Lúc này, sân luyện công ở hậu viện Tử Tiêu cung, tiếng kiếm khí va chạm liên miên bất tuyệt. Kiếm quang lấp loáng, hai bóng người một đen một xanh dây dưa. Áo đen là Du Liên Châu mà áo xanh chính là Ân Lê Đình. Du Liên Châu dùng Thái Ất Bát Quái kiếm pháp nhanh chậm nối tiếp nhau, trong cương có nhu, kiếm và người như hình với bóng, kiếm ý hợp nhất, xuất kiếm khí thế hào hùng. Ân Lê Đình sử dụng Nhu Vân kiếm pháp như nước chảy mây trôi, nhìn như vô lực lại liên tiếp kín kẽ, lực đạo không hề gián đoạn, kiếm thế không hiện vết tích nhưng lần lượt hóa giải thế công của Du Liên Châu. Hai người luyện công so chiêu, đấu hồi lâu, nghe Du Liên Châu thét một tiếng, thân hình dẫn kiếm xoay một vòng, Lục Hợp kình mạnh mẽ rung lên nhả ra đầu mũi kiếm, Ân Lê Đình muốn thu kiếm đã không kịp, trường kiếm cứ thế bật khỏi tay bay vút lên không, ra xa gần bốn năm trượng mới rớt xuống.
Trường kiếm tuột khỏi tay, tất nhiên Ân Lê Đình bại dưới tay nhị sư huynh. Du Liên Châu lại nhíu mày nhìn Ân Lê Đình “Lục đệ, lúc luyện công sao lại không tập trung?” Tuy công phu của Ân Lê Đình không bằng được mấy người Tống Viễn Kiều, Du Liên Châu nhưng từ nhỏ thiên phú kiếm pháp đã cực giỏi, lại thêm ba tuổi nhập môn, đến bây giờ hơn hai mươi năm, trong số đệ tử đời thứ hai của phái Võ Đang, kiếm pháp có thể nói là xuất sắc nhất. Ai ngờ hôm nay hai người đấu chưa tới trăm chiêu, trường kiếm đã bị Du Liên Châu cuốn lên không, có thể thấy quả thật không cố hết sức.
Ân Lê Đình thuở nhỏ nhập môn, công phu cơ bản đều do Du Liên Châu truyền thụ, lại thêm Du Liên Châu tính tình nghiêm túc, Ân Lê Đình cực kỳ kính nể vị sư huynh này. Bây giờ nghe sư huynh có ý răn dạy, vội vàng cúi đầu nhận lỗi. Du Liên Châu thấy dáng vẻ mất hồn mất vía của Ân Lê Đình, trong lòng thở dài, nói “Mấy ngày nay tâm thần lục đệ không yên, vì lý do gì?” Nói rồi nhặt trường kiếm của Ân Lê Đình đưa qua.
Ân Lê Đình nhận lấy trường kiếm, nghe sư huynh hỏi, nhíu mày, lo âu trong lòng hiện hết lên mặt, nói nhỏ: “Lộ Dao không gửi phương thuốc về cho tam ca đã mười ngày rồi…”
Từ sau khi Lộ Dao rời khỏi Võ Đang, cứ hai ba ngày lại phi cáp truyền thư lên Võ Đang một lần, ghi lại phương thuốc châm cứu, dặn dò đối với Du Đại Nham. Phái Võ Đang mời một đại phu lên núi, căn cứ theo dặn dò của nàng châm kim dùng thuốc. Thư không dài, có lúc cũng chêm vào vài câu nghe ngóng dọc đường, với giọng điệu của Lộ Dao mà nói cũng rất thú vị. Thư từ do Vũ Xương Vọng Giang lâu đưa tới, tuy rằng trễ một hai ngày nhưng cũng khá kịp thời. Song từ mười ngày trở lại đây, thư liền đứt đoạn. Từ đó tới giờ, cơ hồ mỗi ngày Ân Lê Đình đều tự minh đi hỏi đệ tử phụ trách văn thư có thư hay không, lần nào cũng thất vọng mà về.
Du Liên Châu nhìn sư đệ nhà mình, vỗ vai chàng nói “Bây giờ chắc Lộ cô nương đang bận rộn cứu người nên không có thời gian gửi thư. Huống chi từ hôm trời ấm tới nay, tam ca đệ cũng không bị đau nhức khớp xương nữa. Có lẽ Lộ cô nương cảm thấy không cần phải châm cứu nữa nên không có tin tức.”
Ân Lê Đình nghe sư huynh an ủi vẫn không yên tâm, nói “Đệ… chỉ sợ dọc đường nàng gặp nguy hiểm gì đó, thời buổi giờ bên ngoài không thái bình, một cô nương đơn độc như nàng, gặp phải cường đạo cướp bóc thì làm sao? Hơn nữa nội công nàng không đủ, cho dù kiếm chiêu tinh diệu, lỡ gặp phải danh gia nội công chắc chắn bị thiệt…”
Du Liên Châu cười khổ trong lòng. Tính tình sư đệ nhà mình hiền lành, gặp chuyện lại thường do dự không quyết. Điều này thì chàng đã biết trước, nhưng cái tật lo lắng dài dòng văn tự này mọc thêm từ lúc nào thế? Đành nói “Lục đệ, trước khi Lộ cô nương lên Võ Đang từng một mình du ngoạn không ít, tất biết cách bảo vệ bình an. Hơn nữa, nàng không phải nhân sĩ giang hồ, gần như không động thủ với người ta, làm gì có danh gia nội công nào làm khó nàng? Ngày hôm đó giữa đại điện Tử Tiêu cung, đệ ta chính mắt nhìn thấy kiếm chiêu của Lộ cô nương, kiếm pháp như vậy muốn tự bảo vệ mình thừa sức, lục đệ không cần lo lắng.”
Ân Lê Đình lại nói “Đệ nghe tứ ca nói, chứng ác hạch đó cực kỳ nguy hiểm, người chết quá nửa. Còn đọc vài quyển y hư, nói chứng bệnh đó hết sức khó trị, hơn nữa rất dễ lây cho người khác. Đệ sợ… sợ… Lộ Dao không cẩn thận nhiễm phải, vậy thì hỏng mất…”
“Bản thân Lộ cô nương là đại phu, đương nhiên biết cách phòng tránh ra sao. Vả lại y thuật Lộ cô nương cao siêu, sư phụ mời vô số danh y đều không chữa khỏi cho tam đệ nhưng nàng chữa được, có thể thấy được bản lĩnh của nàng, ta nghĩ chắc nàng tự có diệu kế đối phó chứng ác hạch. Lục đệ, đệ đừng suy nghĩ lung tung nữa, nếu mệt thì về phòng nghỉ một lát đi. Nếu Lộ cô nương thấy đệ buồn lo vô cớ thế này, với tính tình nàng, có phải sẽ trách đệ coi thường y thuật của nàng không?”
Ân Lê Đình nghe xong, nghĩ tới bộ dạng Lộ Dao chống nạnh trừng mắt, tức giận lại mang theo ba phần ý cười nói “Ân lục ca xem thường bản lĩnh của Lộ Dao phải không?” đầu tiên cảm thấy ngọt ngào, thoáng mỉm cười, kế đó càng lo âu hơn.
Du Liên Châu thấy chàng lúc cười lúc nhíu mày, biết mấy ngày nay đừng nói luyện công, sợ là cơm nước ngủ nghê cũng không có tâm tình, vì thế cũng không ép buộc nữa, thu trường kiếm, dặn dò Ân Lê Đình xong liền đi tới viện mình ở.
Vừa ra khỏi sân luyện công thì thấy Trương Tùng Khê ngồi trong viện kế bên hành lang, tay cầm sách, chuẩn bị hồ trà, vừa uống vừa đọc. Thấy Du Liên Châu đi tới lập tức vẫy tay với chàng gọi “Nhị ca, lại đây ngồi đi.”
Du Liên Châu ngồi xuống đối diện Trương Tùng Khê, đón lấy ly trà chàng đưa tới, hớp một miếng. Nghe Trương Tùng Khê hỏi “Nhị ca đi luyện kiếm à? Với lục đệ?”
Du Liên Châu lắc đầu nói “Lục đệ không tập trung, bị ta cuốn trường kiếm lên trời, mới quá vài chiêu đã thua.”
Trương Tùng Khê lắng nghe “Dạo này chẳng những lục đệ không luyện công, ăn ngủ đều như hồn vía lên mây. Hôm qua tam ca nói với đệ, nói lục đệ đến phòng huynh ấy, vừa vặn là cơm chiều, tam ca bèn giữ đệ ấy lại ăn cơm. Kết quả lục đệ cứ xuất thần, bưng bát cơm lên ăn, ăn xong vẫn chưa phát hiện đồ ăn đều chuẩn bị theo đơn Tiểu Lộ đặc biệt kê cho tam ca, nghe tam ca nói mùi vị rất đắng. Thế mà lục đệ chẳng có tí phản ứng nào, căn bản không để ý mình đang ăn gì.”
“Ta mới hỏi qua lục đệ, hình như đệ ấy lo cho Lộ cô nương.”
Trương Tùng Khê nói “Ngày thứ hai sau khi Tiểu Lộ xuống núi, lục đệ chạy tới phòng đệ, hỏi có y thư ghi chép dịch ác hạch hay không, cho đệ ấy mượn.”
Du Liên Châu nghe nói Ân Lê Đình chạy đi lật xem cả y thư, im lặng nửa ngày, hỏi Trương Tùng Khê “Hôm đó, đệ và lục đệ tiễn Lộ cô nương, lục đệ có nói gì chăng?”
Trương Tùng Khê đáp “Lục đệ nào có nói gì chứ? Nếu nói rồi thì đâu có hoảng hốt như mấy ngày nay?”
Du Liên Châu trầm ngâm hồi lâu, mở miệng hỏi “Lục đệ nói chứng ác hạch đó rất hiểm ác, động một tí là chết quá nửa?”
Trương Tùng Khê gật đầu “Lục đệ lo âu điểm này cũng có lý. Tiền triều từng trải qua chứng ác hạch này một lần, theo ghi chép thì đi qua nơi nào chết gần hết nơi đó, may mắn sống sót không tới một phần mười. Đệ thật tình không dám nói rõ cho lục đệ, chỉ dám nói là chết quá nửa.”
Nghe xong, ít nhiều gì Du Liên Châu cũng lo lắng “Lộ cô nương có nói khi nào quay lại không?”
Trương Tùng Khê cười khổ “Tiểu Lộ nói việc Tuyền Châu có lẽ đến cuối hè mới kết thúc, sau khi xong xuôi nàng phải về Thu Linh trang một thời gian, đầu đông sẽ đi Lĩnh Nam. Còn nói Lòng Vui Với Núi Sông, Bốn Bể Đều Là Nhà, nghe ý tứ thì e là một thời gian nữa cũng không tính quay lại.”
Bên này Ân Lê Đình quay người đi tới viện Lộ Dao từng ở. Chỗ ở ngày xưa còn đó mà người bây giờ không thấy bóng đâu, Ân Lê Đình mới dám quan sát khắp phòng. Dạo trước mỗi lần đến đây, chàng chỉ đứng trong sân hoặc chờ trước cửa, cho dù Lộ Dao mời chàng vào, chàng cũng không dám quan sát khuê phòng nữ tử, mắt nhìn mũi mũi nhìn ti, nhưng đầu óc đều là dáng vẻ cười duyên của Lộ Dao. Nhất là thời gian dạy Lộ Dao thư pháp, lần nào cũng phải cố hết sức ép mắt chỉ nhìn chằm chằm trang giấy, nhưng vẫn cứ ngửi thấy mùi thơm nhè nhẹ xen lẫn mùi thảo dược nhàn nhạt tỏa ra từ người Lộ Dao. Lúc ấy Lộ Dao thấy chàng nhìn chằm chằm mặt giấy, còn cười sư huynh đệ họ viết chữ cũng tập trung chăm chú như luyện võ, không sợ mệt gì cả. Song chàng biết rõ hồn mình nào có đặt trên chữ đâu? Nét chữ viết càng lúc càng mềm mại nhẹ nhàng, đường nét thì có mà kình lực thì không. Khổ nỗi nếu chàng không ép mình nhìn tờ giấy trừng trừng, chỉ sợ không kềm được mà nhìn nàng, nhìn nàng sẽ không nén được đỏ mặt. Sau đó bị tứ ca nhìn thấy chữ viết, cười cười như không nhìn chàng song không nói gì cả.
Lúc Lộ Dao ở trên núi, Phó Thu Nhiên đưa tới không ít đồ nhưng nàng đi quá vội vã, gấp gáp, chỉ kịp mang theo đồ đạc quan trọng, ngọc ấm Hòa Dương Phó Thu Nhiên đặc biệt gửi lên cùng với một mớ trâm cài trang sức làm từ bạch ngọc, hoàng toản, toàn bộ để lại hết Võ Đang. Khi hạ sơn, Trương Tùng Khê có hỏi nàng cần sai đệ tử đưa những thứ đó về Thu Linh trang không, Lộ Dao lại đáp chẳng qua là đồ đạc bình thường, Kim Lăng đường sá xa xôi, không cần phiền phức như thế. Có một ít dược liệu, dao kéo không mang theo thì đưa tặng cho đệ tử dược phòng, đồ chơi trang sức của nữ hài tử thì đưa cho Phạm Thường, còn như giấy bút nghiên mực thì tặng cho Ân Lê Đình. Đồ đạc còn lại cứ tùy tiện xử lý, cần gì đưa về Kim Lăng, tốn thời gian công sức.
Trên núi Võ Đang, chàng và Lộ Dao thân thiết nhất, vì thế Trương Tùng Khê nhường chàng quyết định. Trầm ngâm nửa ngày, chàng nói với Trương Tùng Khê “Tứ ca, có thể để những thứ này trong gian phòng đó được không? Dù sao Võ Đang cũng không thiếu một gian viện.”
Tất nhiên Trương Tùng Khê bằng lòng. Về phía Ân Lê Đình, thật ra là lưu lại ít kỷ niệm. Cảm thấy nếu viện này vẫn duy trì nguyên dạng, có lẽ ngày nào đó Lộ Dao lại quay về như cũ, như chưa từng từ biệt.
Ngày Kỷ gia lên núi đề thân, không riêng chàng, mấy vị sư huynh đều cực kỳ kinh ngạc, đồng loạt nhìn chàng. Trước lúc đó, chàng chưa từng nghĩ vì sao mỗi lần gặp Lộ Dao luôn đỏ mặt, thậm chí luống cuống tay chân. Nhưng lần đầu tiên, trước cái nhìn chăm chú của sư phụ và các vị sư huynh, người đầu tiên chàng nghĩ tới lại là Lộ Dao. Chàng muốn đi hỏi nàng, lại không biết nên hỏi gì. Trong khoảnh khắc ấy, rốt cuộc chàng cũng hiểu được rõ ràng, hẳn là chàng thích nàng rồi. Nhận thức bất ngờ đấy làm chàng hoảng hồn, cứ ngồi trong đại sảnh mà đầu óc nghĩ tới người và việc chẳng liên quan gì đến tình cảnh trước mặt, hồi lâu mới nghe được đại ca tạ lỗi với người nhà họ Kỷ, nói rằng hôn nhân đại sự, cần để sư phụ Trương Tam Phong và lục đệ tự cân nhắc một chút.
Khi ấy ra khỏi đại điện, chàng phi thẳng tới viện của Lộ Dao, lại phát hiện căn bản không có người, bấy giờ mới nhớ hôm nay đã hẹn nàng lên núi hái thuốc. Muốn lên núi tìm nàng lại sợ hai người đi trái đường, bèn chờ ngay tại chỗ. Đứng bên ngoài nhớ tới sự tình hơn nửa năm qua, bỗng dưng nhớ lại lần đầu gặp gỡ, mình cũng như thế, ôm một tia hi vọng chờ nàng ở Vọng Giang lâu đủ ba ngày, chỉ là lúc đó trong lòng rối rắm vì thương thế của tam ca, còn bây giờ chuyện rối rắm lại càng khiến chàng bối rối.
Chờ mãi đến quá ngọ cũng không thấy bóng Lộ Dao đâu. Định lên núi tìm nàng thì bị tứ ca kéo đi. Lần nữa đi ra đã là tối mịt, cảm thấy đi gõ cửa Lộ Dao lúc này không ổn nhưng trong lòng lại hết sức khao khát nhìn thấy nàng. Thế nên chàng đi tới đi lui ngoài cửa, đang định lấy hết dũng khí gõ cửa lại nghe bên trong có tiếng nước, lắng nghe kỹ thì là tiếng lúc tắm rửa. Lập tức, chàng chỉ cảm thấy mặt như lửa đốt, cuống quýt thi triển Thê Vân Túng nhảy ra khỏi viện, cả một đêm chỉ dám vòng vo ngoài viện, không dám đặt chân vào viện nửa bước. Đi tới đi lui cả đêm, định sáng sớm hôm sau nàng vừa dậy thì gặp nàng.
Cái đêm trong sơn động, nàng nép trong lòng chàng ngủ một đêm, chàng biết nên đẩy nàng ra nhưng lại không biết vì không dám hay không muốn đánh thức nàng, chàng cứ thế ôm nàng một đêm, mặc cho mặt mình nóng như lửa đốt. Sau đêm đó, về lễ, chàng nên cưới nàng, về phần chàng, chàng vô cùng nguyện ý cưới nàng, nhưng còn nàng, chàng không dám chắc. Tính Lộ Dao thoải mái, trước nay không phải người tuân theo lễ giáo. Nếu chàng đề xuất chuyện này, chỉ sợ nàng sẽ nhảy dựng lên gõ đầu chàng, hỏi có phải sáng sớm chàng luyện công bị thương đầu hay không, sau đó nghiêm túc bắt mạch chẩn bệnh, nói chàng có bệnh cần uống thuốc.
Có điều ngàn tính vạn tính, lại không tính được còn chưa tới sáng sớm hôm sau, Lộ Dao liền nhận được truyền thư từ Thu Linh trang, một khắc cũng không dừng, trực tiếp thu dọn đồ đạc hạ sơn. Khi chàng biết nàng đã biết chuyện Kỷ gia đề thân, tim chàng thắt lại, cho dù bản thân không đồng ý nhưng cứ luống cuống như thể đã làm sai chuyện gì. Song một mặt, đáy lòng lại âm thầm chờ mong nàng có phản ứng gì không. Khi ấy chàng luôn mãi chờ nàng nói, nhưng nghe được lại là hỏi chàng có lời gì muốn chuyển cho Kỷ cô nương. Có trời biết chàng chẳng có câu nào chuyển cho Kỷ cô nương nhưng chuyển cho nàng thì có cả mớ, song lại không biết mở miệng ra sao. Chờ chàng tỉnh táo thoát ra khỏi mớ hỗn loạn ngập ngừng, nhìn thấy nàng một mình cưỡi ngựa dứt áo mà đi, còn sót lại bóng dáng nhu mì xinh đẹp giữa núi bích đào đầy sắc xuân.
Ngồi trong phòng Lộ Dao, đang nghĩ ngợi lung tung lại nghe tiếng một đệ tử Võ Đang bẩm báo ngoài cửa “Lục sư thúc.”
Ân Lê Đình đứng dậy đi ra sân “Có chuyện gì?”
“Đại sư bá sai con mời người đến điện Tam Thanh.”
Ân Lê Đình gật đầu, có chút lưu luyến quay người cẩn thận đóng cửa, đi thẳng tới điện Tam Thanh Tử Tiêu cung.
Vừa vào cửa liền thấy Tống Viễn Kiều, Du Liên Châu và Trương Tùng Khê ngồi ở ghế bên, chủ tọa chính là Trương Tam Phong. Ân Lê Đình thấy sư phụ vội vã bước lên “Sư phụ.”
Trương Tam Phong mỉm cười “Lê Đình, hôm qua là mừng thọ vi sư, nửa tháng trước phương trượng Thiếu Lâm ở Phúc Kiến Phủ Điền đã phái người đưa quà tặng, theo lễ vi sư phải hồi đáp. Con đi thu thập hành trang, theo nhị ca con xuôi nam xuống Phủ Điền một chuyến, thuận tiện đi Tuyền Châu một chuyến, tặng Lộ cô nương ít đồ. Nàng có ân với Võ Đang ta, bây giờ ở Tuyền Châu cũng vì cứu người, Võ Đang chúng ta nên tương trợ mới phải.”