Lần ấy ở bờ sông, là cái thơm má ngây ngô với ý nghĩa như thăm dò.
Nhưng giờ đây nụ hôn này bao gồm trong đó rất nhiều điều, hai người hôn nhau mà như âm thầm nói cho nhau nghe về gì đó qua nụ hôn. Hai người bất giác đã nắm chặt tay nhau, Tùy Xán Nùng ngẩng lên, thấy nhịp thở của Kỷ Linh rối loạn, đáy mắt cậu mịt mờ.
Lát sau, Tùy Xán Nùng hỏi: “Vậy bây giờ em đã thấy em theo đuổi thành công chưa?”
Kỷ Linh ngước lên nhìn Tùy Xán Nùng, sắc mặt ban đầu đã thả lỏng phần nào.
Tùy Xán Nùng chỉ cười khẽ rồi lại hỏi sang vấn đề khác: “Anh vẫn chưa kịp hỏi em, em thích khăn quàng màu gì?”
Kỷ Linh không thích rõ ràng một màu sắc nào đó, trang phục ngày thường cậu mặc chủ yếu là màu đen trắng dễ phối đồ.
Nhưng Kỷ Linh ngẫm nghĩ, nói với Tùy Xán Nùng: “Màu cam là được.”
Sau, chiếc khăn quàng Kỷ Linh đan cho Tùy Xán Nùng được hoàn thành rất nhanh, ngày nào trước khi đi làm, Tùy Xán Nùng cũng choàng nó bên ngoài áo khoác.
Còn về chiếc Tùy Xán Nùng đan cho Kỷ Linh, chỉ có thể nói rằng anh đã cố gắng hết sức rồi.
Cuối cùng Tùy Xán Nùng đan được một hình vuông xiêu vẹo, đừng nói là choàng, đem vào bếp làm giẻ lau bàn là còn hơi cố quá.
Chẳng mấy đã đến Tết Âm Lịch.
Những tháng ngày làm giáo viên ở trường quốc tế chỉ có thể nói là đầy hứa hẹn, bởi vì nếu không phải đang được nghỉ thì cũng là đang trong kì nghỉ.
Nói là trường quốc tế nhưng vì học sinh Trung Quốc chiếm cũng phải đến 50% nên Tết Âm cũng được coi là một ngày lễ lớn. Trước khi nghỉ, trường học như thường lệ sẽ tổ chức biểu diễn văn nghệ trong kịch trường.
Sherry và Cindy lên sân khấu hát, năm nay Thomas còn biểu diễn bài “Vận may đến” bằng saxophone. Tuy Thomas không đủ hơi dẫn đến việc rất nhiều lần bị ngắt âm giữa chừng nhưng vì bản thân anh ta vẫn luôn tươi cười trong suốt buổi biểu diễn nên ngay khi kết thúc, khán giả vẫn vỗ tay như sấm dậy.
Dường như tháng hai thật kì diệu, đâu đâu không khí cũng tự giác nhộn nhịp sôi động hẳn lên.
Nhưng thật ra thì, Kỷ Linh không thích Tết Âm lịch cho lắm.
Tết Âm lịch có ý nghĩa đoàn viên. Khác với mọi người, gia đình không hề chiếm nhiều tỉ trọng trong cuộc sống của cậu, bố mẹ cậu ly hôn từ rất sớm, ai cũng đã có cuộc sống mới của riêng mình.
Vào những ngày Tết Âm lịch trước đây, đôi khi Kỷ Linh cũng sẽ gọi điện thoại cho họ, nhưng từ đầu bên kia điện thoại, cậu chỉ có thể cảm nhận được sự xa lạ và ngượng ngập,
Tết Âm lịch năm nay thì khác, Kỷ Linh rất muốn hỏi Tùy Xán Nùng xem anh có muốn đón Tết với mình không.
Nhưng nghĩ kĩ lại, thấy Tùy Xán Nùng hẳn cũng cần phải về nhà với gia đình mình, cậu lại không đề cập nữa, bởi vì cậu cho rằng mình không nên khiến Tùy Xán Nùng thấy khó xử.
Tết Âm lịch không chỉ có một ngày mà là cả một giai đoạn, Kỷ Linh nghĩ nếu Tùy Xán Nùng có thể dành lại cho mình hai ngày cuối cùng của kì nghỉ, hai người cùng nhau ăn sủi cảo xem TV đã là đủ lắm rồi.
Song tối hôm ấy khi hai người cùng ngồi xem TV, Tùy Xán Nùng lại chủ động hỏi: “Tết Âm lịch em có sắp xếp gì không? Hay hai chúng ta đi du lịch nhé?”
Kỷ Linh ngẩng phắt lên, ngơ ngác nhìn Tùy Xán Nùng.
“Anh không cần về thăm bố mẹ à?” Cậu hỏi.
Tùy Xán Nùng cười khẽ: “Lúc trước Giáng Sinh anh đã về thăm hai người rồi, họ bảo Tết Âm lịch năm nay sẽ có lịch trình riêng. Sao thế, em không muốn ra ngoài ——”
Tùy Xán Nùng còn chưa kịp nói hết nửa câu sau đã nghe Kỷ Linh vội vã đáp: “Em đồng ý.”
Chuyến đi này do Tùy Xán Nùng lên lịch hoàn toàn.
Hai ngày trước đêm ba mươi, hai người đến một thành phố có khí hậu ôn hòa và mưa nhiều ở phương Nam.
Sau khi xuống máy bay, Tùy Xán Nùng báo địa chỉ cho tài xế taxi, Kỷ Linh nhận ra nơi họ sắp đến không giống khách sạn.
Kỷ Linh hỏi: “Bọn mình không ở khách sạn à?”
Tùy Xán Nùng bật cười: “Ở khách sạn thì chán quá, mà anh cũng quen chỗ này, lần này bọn mình tìm một homestay để ở nhé, được không?”
Kỷ Linh không ý kiến gì với việc đó, cậu gật đầu, đáp: “Ừm.”
Kỷ Linh đang mải ngắm phong cảnh bên ngoài cửa sổ thì nghe Tùy Xán Nùng nói: “Vậy là lần trước em nói muốn về London thăm thú là vì thực sự muốn về xem trường, nhớ lại cuộc sống du học sinh, hay là vì…”
Kỷ Linh quay lại nhìn Tùy Xán Nùng.
Lát sau, cậu nói: “Hoài niệm cuộc sống du học sinh là thật, nhưng chắc chỉ chiếm khoảng 1% thôi.”
Kỷ Linh ngừng lại giây lát rồi nói tiếp: “Mục đích chủ yếu thật ra là lúc ấy em muốn đi du lịch với anh, cũng là muốn để anh hiểu thêm chút ít về em nữa.”
Tùy Xán Nùng nhìn thẳng mắt cậu, hồi lâu sau mới đáp “Ừm”.
Cuối cùng xe taxi dừng lại tại một khu biệt thự ở ngoại thành, sau khi xuống xe Kỷ Linh nhìn một lượt xung quanh, thấy có gì đó là lạ.
Bởi vì bình thường các homestay hay chọn những vị trí nội thành sôi động và tiện đi lại, rõ ràng nơi này khá hẻo lánh, mà chẳng lẽ homestay lại thực sự được xây ở… một khu biệt thự sao?
Kỷ Linh theo Tùy Xán Nùng đến ấn chuông cửa trước một căn biệt thự trong khu đó, trong lúc đợi mở cửa, Kỷ Linh vẫn không thể không hỏi lại Tùy Xán Nùng.
Tùy Xán Nùng đáp rất tự nhiên: “Thật ra cũng không phải homestay theo kiểu truyền thống đâu, chủ nhân của ngôi nhà này là một đôi vợ chồng, họ là… người quen của anh.”
“Trùng hợp họ cũng sắp đi du lịch ở nơi khác nên trong thời gian này sẽ có phòng để trống.” Tùy Xán Nùng nói, “Bọn anh rất thân thiết, em không phải lo đâu.”
Kỷ Linh gật đầu.
Thật ra Kỷ Linh thấy việc vào nhà người khác ở khá là kì lạ, nhưng cậu cho rằng Tùy Xán Nùng làm vậy hẳn cũng có lí do của riêng anh.
Cửa nhà mở ra.
Chủ nhân căn nhà là một đôi vợ chồng trung niên, bà chủ nhà chăm sóc bản thân rất tốt, thoạt trông cười híp mắt. Ông chủ nhà là một người đàn ông trung niên bụng bia cũng đang tủm tỉm.
Hai vợ chồng còn nuôi một con chó Samoyed to bự đáng yêu vô cùng, nó nghiêng đầu nhìn Kỷ Linh chăm chú, nhe răng cười ngốc nghếch với cậu.
Kỷ Linh cảm giác gia đình này… ai cũng đang rất phấn khởi.
Sau đó họ ăn trưa cùng nhau.
Không biết có phải ảo giác không mà Kỷ Linh thấy đôi vợ chồng nọ hơi nhiệt tình quá mức, mà ánh mắt họ nhìn cậu cũng không được bình thường.
Nhất là bà chủ nhà, thậm chí cứ động tí là bà lại quay mặt đi hít một hơi thật sâu, như thể đang đè nén thứ cảm xúc khó kiểm soát nào đó.
Lạ lùng hơn là Tùy Xán Nùng không hề thấy mình là người ngoài, không hề giống như đang ăn ở nhà người ta, anh cứ liên tục nhét thịt cá vào bát Kỷ Linh. Tùy Xán Nùng còn vùi đầu bận rộn một lúc, sau đó đặt một đĩa hạt dẻ đã bóc vỏ tới trong tầm tay Kỷ Linh: “Anh bóc cho em rồi đấy, nhân lúc còn nóng ăn nhanh đi.”
Đó là một đĩa hạt dẻ đầy trên bàn ăn nhà người ta, vậy mà Tùy Xán Nùng lại bóc hết cho mình, Kỷ Linh thấy Tùy Xán Nùng làm vậy… có vẻ hơi bất lịch sự. Huống gì trong mắt người ngoài, hẳn hai người họ giống như một đôi bạn cùng nhau đi du lịch hơn, hành động bóc hạt dẻ thân mật quá mức này… Kỷ Linh cho rằng Tùy Xán Nùng không phải người lỗ mãng như thế.
Kỷ Linh đang nghĩ xem nên ám chỉ cho Tùy Xán Nùng bằng cách nào thì chợt nghe Tùy Xán Nùng nói chuyện với đôi vợ chồng kia: “Thấy khăn quàng trên cổ con không?”
Bà chủ nhà nói: “Màu đẹp thật đấy.”
Tùy Xán Nùng đáp “Vâng”, chỉ Kỷ Linh bên cạnh: “Cậu ấy đan cho con đấy.”
Bà chủ nhà cười khen tay nghề của Kỷ Linh, cậu cúi đầu, cảm giác mặt mình như bị bỏng.
Thậm chí Kỷ Linh còn không thể hiểu nổi rốt cuộc là do mình đã cẩn thận quá mức hay do Tùy Xán Nùng cởi mở quá mức khi giao tiếp thế này nữa.
Kỷ Linh không biết đôi vợ chồng này quen Tùy Xán Nùng thế nào, cậu cũng không có cơ hội để hỏi.
Lạ cái là rõ ràng Tùy Xán Nùng dễ giống kiểu người để nói chuyện hơn, anh còn quen đôi vợ chồng này nữa, nhưng tâm điểm của cuộc trò chuyện của đôi vợ chồng nọ… vẫn luôn là Kỷ Linh.
Như thể Tùy Xán Nùng bên cạnh Kỷ Linh hoàn toàn là người vô hình, mà Tùy Xán Nùng thoạt trông chẳng để ý gì đến việc đó.
Hai vợ chồng nhà này rất tốt tính, họ hỏi về công việc và sở thích của Kỷ Linh theo cái cách rất dễ chịu, Kỷ Linh cũng vô thức nói rất nhiều chuyện với họ.
Cơm nước xong Kỷ Linh đi vệ sinh, lúc mở cửa ra, cậu phát hiện con Samoyed ngốc nghếch đang ngồi xổm trước cửa, lè lưỡi nhìn mình một cách tò mò.
Kỷ Linh luôn rất thích chó, cậu hơi do dự vươn tay thăm dò. Kỷ Linh cẩn thận xoa mặt và tai con Samoyed, cảm giác rất êm ái, thế là lại lén sờ xuống đuôi của nó.
Kỷ Linh quyết định đi hỏi tên chú chó.
Nhưng khi cậu quay lại phòng bếp thì phát hiện ra đôi vợ chồng kia đã biến mất rồi.
Tùy Xán Nùng nói: “Họ đi cho kịp chuyến bay rồi.”
Kỷ Linh sửng sốt nói với Tùy Xán Nùng: “Hai người họ còn chưa dắt chó đi.”
“Dù gì cũng là đi du lịch mà, dắt chó theo không tiện lắm.” Tùy Xán Nùng đáp rất thản nhiên, “Anh thấy em cũng thích chó mà, chúng ta trông hộ họ mấy ngày là được.”
Kỷ Linh ngây người, cậu lờ mờ thấy có gì đó sai sai, song vẫn đáp lại.
Thấy biểu cảm ấy của Kỷ Linh, Tùy Xán Nùng hỏi: “Sao thế?”
Kỷ Linh do dự nói: “Nhưng mà bọn mình… vẫn chưa hỏi tên chú chó này.”
Tùy Xán Nùng cười không đáp, Kỷ Linh thấy anh bỗng đứng dậy khỏi sô pha.
Tùy Xán Nùng vẫy tay với con Samoyed, nói: “Tùy Tiêu Sái, lại đây.”
Sau đó Kỷ Linh thấy tai con Samoyed vểnh lên.
Samoyed vẫy đuôi chạy đến bên cạnh Tùy Xán Nùng, Kỷ Linh thấy Tùy Xán Nùng xoay người đi mở một ngăn kéo, lôi túi thức ăn cho chó ra một cách rất quen thuộc.
Kỷ Linh ngơ ngác chớp mắt, vì căn nhà này không phải của Tùy Xán Nùng mà anh lại có thể tìm được ngay ngăn tủ đựng thức ăn cho chó, như thể đã nằm lòng vị trí của từng ngăn tủ cũng như những thứ đựng trong đó từ lâu rồi.
Cộng thêm tên chú chó này nữa…
Tùy Xán Nùng đổ thức ăn cho chó vào lòng bàn tay, Samoyed vẫy đuôi sung sướng cắn lấy, nhai rộp rộp.
Cuối cùng Kỷ Linh cũng hiểu ra, cậu hít một hơi thật sâu: “Chỗ này là…”
Tùy Xán Nùng cười, anh đứng lên, nói: “Cuối cùng em cũng phát hiện ra rồi à.”
Sắc mặt Kỷ Linh trống rỗng, cậu mù mờ nhìn chằm chằm Tùy Xán Nùng giây lát, cảm thấy hình như mình đã để lỡ một điều gì quan trọng hơn cả.
Một lúc lâu sau Kỷ Linh mới khó nhọc lên tiếng: “Vậy tức là đôi vợ chồng khi nãy ——”
Khóe mắt Tùy Xán Nùng cong cong.
“Ừm.” Anh nói, “Là bố mẹ anh.”