Rhyme đang đợi báo cáo hiện trường vụ án. Nhưng cả Dobyns và Sellitto đều tin rằng 823 đã trốn bặt – ít nhất là tạm thời. Trong mười hai giờ qua, không có vụ tấn công cảnh sát và nạn nhân nào bị bắt cóc.
Người canh phòng cho Sachs – một sĩ quan tuần tra to lớn từ MTS – đã cùng đi với cô tớ gặp bác sĩ tai mũi họng tại bệnh viện ở Brooklyn; đất có ảnh hưởng lớn đến họng của cô. Rhyme cũng có vệ sĩ – một sĩ quan mặc cảnh phục từ Đồn Hai mươi, đóng ngay trước khu nhà của anh – một cảnh sát thân thiện mà anh đã biết nhiều năm qua, người Rhyme rất thích tranh luận về ảnh hưởng của than bùn đến việc sản xuất whisky ở Ireland và Scotland.
Rhyme đang rất vui. Anh gọi xuống dưới nhà qua máy liên lạc nội bộ. “Tôi có hẹn với bác sĩ trong một, hai giờ tới. Cậu có thể cho ông ta lên.”
Viên cảnh sát nói, anh ta sẽ làm theo.
Bác sĩ William Berger bảo đảm với Rhyme rằng lần này ông ta sẽ đến đúng giờ.
Rhyme ngả đầu xuống gối và nhận ra trong phòng không chỉ có mình anh. Trên gở cửa sổ, những con chim ưng đang bước đi. Õng ẹo một cách hiếm thấy, chúng có vẻ bất ổn. Một cơn đau nữa lại đến. Cửa sổ của Rhyme cho thấy bầu trời yên bình, nhưng anh tin tưởng lũ chim. Chúng là dụng cụ đo khí áp chính xác.
Anh nhìn lên cái đồng hồ treo trên tường. Đã 11:00. Như hai hôm trước, anh đang chờ sự xuất hiện của bác sĩ William Berger. Cuộc đời là thế, anh nghĩ: trì hoãn hết lần này đến lần khác, nhưng cuối cùng với chút may mắn, ta vẫn đến được nơi ta cần đến.
Anh xem ti vi khoảng hai mươi phút, tìm kiếm tin tức về những vụ bắt cóc. Nhưng tất cả các đài đều đưa tin đặc biệt về ngày khai mạc hội nghị Liên Hiệp Quốc. Rhyme thấy những tin tức này buồn chán và quay lại với Matlock[141], rồi chuyển sang kênh CNN với nữ phóng viên xinh đẹp đứng bên ngoài toà nhà trụ sở Liên Hiệp Quốc, cuối cùng anh tắt máy.
Chuông điện thoại reo, anh làm một loạt động tác phức tạp để nhấc máy. “Tôi nghe.”
Một khoảng im lặng trước khi giọng một đàn ông vang lên: “Lincoln, đúng không?”
“Đúng.”
“Jim Polling đây. Anh thế nào?”
Rhyme nhận ra rằng từ sáng sớm hôm qua anh đã không gặp viên đại uý, ngoại trừ chương trình tin tức hội nghị tối hôm qua, lúc anh ta nhắc vở cho Thị trưởng và sếp Wilson.
“Ổn rồi. Có tin gì về thủ phạm của ta không?” Rhyme hỏi.
“Chưa có gì. Nhưng chúng ta sẽ tóm được hắn.” Một khoảng im lặng nữa.
“Này, anh ở nhà có một mình à?”
“Ừ.”
Một khoảng im lặng lâu hơn.
“Tôi đến, được chứ?”
“Chắc rồi.”
“Nửa tiếng nữa, được chứ?”
“Tôi sẽ ở đây”, Rhyme vui vẻ nói.
Anh ngả đầu xuống gối, ánh mắt anh lướt qua sợi dây phơi buộc nút treo bên cạnh tấm áp phích. Vẫn chưa có câu trả lời về cái nút buộc. Đó là – anh cười thành tiếng vì câu đùa – là phần còn thừa. Anh thấy khó chịu với ý tưởng bỏ vụ này mà không phát hiện ra đó là kiểu nút thắt nào. Rồi anh chợt nhớ ra Jim Polling là người câu cá. Có thể anh sẽ nhận ra...
Polling, Rhyme trầm ngâm.
James Polling...
Cái cách viên đại uý dai dẳng yêu cầu Rhyme tham dự vụ án thật là buồn cười. Cách anh ta đấu tranh để giữ anh trong vụ này thay vì Peretti – người sẽ là lựa chọn tốt hơn, về mặt chính trị cho Polling. Nhớ lại cái cách anh ta nổi giận với Dellray khi viên đặc vụ này cố chiếm lấy vụ điều tra từ NYPD.
Bây giờ anh nghĩ tới việc đó, toàn bộ sự liên quan của Polling vào vụ này là một điều bí ẩn. 823 không phải là loại tội phạm mà anh tự nguyện – ngay cả khi anh muốn có một vụ ngon lành để thêm vào lý lịch công việc. Quá nhiều rủi ro để mất nạn nhân, quá nhiều cơ hội cho báo chí – và giới quan chức – đánh hơi anh để làm thịt.
Polling... nhớ lại cách anh ta lao vào phòng anh, kiểm tra tiến độ công việc rồi bỏ đi.
Tất nhiên rồi, anh ta báo cáo cho Thị trường và sếp. Nhưng – một ý nghĩ bất ngờ vụt hiện trong đầu Rhyme – liệu Polling còn báo cáo cho ai đó khác hay không?
Ai đó muốn tìm hiểu về cuộc điều tra? Có thể chính là hắn?
Nhưng làm thế nào mà Polling có quan hệ với 823? Có vẻ như...
Thế rồi điều đó khiến anh sợ hãi.
Liệu Polling có thể là thủ phạm không?
Tất nhiên là không. Thật lố bịch. Nực cười. Ngay cả không tính đến động cơ và phương tiện, ta vẫn còn câu hỏi về cơ hội. Viên đại úy đã ở đây, trong phòng của Rhyme, khi mấy vụ bắt cóc diễn ra...
Nhưng có phải thế không?
Rhyme nhìn lên bản hồ sơ treo trên tường.
Quần áo tối màu và chiếc quần dài bông nhàu nát. Polling mặc quần áo thể thao tối màu suốt mấy ngày qua. Nhưng thế thì sao? Nhiều người cũng làm thế...
Cánh cửa dưới nhà mở ra rồi đóng lại.
“Thom?”
Không có tiếng trả lời. Người trợ lý sẽ không trở lại sau vài giờ nữa.
“Lincoln?”
Ồ không. Quỷ thật. Anh bắt đầu quay số bằng bộ ECU.
9-1-
Cằm anh đấy con trỏ sang số 2.
Tiếng bước chân dưới cầu thang.
Anh thử quay số lại, nhưng trong cơn tuyệt vọng anh đẩy thanh điều khiển ra khỏi tầm với.
Jim Polling vào phòng. Rhyme đã hy vọng người lính canh sẽ gọi anh trước. Nhưng tất nhiên là anh chàng cảnh sát tuần tra sẽ để viên đại úy mà không cần suy nghĩ.
Cái áo khoác tối màu của Polling mở phanh ra và Rhyme nhìn thấy khẩu tự động anh ta đeo bên hông. Anh không biết liệu đó có phải súng anh ta được cấp hay không. Nhưng anh biết Colt.32 là loại súng trong danh sách vũ khí cá nhân được chấp nhận của NYPD.
“Chào Lincoln”, Polling nói. Anh ta trông rõ ràng có vẻ bất ổn, cảnh giác. Anh ta nhìn khúc xương sống trắng bệch.
“Cậu thế nào, Jim?”
“Không tệ.”
Polling là người ưa hoạt động. Liệu vết sẹo trên ngón tay có thể là dấu tích của nhiều năm quăng dây câu? Hay một sự cố với con dao săn? Rhyme cố nhìn nhưng Polling vẫn đút tay trong túi. Anh ta có giấu gì trong đó không? Một con dao?
Chắc chắn Polling hiểu về hiện trường vụ án và pháp y – anh ta biết làm thế nào để không để lại vật chứng.
Cái mặt nạ trượt tuyết? Nếu Polling là thủ phạm, chắc chắn anh ta phải đeo mặt nạ – vì một trong những nạn nhân sau này có thể nhìn thấy anh ta. Và nước hoa dùng sau khi cạo râu... Nếu nghi phạm thực sự không dùng nước hoa dùng sau khi cạo râu mà chỉ đem theo một lọ để phun ra hiện trường khiến họ tin rằng hắn có dùng? Như vậy, khi Polling tới đây, không dùng tí nước hoa nào, sẽ chẳng có ai nghi ngờ anh ta.
“Anh có một mình thôi à?” Anh ta hỏi.
“Trợ lý của tôi...”
“Viên cảnh sát dưới nhà nói anh ta sẽ đi vắng một lúc.”
Thân hình Polling nhỏ nhắn nhưng khỏe mạnh, tóc màu cát. Lời nói của Terry Dobyns trở lại trong đầu anh: một người hữu ích, thẳng thắn. Một nhân viên hoạt động xã hội, luật sư, nhà chính trị. Người hay giúp đỡ kẻ khác.
Như một cảnh sát.
Rhyme đang băn khoăn liệu anh sắp phải chết hay chưa. Và thấy sốc khi nhận ra mình không muốn. Không phải kiểu này, không phải theo điều kiện của người khác.
Polling tiến về phía chiếc giường.
Nhưng anh chẳng thể làm được gì. Hoàn toàn phụ thuộc vào sự nhân từ của người đàn ông này.
“Lincoln”, Polling nói, vẻ nghiêm trọng.
Ánh mắt họ gặp nhau và một cảm giác về sự liên kết như luồng điện chạy qua người họ. Những tia lửa khô khốc. Viên đại úy nhìn nhanh ra cửa sổ. “Anh cũng đang băn khoăn, đúng không?”
“Băn khoăn?”
“Lý do tôi muốn anh vào vụ này.”
“Tôi nghĩ đó là vì tính cách của tôi.”
Viên đại uý không cười.
“Vì sao anh lại muốn tôi, Jim?”
Các ngón tay của viên đại uý đan vào nhau. Mảnh dẻ, nhưng mạnh mẽ. Bàn tay của một người câu cá, môn thể thao có vẻ hiền lành, nhưng mục tiêu lại là lôi con vật tội nghiệp ra khỏi nhà của nó, mổ bụng nó bằng một lưỡi dao sắc ngọt.”
“Bốn năm trước, vụ Shepherd. Chúng ta làm cùng nhau.”
Rhyme gật đầu.
“Những người công nhân tìm thấy xác viên cảnh sát đó trong ga tàu điện ngầm.”
Tiếng răng rắc, Rhyme nhớ lại, như âm thanh của tàu Titanic đang chìm trong phim A night to remember. Sau đó là tiếng nổ như tiếng súng khi thanh rầm rơi xuống cái cổ không may mắn của anh, và bụi đất bao trùm lấy anh.
“Và anh tự khám nghiệm hiện trường, như mọi khi.”
“Đúng thế.”
“Anh có biết chúng tôi kết án Shepherd thế nào không? Chúng tôi có một nhân chứng.”
Một nhân chứng? Rhyme chưa được nghe điều đó. Sau vụ tai nạn, anh đã mất hết tất cả manh mối liên quan đến vụ án, ngoại trừ việc Shepherd đã bị kết án và ba tháng sau đã bị một kẻ tấn công đâm đến chết trên đảo Riker. Tên này không bao giờ bị bắt.
“Một nhân chứng”, Polling nói tiếp. “Hắn có thể đặt Shepherd với vũ khí giết người vào nhà một nạn nhân.” Viên đại úy tiến lại gần giường hơn, đứng khoanh tay. “Chúng tôi có nhân chứng một ngày trước khi phát hiện cái xác cuối cùng – cái xác dưới tàu điện ngầm. Trước khi tôi yêu cầu anh khám nghiệm hiện trường.”
“Anh nói gì thế, Jim?”
Mắt viên đại úy cắm xuống sàn.
“Chúng tôi không cần anh. Chúng tôi không cần báo cáo của anh."
Rhyme im lặng.
Polling gật đầu. “Anh hiểu điều tôi nói chứ? Tôi đã rất muốn bắt tên Shepherd đó... Tôi muốn có một vụ thật chặt chẽ. Và anh biết là báo cáo hiện trường vụ án của Lincoln Rhyme sẽ làm điều gì với luật sư bảo vệ rồi đấy. Nó làm cho bọn họ sợ mất mật.”
“Nhưng Shepherd có thể vẫn bị kết án mà không cần đến báo cáo về hiện trường dưới tàu điện ngầm của tôi.”
“Đúng thế, Lincoln. Nhưng còn tệ hơn thế nữa. Anh biết không tôi được bên thiết kế giao thông cho biết chỗ đó không an toàn.”
“Ga tàu điện ngầm. Và anh vẫn để tôi khám nghiệm hiện trường trước khi họ chống lại nó?”
“Shepherd giết cảnh sát.” Mặt Polling nhăn nhúm vì ghê tởm. “Tôi rất muốn bắt được hắn. Tôi sẽ làm mọi thứ để tóm hắn. Nhưng...” Anh ta lấy tay che mặt.
Rhyme im lặng. Anh nghe thấy tiếng răng rắc của thanh rầm, tiếng nổ tung của gỗ gãy. Sau đó là tiếng xào xạc của đám bụi xung quanh anh. Sự bình an ấm áp, lạ lùng trong cơ thể lúc trái tim anh phập phồng vì hoảng sợ.
“Jim...”
“Chính vì thế tôi muốn anh vào vụ này, Lincoln. Anh thấy không?” Một cái nhìn khốn khổ xuất hiện trên khuôn mặt cứng rắn của viên đại úy; anh ta nhìn chằm chằm vào đốt xương sống trên bàn. “Tôi vẫn được nghe những câu chuyện nói rằng cuộc đời anh coi như đã vứt đi. Anh đang bị bỏ phí ở đây. Định tự tử. Tôi thấy có lỗi kinh khủng. Tôi muốn trả lại anh một phần cuộc sống.”
Rhyme nói: “Và anh đã sống với điều này suốt ba năm rưỡi qua?”
“Anh biết tôi rồi đấy, Lincoln. Mọi người biết tôi. Tôi bắt được ai đó, hắn phản ứng lại, hắn sẽ toi. Tôi đã chơi rắn với vài tên, tôi không dừng lại tới khi thằng khốn bị đóng gói rồi dán nhãn. Tôi không kiểm soát được điều đó. Tôi biết là đôi khi tôi đã quá tay với mọi người. Nhưng chúng là tội phạm – hay ít nhất là nghi phạm. Chúng không phải người của tôi, chúng không phải cảnh sát. Điều này xảy ra với anh... là tội ác. Là quá sai.”
“Tôi không phải lính mới”, Rhyme nói. “Tôi không phải khám nghiệm hiện trường nếu tôi nghĩ nơi đó không an toàn.”
“Nhưng...”
“Không đúng lúc chăng?” Một giọng nói khác vang lên ngoài cửa.
Rhyme ngẩng lên, nghĩ rằng sẽ trông thấy Berger. Nhưng đó là Peter Taylor, ông ta đang lên cầu thang. Rhyme nhớ là ông ta đã đến đây ngày hôm nay để chăm sóc bệnh nhân sau khi bị mất phản xạ. Anh cũng nghĩ rằng ông bác sĩ sẽ lại cho anh một bài về Berger và Hội Bến mê. Anh thì không có tâm trạng cho việc này; anh muốn có thời gian ở một mình – để tiêu hoá lời thú tội của Polling. Lúc này, nó cũng chỉ nằm đó, tê liệt như chính bắp đùi của Rhyme. Nhưng anh nói: “Vào nhà đi, Peter.”
“Cậu có hệ thống an ninh rất buồn cười, Lincoln ạ. Người bảo vệ hỏi tôi có phải là bác sĩ không rồi anh ta cho tôi lên. Sao thế? Vậy luật sư và kế toán bị đá đít à?”
Rhyme cười. “Tôi chỉ cần một giây thôi.” Rhyme quay lại với Polling. “Số phận thôi, Jim ạ. Điều xảy ra với tôi ấy mà. Tôi chỉ ở không đúng nơi và không đúng lúc thôi. Thỉnh thoảng điều đó vẫn xảy ra.”
“Cảm ơn, Lincoln.” Polling đặt tay lên vai Rhyme và bóp nhẹ.
Rhyme gật đầu, và để tránh sự biết ơn không dễ dàng, anh giới thiệu hai người với nhau. “Jim, đây là Peter Taylor, một trong những bác sĩ của tôi. Còn đây là Jim Polling, chúng tôi đã từng làm việc với nhau.”
“Rất vui được gặp anh”, Taylor nói, chìa tay phải ra. Đó là một cử động dài và ánh mắt Rhyme nhìn theo nó, vì một lý do nào đó anh nhận ra vết sẹo hình vành trăng sâu trên ngón tay trỏ của Taylor.
“Không!” Rhyme la lớn.
“Vậy mày cũng là cớm.” Taylor nắm chặt tay Polling trong khi hắn thọc ba lần lưỡi dao đang được hắn nắm chắc bên tay trái vào ngực viên đại úy, xuyên qua kẽ xương sườn với sự tinh tế của một bác sĩ phẫu thuật. Chắc chắn là hắn không phạm đến chiếc xương quý giá.