Với chiều cao 1m98 và nặng 95 kg, Mat nhìn chiếc ghế gỗ nhỏ như dành cho người lùn nằm đối diện chiếc bàn làm việc của văn phòng luật sư Harrisburg, Pennsylvania. Dù vậy, Mat đã quen với những chiếc ghế không ngồi vừa và bồn rửa tay luôn khiến anh bị vấp đầu gối. Anh vẫn luôn tự động khom đầu khi bước xuống cầu thang, còn hàng ghế phổ thông trên máy bay như là địa ngục với anh. Và khi ngồi ở ghế sau của gần như mọi loại ô tô trên đời này – quả là khốn.
“Tên anh được viết trong giấy khai sinh như là cha của hai đứa trẻ, anh Jorik. Điều đó khiến anh phải có trách nhiệm với chúng.”
Ông luật sư là một gã không có khiếu hài hước và keo kiệt bủn xỉn, loại người mà Mat Jorik ghét nhất, vì thế anh giãn lưng và duỗi một bên chân ra – hạnh phúc hơn cả khi dùng kích thước của anh để đe dọa một con sâu nhỏ. “Để tôi nói cho ông rõ. Chúng không phải con tôi.”
Ông luật sư nao núng. “Là anh nói như thế. Nhưng mẹ bọn trẻ đã chỉ định anh là người giám hộ.”
Mat liếc mắt nhìn. “Tôi rất vinh dự nhưng lại đành lòng phải từ chối thôi.”
Mặc dù Mat sống ở Chicago và L.A., nhưng cộng đồng dân cư là những người lao động ở Pittsburgh nơi anh lớn lên vẫn ám dính lấy anh như khói xả từ các nhà máy vậy. Anh 34 tuổi, trông như một gã côn đồ với nắm đấm lớn, giọng vang và khả năng sử dụng ngôn từ trời cho. Một người bạn gái cũ từng nói anh là người đàn ông Mỹ thực thụ cuối cùng còn sống, nhưng kể từ lúc cô ấy ném một cuốn tạp chí cô dâu cho anh, anh đã không còn xem nổi đó là một lời khen.
Ông luật sư tập trung trở lại. “Anh nói anh không phải cha chúng, nhưng anh đã kết hôn với mẹ chúng.”
“Khi tôi 21 tuổi.” Một hành động là hệ quả của quyết định quá vội vàng và thiếu suy nghĩ mà Mat sẽ không bao giờ lặp lại.
Cuộc nói chuyện của họ bị gián đoạn khi một cô thư ký tiến vào với tập tài liệu trong tay. Cô ta có vẻ là kiểu người chuyên nghiệp trong công việc, nhưng mắt cô ta bắt đầu lướt dọc người anh ngay từ khoảnh khắc đầu tiên bước vào. Anh biết phụ nữ thích dáng người như anh, kể cả khi có tới bảy đứa em gái, anh vẫn chẳng thể hiểu nổi lý do tại sao. Trong mắt anh, anh trông giống như một gã đàn ông bình thường.
Cô thư ký, tuy nhiên, lại nhìn anh theo một cách có chút khác biệt. Khi anh bước vào văn phòng và thông báo anh tên Mathias Jorik, cô đã để ý và nhận ra anh ta vừa săn chắc lại vừa cơ bắp, với vai rộng, bàn tay lớn và hông hẹp. Anh có mái tóc dày nâu được cắt ngắn nhưng cũng không ngăn được những lọn tóc vẫn xoăn lên, và sự mạnh mẽ của anh, hàm sắc bén với chữ giỏi-thì-thử-đấm-tôi-xem như viết trên đó. Vì cô thường thấy những người đàn ông với vẻ ngoài khác thường như thế phiền phức hơn là quyến rũ, nhưng không phải tới khi vào hẳn trong phòng để đưa tài liệu cho sếp rồi trở lại bàn làm việc của mình cô mới nhận ra anh chàng ngồi trong đó hấp dẫn tới nhường nào. Đôi mắt xám đó ánh lên sự sắc bén và thông minh.
Ông luật sư xem xét tập tài liệu rồi ngẩng lên nhìn Mat. “Anh thừa nhận vợ cũ của mình mang thai đứa lớn khi hai người kết hôn.”
“Để tôi nói rõ với ông một lần nữa. Sandy nói với tôi đứa bé là con tôi, và tôi tin cô ta cho đến vài tuần sau lễ cưới, khi một người bạn của cô ta nói với tôi sự thật. Tôi hỏi thẳng Sandy và cô ta thừa nhận mình nói dối. Tôi tới gặp luật sư và chúng tôi li hôn.” Anh vẫn còn nhớ sự thanh thản anh có được khi dứt bỏ mọi thứ anh không mong muốn.
Một lần nữa, ông sâu nhỏ lại cúi xuống nhìn tài liệu. “Anh đã gửi tiền cho cô ấy trong nhiều năm.”
Dù có cố che giấu như thế nào đi chăng nữa, sớm hay muộn, mọi người cũng sẽ phát hiện ra Mat là một người dễ mềm lòng, nhưng anh không tin một đứa trẻ đáng phải nhận trừng phạt vì những lỗi lầm của mẹ nó. “Thương người thôi. Sandy là một người tốt; chỉ là cô ta không thèm quan tâm người mình lên giường cùng là ai.”
“Và anh dám chắc anh không gặp cô ấy sau khi hai người li hôn?”
“Chẳng có gì phải bàn cãi ở điểm đó. Tôi không gặp cô ta gần 15 năm rồi, điều đó khiến việc tôi có thể là cha của đứa thứ hai vừa mới được sinh ra năm ngoái thật vớ vẩn.” Hiển nhiên, đó lại là một bé gái nữa. Phần đời còn lại của anh sẽ bị ám bởi hai con nhóc đó.
“Vậy tại sao tên anh lại có trên giấy khai sinh của cả hai đứa trẻ?”
“Cái đó ông phải hỏi Sandy chứ.” Ngoại trừ việc chẳng ai có thể hỏi Sandy điều gì được nữa. Cô ta đã chết sáu tuần trước khi lái xe trong trạng thái say xỉn với bạn trai. Vì liên tục ở ngoài đường nên Mat không hề biết gì về chuyện đó cho tới ba ngày trước, khi cuối cùng anh cũng rảnh để ngồi kiểm tra tin nhắn thoại ở nhà.
Có cả những lời nhắn khác nữa. Một của một cô bạn gái cũ, một từ một người quen hỏi vay tiền. Một người bạn ở Chicago hỏi để biết xem liệu Mat có chuyển tới Thành phố Gió này không để anh ta có thể đăng ký cho anh vào chơi giải khúc côn cầu trên băng. Bốn trong số bảy người em gái muốn nói chuyện với anh, cũng chẳng có gì mới mẻ, vì Mat đã chịu trách nhiệm với chúng kể từ khi anh còn là một đứa trẻ lớn lên ở khu người Slovak.
Mat là người đàn ông duy nhất trong gia đình kể từ khi cha anh bỏ đi. Bà anh trông nhà trong khi mẹ anh làm việc 50 giờ mỗi tuần ở vị trí thủ thư. Sự sắp xếp đó khiến cậu bé Mat 9 tuổi phải chăm sóc cho 7 đứa em gái của mình, hai trong số chúng là sinh đôi. Anh đã dành cả tuổi thơ để ghét cha mình vì đã làm cái việc mà Mat không thể – ông rời đi bỏ lại một gia đình có quá nhiều phụ nữ.
Một vài năm trước khi anh quyết định rời khỏi ngôi nhà quái quỷ toàn phụ nữ đó thực sự rất tệ. Cha anh qua đời trước khi anh đưa ra quyết định đó một thời gian, đặt dấu chấm hết cho hy vọng viển vông của Mat về việc ông sẽ trở lại và chăm sóc gia đình mình.
Những cô gái dần trưởng thành và tính khí trở nên thất thường. Luôn có một đứa chuẩn bị tới kỳ, một đứa đang trong kỳ, một đứa vật lộn vì đau bụng, hoặc một đứa sẽ lén vào phòng anh lúc đêm để bộc bạch cơn khủng hoảng khi con bé thấy kỳ của mình tới muộn, và anh sẽ là người ở đó mọi lúc để giải quyết vấn đề. Anh yêu những cô em gái của mình, nhưng chịu trách nhiệm cho tất cả chúng khiến anh nghẹt thở. Anh đã tự hứa với mình, khi anh cuối cùng cũng rời khỏi gia đình để tận hưởng cuộc sống riêng, anh sẽ không bao giờ kết hôn nữa, ngoại trừ khoảng thời gian ngắn ngủi và ngu xuẩn với Sandy, thì anh đã thực hiện chính xác lời hứa của mình.
Tin nhắn thoại cuối cùng trong hộp thư của anh tới từ Sid Giles, giám đốc của Byline. Một lời nài nỉ để Mat quay trở lại chương trình tin tức lá cải ở L.A. mà anh đã bỏ việc tháng trước, nhưng Mat Jorik đã bán uy tín nhà báo của mình một lần, và anh sẽ không bao giờ lặp lại điều đó.
“… đầu tiên hãy mang cho tôi một bản photo Phán quyết Li hôn của Tòa án. Tôi cần bằng chứng rằng hai người đã li hôn.”
Anh tập trung trở lại với ông luật sư. “Tôi có bằng chứng, nhưng cần một khoảng thời gian để tôi có chúng trong tay.”
Anh đã rời L.A. quá nhanh tới mức quên mang theo các loại giấy tờ khác ngoài chứng minh thư. “Sẽ nhanh hơn nếu tôi xét nghiệm máu. Tôi sẽ làm luôn chiều nay.”
“Xét nghiệm AND mất nhiều tuần. Bên cạnh đó, cần phải xin phép người giám hộ trước khi bọn trẻ thực hiện xét nghiệm.”
Quên mất chuyện đó. Mat sẽ không để mấy tờ giấy khai sinh của bọn trẻ quay lại cắn anh đâu. Kể cả khi không khó để chứng minh anh đã li hôn nhưng anh muốn xét nghiệm AND để làm bằng chứng rõ ràng nhất. “Tôi sẽ cho phép điều đó.”
“Anh không thể dùng quyền giám hộ để chứng minh mình không phải người giám hộ được, anh Jorik. Hai đứa trẻ do anh giám hộ hoặc không.”
Mat quyết định giờ là lúc để tấn công. “Có lẽ ông nên giải thích tại sao mọi sự lại bung bét như thế này trước đã. Sandy đã chết sáu tuần trước rồi, sao ông không thông báo ngay cho tôi lúc đó?”
“Bởi vì chính tôi cũng chỉ mới phát hiện ra chuyện đó vài ngày trước. Tôi mang một số bằng cấp tới tiệm ảnh nơi cô ấy làm việc và nghe được chuyện gì đã xảy ra. Mặc dù là luật sư của cô ấy nhưng tôi không được thông báo.”
Mat tự hỏi có phải là một điều kỳ diệu gì không khi Sandy có một luật sư riêng, không nhắc đến chuyện cô ấy có cái gì để cho vào di chúc.
“Tôi tới nhà ngay hôm đó và nói chuyện với cô chị. Con bé nói có một hàng xóm chăm sóc chúng, nhưng quanh đó chẳng có hàng xóm nào để tâm cả. Tôi đã quay lại hai lần và chẳng có một người lớn nào xuất hiện hết.” Ông gõ ngón tay lên tập ghi chú của mình và có vẻ đang nói ra những gì mình nghĩ. “Nếu anh không nhận trách nhiệm nuôi chúng, tôi buộc phải gọi điện cho Trung tâm chăm sóc trẻ em để hai đứa có thể được mang tới các gia đình đồng ý nhận nuôi.”
Những kí ức cũ vụt qua Mat như lớp nhọ nồi bẩn thỉu nơi thị trấn anh lớn lên. Anh tự nhắc nhở bản thân mình rằng có rất nhiều những gia đình tốt bụng nhận nuôi con, và cơ hội để hai đứa trẻ của Sandy bị gửi vào một nhà như gia đình Havlov là rất nhỏ. Gia đình Havlov sống cạnh nhà Mat khi anh còn nhỏ. Người cha của gia đình đó thường xuyên thất nghiệp và họ sống bằng cách nhận nuôi những đứa trẻ, rồi sau đó bỏ mặc chúng một cách thậm tệ tới mức bà của Mat và những người bạn đã phải cho chúng ăn và băng bó vết thương cho chúng.
Anh nhận ra anh cần tập trung vào việc mình bị pháp luật ràng buộc với hai đứa trẻ hơn là nghĩ về quá khứ đó. Nếu anh không làm rõ vấn đề cha ruột là ai này ngay bây giờ thì nó sẽ vướng mắc trong đầu anh hàng tháng trời, thậm chí có thể dài hơn.
“Đừng gọi điện cho cái trung tâm gì đó, cho tôi vài giờ, tôi sẽ đi kiểm tra vài thứ.”
Ông luật sư nhìn nhẹ nhõm, nhưng tất cả những gì Mat định làm là tới tóm cổ hai đứa nhóc và lôi chúng tới phòng xét nghiệm trước khi chúng bị gửi tới các trung tâm xã hội và khi đó anh sẽ phải đối mặt với hàng đống những loại giấy tờ khác.
Chỉ khi anh đi theo hướng dẫn của ông luật sư tới địa chỉ nhà Sandy, anh mới thực sự nhớ lại người vợ cũ của mình. Cô ấy khá trẻ, như những gì anh nhớ, và là góa phụ. Anh chỉ gặp cô ấy một lần, nhưng cô ấy đã bị ấn tượng – một giảng viên đại học từ Missouri hoặc từ bất kỳ nơi nào đó khác có chút điểm tương đồng với cô con gái hoang cô đang mang trong bụng.
Anh lấy điện thoại để gọi cho văn phòng luật sư, rồi nhìn thấy con phố anh đang tìm nên lại đặt xuống. Một vài phút sau, anh đỗ chiếc Mercedes SL 600 hai chỗ mui trần anh mua bằng số tiền còn lại sau khi chi tiền mua một căn nhà trệt xám xịt thuộc một khu dân cư bình thường.
Chiếc xe quá nhỏ với anh nhưng anh đã tự đánh lạc hướng mình bằng những thứ khác lúc đó, nên anh đã viết giấy chuyển tiền trong khi trong lòng tự chất vấn. Cuối cùng, bán chiếc xe trở thành mục tiêu tiếp theo anh cần hoàn thành.
Khi tới gần ngôi nhà, anh nhìn lớp sơn bong tróc, gạch trên vỉa hè nứt vỡ và một chiếc xe nhà di động cũ màu vàng đỗ trên bãi cỏ không được cắt tỉa cạnh đó. Là lỗi của Sandy khi sử dụng tiền để mua một ngôi nhà di động mà không dùng để sửa sang lại nhà cửa của mình.
Anh bước chậm rãi trên vỉa hè, bước qua bậc tam cấp gồ ghề để tới được thềm ngoài ngôi nhà, rồi gõ cửa mạnh mẽ bằng nắm tay lớn của mình. Một khuôn mặt sung sỉa, như phiên bản hồi trẻ của Winona Ryder xuất hiện. “Vâng?”
“Chú là Mat Jorik.”
Cô bé khoanh tay lại và dựa người vào khung cửa. “À đây rồi, lão cha.”
Vậy ra đó là cách mọi thứ diễn ra.
Cô bé mảnh mai và xinh xắn bên dưới lớp trang điểm dày mà cô tô trát lên mặt. Son môi màu nâu đất như làm đôi môi trẻ con của cô trông như bị bôi bẩn. Lông mi cô bé khoác một lớp mascara quá dày, trông như một con rết đen xì đang nằm trên đó vậy, và mái tóc đen ngắn của cô bé phun một lớp màu nâu phần chân tóc. Chiếc quần bò rách hơi tụt với thân hình mảnh mai của cô bé, để lộ xương sườn và bụng cô, nhiều hơn phần anh muốn thấy, và phần ngực nhỏ của một cô bé 14 tuổi như cô không cần một chiếc áo lót đen được trưng ra bên dưới phần cổ trễ của chiếc áo crop top bó sát của cô.
“Chúng ta cần nói chuyện.”
“Chúng ta không có gì cần phải nói cả.”
Anh nhìn xuống khuôn mặt nhỏ bé và bướng bỉnh. Phiên bản nhỏ của Winona không biết rằng chẳng có thứ gì cô bé có thể bày ra mà anh không biết tỏng vì anh đã quá quen thuộc với những cô em gái ở tuổi đó rồi. Anh nhìn cô bé bằng cái nhìn anh dùng với Ann Elizabeth, đứa cứng đầu nhất trong những đứa em gái của anh. “Mở cửa ra.”
Anh có thể thấy nỗ lực của cô bé trong việc gom góp dũng khí để cản bước anh, nhưng cô bé không thể và nó bước sang một bên. Anh nhanh chóng vượt qua cô bé để bước vào phòng khách. Nó tồi tàn nhưng ngăn nắp. Anh thấy một cuốn sách chăm sóc trẻ em rách nát đang mở ra trên bàn. “Chú nghe nói cháu đã ở đây một mình được một thời gian.”
“Tôi không ở một mình. Connie chỉ vừa mới rời đi để tới tiệm tạp hóa. Cô ấy là người hàng xóm vẫn đang chăm sóc chúng tôi.”
“Kể chuyện khác đi.”
“Ý chú là tôi nói dối sao?”
“Ừ.”
Cô bé không thích câu trả lời này nhưng cũng chẳng thể làm gì khác để thay đổi được.
“Em cháu đâu?”
“Đang ngủ.”
Anh không thấy nhiều sự giống nhau giữa cô bé và Sandy, ngoại trừ đôi mắt có vài nét. Sandy ra vẻ và tục tĩu hơn, một người khó chịu với trái tim hiền lành và những suy nghĩ tử tế hẳn là phải được thừa hưởng từ mẹ nhưng cô ấy chẳng bao giờ thèm dùng tới chúng.
“Bà ngoại cháu thì sao? Sao bà ấy không chăm sóc hai đứa?”
Cô bé bắt đầu cắn phần còn lại chút xíu của móng tay cái. “Bà đang ở Australia để nghiên cứu về những thổ dân vùng Outback. Bà là một giảng viên đại học.”
“Bà ấy tới Australia trong khi biết những đứa cháu ngoại của mình không được ai chăm sóc ư?” Anh không hề cố giấu sự hoài nghi của mình.
“Connie đang ––”
“Dẹp mấy chuyện vớ vẩn đó đi. Chẳng có Connie nào cả, và nếu cháu không thành thật với chú, Trung tâm chăm sóc trẻ em sẽ tới đây và tóm hai đứa đi chỉ trong tích tắc thôi đấy.”
Khuôn mặt con bé nhăn lại. “Chúng tôi không cần ai chăm sóc hết! Chúng tôi vẫn tự lo cho mình tốt đấy thôi. Sao chú không tự lo cho cái bản thân chết tiệt của mình trước đi?”
Khi anh nhìn xuống gương mặt ương ngạnh kia, anh nhớ lại tất cả những đứa trẻ bướng bỉnh được nhận nuôi đã đến và biến mất ở bên nhà hàng xóm suốt những năm tháng lớn lên. Một vài trong số chúng như bị cả thế giới ghét bỏ, và chỉ để nhận thêm những trận đòn vì nỗ lực của chính chúng. Anh dịu giọng. “Nói với chú về bà cháu đi.”
Cô bé nhún vai. “Bà và Sandy không hòa hợp. Bởi vì Sandy say xỉn và mọi chuyện. Bà không biết về vụ tai nạn xe.”
Bằng cách nào đó, anh không bất ngờ khi nghe cô bé gọi Sandy bằng tên. Đó chính xác là điều anh luôn biết sẽ được nghe về vợ cũ của mình, người có vẻ như đã hoàn thành xuất sắc lời hứa trở thành một người nghiện rượu. “Cháu đang nói với chú bà cháu không biết Sandy mất rồi ư”
“Bà có biết. Tôi không có số để gọi cho bà nhưng vài tuần trước, bà có gửi thư về với vài bức ảnh của bà ở Outback và những thứ khác. Nên tôi viết thư lại và nói với bà về Sandy, vụ tai nạn xe và Trent.”
“Trent là ai?”
“Bố của đứa bé. Ông ra là một gã gàn dở. Dù sao đi nữa, ông ta cũng đã chết trong vụ tai nạn rồi và tôi cũng không lấy làm tiếc.”
Anh biết bạn trai hiện tại của Sandy đang sống cùng cô ấy nhưng không biết anh ta là bố đứa trẻ. Sandy hẳn phải lưỡng lự về anh ta lắm nếu không tên anh ta đã ở trên giấy khai sinh của đứa bé thay vì Mat rồi. “Trent hẳn phải có gia đình chứ?”
“Không. Ông ấy tới từ California và lớn lên trong trại trẻ mồ côi.” Cô bé hất cằm lên.
“Ông ta đã kể với tôi mọi thứ về nơi đó, tôi và em sẽ không đi đâu hết nên chú chỉ cần quên chuyện này đi thôi! Dù sao đi nữa, chúng tôi cũng sẽ không phải tới đó đâu bởi tôi đã gửi thư cho bà và rồi bà sẽ sớm trở lại đón chúng tôi thôi.”
Anh để ý sự khả nghi của cô bé. “Cho chú xem thư.”
“Chú không tin tôi?”
“Hãy nói là chú cần chút bằng chứng.”
Cô bé nhìn sự rầu rĩ anh bày ra trên mặt, rồi đi vào trong bếp. Anh chắc chắn cô bé đang nói dối và anh đã bất ngờ khi cô bé trở lại vài giây sau đó với một tấm thiệp con với logo đại học Laurents, Willow Grove, Iowa. Anh nhìn xuống phần thư viết tay.
Bà mới nhận được thư của con, cháu cưng. Bà rất tiếc. Bà sẽ bay về nhà ở Iowa vào ngày 15 hoặc 16 tháng 7, tùy thuộc vào tình hình máy bay. Bà sẽ gọi sớm nhất có thể khi về tới nơi. Đừng lo lắng. Mọi chuyện sẽ ổn thôi.
Yêu mấy đứa, Bà ngoại Joanne.
Anh cau mày. Hôm nay là thứ ba ngày 11. Sao bà Joanne không thu dọn đồ ngay sau đó rồi lên chuyến bay đầu tiên về nhà luôn?
Anh tự nhắc nhở mình đây không phải là chuyện anh của anh. Tất cả những gì anh cần quan tâm là lấy mẫu máu xét nghiệm mà không cần phải qua hàng loạt những thủ tục của mấy người quan liêu thích dính dáng đến mọi chuyện nữa. “Để chú nói này. Bế em cháu ra đây. Chú sẽ mua cho hai đứa kem sau khi chúng ta tới phòng xét nghiệm.”