa cô và Davy đã nảy sinh một tình bạn thân thiết như đã quen nhau tự bao giờ. Cô nói thẳng với Anne rằng mình không mấy thích cô bé Dora hoàn hảo nhưng Davy dường như cũng có những thói hư tật xấu giống hệt cô.
[1] Truyền thuyết về bảy thanh niên quý tộc ở Ephesus ngủ say trong hang động khi đang trốn tránh sự truy tố của hoàng đế La Mã Decius vì tội theo Thiên Chúa giáo, và mãi 187 năm mới tỉnh lại.
Họ mở cửa phòng khách phân phát những món quà trước khi dùng bữa sáng bởi vì hai đứa bé sinh đôi, kể cả Dora, không thể ăn nổi bất cứ thứ gì khi chưa nhận được quà. Katherine, vốn không mong đợi gì, ngoại trừ, có lẽ là một món quà cho có lệ từ Anne, thấy mình nhận được quà từ tất cả mọi người. Một chiếc khăn phủ giường bằng len móc vui mắt từ bà Lynde… một túi thơm từ rễ cây diên vĩ do Dora tặng… một con dao rọc giấy từ Davy… một giỏ đựng đầy những lọ mứt và nước quả bé xíu từ bà Marilla… luôn cả một cái chặn giấy nhỏ bằng đồng hình chú mèo cười nhăn răng từ Gilbert.
Và, buộc dưới gốc cây Giáng sinh, cuộn mình trong mảnh chăn len ấm áp, là một chú chó con nhỏ xíu mắt nâu cực kỳ dễ thương, với lỗ tai vểnh lên mịn mượt và chiếc đôi ngoáy tít lấy lòng. Cổ chú buộc một tấm thiệp nhỏ với dòng chữ, “Từ Anne, kẻ đã dám, mặc cho mọi điều, chúc chị một Giáng sinh vui vẻ.”
Katherine dang tay ôm lấy thân hình nhỏ bé không ngừng cựa quậy của chú chó nhỏ, cất tiếng đầy cảm xúc:
“Anne… nó thật dễ thương quá! Nhưng bà Dennis sẽ không cho phép tôi nuôi nó đâu. Tôi có hỏi xin bà ta cho phép tôi nuôi chó, nhưng bà ta từ chối.”
“Em đã lo liệu đâu vào đấy với bà Dennis rồi. Chị sẽ thấy bà ta không phản đối đâu. Và, dù sao chăng nữa, Katherine, chị sẽ không ở lại đó lâu đâu. Chị phải tìm một nhà trọ đàng hoàng để ở, bây giờ chị đã trả hết số tiền mà chị cho rằng chị có nghĩa vụ phải trả rồi. Hãy xem hộp giấy viết thư đáng yêu Diana gửi cho em này. Nhìn những trang giấy trắng và tự hỏi điều gì sẽ được vết lên đó, chẳng phải thật mê ly lắm sao?”
Bà Lynde rất biết ơn Chúa vì đã có một Giáng sinh tuyết trắng… Giáng sinh trắng thì nghĩa địa sẽ không có nhiều mộ mới[2]… nhưng đối với Katherine thì đây đúng là một Giáng sinh ngập tràn sắc tím, đỏ tía và vàng rực. Và tuần lễ kế tiếp cũng tươi đẹp không kém. Katherine thường cay đắng tự hỏi cảm giác hạnh phúc là thế nào và bây giờ cô đã có câu trả lời. Cuộc đời cô như nở hoa một cách hết sức bất ngờ. Anne phát hiện ra mình rất vui khi làm bạn với Katherine.
[2] Dựa theo điều mê tín rằng Giáng sinh không tuyết thì tỉ lệ người chết tăng.
“Thế mà mình từng lo chị ấy sẽ làm hỏng kỳ nghỉ Giáng sinh cơ đấy!” cô nghĩ bụng có phần ngỡ ngàng.
“Thế mà,” Katherine tự nhủ, “mình suýt nữa đã từ chối đến đây chơi khi Anne mời!”
Họ cùng đi dạo nhiều chuyến thật lâu… qua đường Tình Nhân và rừng Ma Ám, nơi cả sự tĩnh lặng cũng tràn đầy thân thiết… trên những ngọn đồi nơi tuyết nhẹ quay tròn trong vũ điệu mùa đông của đám yêu tinh… qua những vườn ăn trái lâu năm đầy bóng tím… qua ánh hào quang của cánh rừng hoàng hôn. Thiếu tiếng chim líu lo ríu rít, vắng tiếng suối róc rách tỉ tê, lũ sóc liến thoắng nhiều chuyện bặt tăm. Nhưng gió hòa tấu lên những khúc nhạc hiếm hoi, bù đắp số lượng bằng chất lượng.
“Ta luôn luôn có thể tìm thấy thứ gì đó tuyệt vời để chiêm ngưỡng hay để lắng nghe,” Anne thốt lên.
Họ trò chuyện về “cải bắp và các vị vua”[3], đánh xe ngựa đi dạo đến tận mặt trăng rồi mới trở về với cái bụng đói đến độ kho thực phẩm của Chái Nhà Xanh cũng phải sợ. Một ngày nọ bão tuyết ập tới khiến họ không thể ra ngoài. Gió đông dằn vặt nơi đầu hồi và vịnh biển xám xịt gào thét. Nhưng ngay cả cơn bão tại Chái Nhà Xanh cũng có nét quyến rũ riêng. Thật ấm cúng khi ngồi bên bếp lò, mơ màng ngắm ngọn lửa bập bùng rọi bóng lên trần nhà, tha hồ nhấm nháp táo và kẹo ngọt. Bữa tối náo nhiệt biết bao khi cơn bão mãi than vãn ở bên ngoài!
[3] Trích từ bài thơ “Con hải mã và người thợ mộc” trong tác phẩm Alice ở xứ sở trong gương của Lewis Carroll.
Một đêm nọ Gilbert đưa họ đi thăm Diana và bé gái mới sinh.
“Cả đời tôi chưa lần nào được ẵm một đứa trẻ sơ sinh cả,” Katherine tâm sự khi họ đánh xe về nhà. “Một mặt tôi không có hứng, mặt khác tôi cứ sợ nó sẽ vỡ tan thành từng mảnh trong vòng tay tôi. Cô không thể tưởng tượng nổi cảm giác của tôi đâu… to đùng và vụng về với đứa bé nhỏ xíu tinh tế trong vòng tay. Tôi biết chị Wright sợ tôi sẽ làm rơi nó bất kỳ lúc nào. Tôi có thể thấy chị ta cố gắng anh dũng để che giấu nỗi sợ hãi của mình. Nhưng nó đã đem lại cho tôi một điều gì đó… tôi muốn nói là đứa bé sơ sinh ấy… tôi vẫn chưa rõ đó là gì.”
“Các em bé vốn là những sinh vật hấp dẫn biết bao,” Anne mơ màng nói. “Em từng nghe ai đó ở Redmond gọi chúng là ‘những gói tiềm năng tuyệt vời’. Cứ nghĩ thử đi, Katherine… Homer nhất định cũng đã từng là một đứa bé… với lúm đồng tiền và đôi mắt to sáng rực… đương nhiên lúc đó ông ấy vẫn chưa mù.”
“Thật đáng tiếc là mẹ ông ấy không biết rằng ông ấy sẽ trở thành Homer lừng danh,” Katherine nói.
“Nhưng em thấy vui mừng vị mẹ của Judas không biết rằng hắn sẽ là Judas phản Chúa,” Anne khẽ đáp. “Em mong rằng bà ấy không bao giờ biết được điều này.”
Một đêm nọ, một buổi hòa nhạc được tổ chức ở tòa thị chính, nối tiếp là bữa tiệc tại nhà Abner Sloane, Anne đã thuyết phục Katherine tham dự cả hai.
“Em muốn chị tham gia chương trình với một tiết mục ngâm thơ, Katherine ạ. Em nghe nói chị ngâm thơ hay lắm.”
“Tôi quả từng có ngâm thơ thật… tôi cho rằng mình khá thích làm việc đó. Nhưng mùa hè trước, tôi có ngâm thơ tại một buổi hòa nhạc ở bờ biển do một đám khách nghỉ dưỡng hè tổ chức… và sau đó tôi nghe họ cười nhạo tôi.”
“Sao chị biết là họ cười nhạo chị?”
“Hẳn là thế rồi. Chứ có thứ gì khác để cười đâu nào.”
Anne giấu một nụ cười và cương quyết nài nỉ cô tham gia.
“Hãy ngâm bài Genevra khi được mọi người yêu cầu tiếp tục nhé. Em nghe nói chị ngâm bài đó tuyệt lắm. Bà Stephen Pringle bảo với em rằng bà ấy chẳng thể chợp mắt tí nào trong đêm sau khi nghe chị ngâm bài thơ ấy.”
“Không, tôi chẳng bao giờ ưa nổi Genevra. Nó nằm trong chương trình học, nên tôi thỉnh thoảng có ngâm nga nó để cả lớp biết cách đọc nó thế nào. Tôi thực sự không có kiên nhẫn với cô nàng Genevra. Vì sao cô ta không gào tướng lên khi phát hiện mình bị nhốt? Khi mọi người đang lùng sục tìm kiếm cô nàng khắp nơi, hẳn là phải có ai đó nghe thấy tiếng của cô nàng chứ.”
Katherine cuối cùng cũng chịu hứa sẽ ngâm thơ, nhưng không mấy chắc chắn về buổi tiệc. “Tôi sẽ đi, tất nhiên rồi. Nhưng sẽ không có ai mời tôi khiêu vũ và tôi sẽ cảm thấy thật mỉa mai, tủi thân và xấu hổ. Tôi luôn khổ sở trong các buổi tiệc… số ít hiếm hoi mà tôi từng tham gia. Dường như không ai nghĩ rằng tôi có thể khiêu vũ… và cô biết là tôi nhảy khá giỏi mà, Anne. Tôi học nhảy ở nhà chú Henry, bởi cô gái giúp việc đáng thương ở nhà chú cũng muốn học, cô ấy và tôi thường khiêu vũ cùng nhau trong bếp giữa tiếng nhạc vẳng ra từ phòng khách. Tôi nghĩ rằng tôi thích khiêu vũ… với bạn nhảy hợp gu mình.”
“Chị sẽ không cảm thấy khổ sở trong buổi tiệc này đâu, Katherine ạ. Chị sẽ không phải đứng ngoài cuộc đâu. Chị biết đấy, có sự khác biệt rất lớn giữa đứng trong cuộc nhìn ra và đứng ngoài cuộc nhìn vào. Chị có mái tóc đẹp tuyệt vời, Katherine ạ. Chị sẽ không phiền nếu em bới nó theo kiểu mới chứ?”
Katherine nhún vai.
“Ôi, cứ tự nhiên đi. Tôi cho rằng tóc mình nhìn phát khiếp thật… nhưng tôi không có thời gian để mà làm đỏm. Tôi còn không có váy dạ hội nữa là. Chiếc váy taffeta màu xanh lá của tôi có ổn không?”
“Sẽ phải ổn thôi… mặc dù hơn tất cả, màu xanh lá cây là màu mà chị không bao giờ nên mặc, Katherine của em ơi. Nhưng chị sẽ đính thêm một chiếc cổ áo tơ màu đỏ em may cho chị. Ừ, chị phải mặc nó. Chị nên may một chiếc váy màu đỏ, Katherine ạ.”
“Tôi luôn luôn ghét màu đỏ. Khi đến sống với chú Henry, dì Gertrude luôn luôn bắt tôi mặc tạp dề màu đỏ chói như gà tây. Mà mấy đứa nhóc trong trường học thường gọi tôi là ‘Lửa’ khi tôi vào lớp khoác loại tạp dề ấy. Dù sao thì tôi cũng chẳng rảnh rang gì mà để ý đến váy với chả áo.”
“Xin Chúa ban cho con lòng kiên nhẫn! Váy áo cực kỳ quan trọng đấy,” Anne nghiêm túc khuyên nhủ trong lúc tết và cuộn tóc. Rồi cô ngắm nghía thành quả của mình và thấy rằng kiểu tóc rất hợp. Anne choàng tay qua vai Katherine, xoay cô về phía gương.
“Chị có thực sự cho rằng chúng ta là hai cô gái trông khá là xinh không?” cô phá lên cười. “Cứ nghĩ đến việc mọi người sẽ thấy vui khi ngắm chúng ta đã thấy thật là tuyệt phải không? Rất nhiều người trông mờ nhạt sẽ có vẻ ngoài khá bắt mắt nếu họ chịu khó ăn diện đôi chút. Chủ nhật ba tuần trước ở nhà thờ… chị có nhớ cái ngày ông cụ Milvain đáng thương giảng đạo trong lúc đầu nhức ong ong vì trận cảm khủng khiếp khiến chẳng ai hiểu nổi lời giảng của ông ấy không?... ôi, em đã giải sầu bằng cách giúp mọi người chung quanh xinh đẹp hơn. Em tặng bà Brent một cái mũi mới, uốn quăn mái tóc của Mary Addison và cho Jane Marden gội đầu bằng nước chanh cho tóc bớt rối… em cho Emma Dill mặc váy xanh thay cho chiếc váy nâu… em đổi bộ váy của Charlotte Blair từ kẻ ô sang vải sọc… em xóa bỏ một vài nốt ruồi… và cạo béng đi bộ râu quai nón hung dài của Thomas Anderson. Chị không thể nhận ra được họ khi em xong việc đâu. Và, có lẽ ngoại trừ cái mũi của bà Brent, họ có thể dễ dàng tự làm điều mà em nghĩ. Ôi chao, Katherine, đôi mắt của chị hệt như màu trà… trà hổ phách. Nào, hãy sống xứng đáng với cái tên của chị vào tối nay đi… Brook, dòng suối lấp lánh… trong sáng… reo vui.”
“Tôi chẳng có gì tương tự thế cả.”
“Đó chính là chị trong tuần qua. Cho nên chị có thể làm được mà.”
“Đó chỉ là nhờ phép màu của Chái Nhà Xanh thôi. Khi tôi trở lại Summerside, chuông đồng hồ mười hai giờ sẽ điểm cho cô bé Lọ Lem.”
“Chị sẽ đem phép màu cùng quay về. Nhìn vào mình đi… hãy một lần nhìn bộ dạng mà chị đáng ra phải luôn giữ mọi lúc.”
Katherine chăm chú nhìn bóng mình trong gương cứ như thể nghi ngờ danh tính thực sự của nó.
“Tôi có vẻ trẻ ra hàng mấy tuổi,” cô thừa nhận. “Cô nói đúng… váy áo quả thật làm biến đổi ta. Ồ, tôi biết mình trông già trước tuổi. Tôi không quan tâm. Tại sao phải quan tâm chứ? Chẳng ai thèm để ý cả. Và tôi không giống như cô, Anne ạ. Dường như cô thấu hiểu cách sống ngay từ khi mới sinh ra. Còn tôi thì chẳng biết gì cả… ngay cả những điều đơn giản nhất. Tôi tự hỏi học bây giờ liệu có quá muộn không. Tôi đã sống kiểu mỉa đời quá lâu, tôi không biết mình có thể trở thành một con người khác được không. Với tôi, mỉa mai dường như là cách duy nhất để tôi có thể gây ấn tượng với người khác. Và tôi cũng nhận thấy dường như mình luôn luôn khiếp hãi mỗi khi ở bên cạnh ai đó… sợ rằng mình sẽ nói điều gì đó ngu ngốc… sợ người ta cười nhạo.”
“Katherine Brooke, nhìn vào bóng của chị trong gương đi; giữ mãi hình ảnh ấy trong óc chị… mái tóc mỹ lệ viền quanh khuôn mặt của chị thay vì cố gắng để kéo nó lại phía sau… đôi mắt lấp lánh như ngôi sao sẫm màu… chút phớt hồng phấn khích trên má… rồi chị sẽ không cảm thấy sợ nữa. Giờ thì thôi đi. Chúng ta sẽ đến trễ, nhưng cũng may là những người tham gia chương trình diễn sẽ có ghế ‘dành riêng’ theo như Dora nói với em.”
Gilbert đánh xe đưa họ đến tòa thị chính. Hệt như thuở xưa vậy… chỉ là Katherine ở bên cô thay vì Diana. Anne thở dài. Diana giờ đã có quá nhiều mối bận tâm khác. Cô bạn chẳng còn cơ hội đi thâu đêm đến các cuộc hòa nhạc và hội hè nữa.
Nhưng buổi tối đó thật tuyệt vời! Con đường mịn mượt như xa tanh bạc dưới bầu trời Tây lục nhạt sau đợt tuyết lây rây! Sao Orion trang nghiêm cất bước băng qua bầu trời, đồi núi, đồng ruộng và rừng cây nằm yên quanh họ trong sự tĩnh lặng tựa như chuỗi ngọc trai.
Tiết mục ngâm thơ của Katherine thu hút khán giả ngay từ dòng đầu tiên, và trong buổi tiệc, cô không có đủ thời gian để nhảy với tất cả những người mời cô khiêu vũ. Cô chợt nhận ra tiếng cười của mình không còn vẻ chua chát nữa. Rồi họ quay về Chái Nhà Xanh, sưởi ấm ngón chân nơi bếp lửa phòng khách dưới ánh sáng thân thiết của hai ngọn nến trên bệ lò sưởi; và bà Lynde rón rén bước vào phòng, dẫu đêm đã rất khuya, để hỏi xem họ có cần thêm chăn không và đảm bảo với Katherine rằng chú chó con của cô đang thoải mái ấm áp trong chiếc giỏ đằng sau bếp lò.
“Mình đã có một cách nhìn mới về cuộc sống,” Katherine nghĩ bụng khi cô chìm vào giấc ngủ. “Mình không ngờ rằng còn có nhiều người tốt như thế này.”
“Lần sau hãy đến chơi nữa nhé,” bà Marilla mời khi cô rời đi.
Marilla chỉ nói thế khi bà thật lòng muốn mời ai đó.
“Đương nhiên là chị ấy sẽ đến thăm nữa rồi,” Anne nói. “Vào dịp cuối tuần… và nhiều tuần liền trong mùa hè. Chúng ta sẽ đốt lửa và cuốc vườn… nhặt táo rụng và đi chăn bò… chèo thuyền trên hồ và lạc lối trong rừng. Em muốn cho chị xem khu vườn của Hester Gray bé nhỏ, Katherine ạ, cả Nhà Vọng và Lũng Tím khi nó ngập tràn hoa violet nữa.”