Đoàn người từ trên cao nhìn xuống, có thể thấy toàn cảnh Vương Đô thu gọn vào trong tầm mắt, tuy nhiên cũng phải đi cả một ngày mới có thể tới trung tâm của Vương Đô, cũng chính là kinh thành Trích Nguyệt.
Về tới đây đã xem như đường đi không còn nguy hiểm gì, Khung Dực cũng thả lỏng, không cần phải dẫn đầu đoàn người nữa. Hắn biếng nhác cho Tiểu Hổ đi chậm lại, lững thững thả bước, vừa đi vừa ngắm những nông trại ven đường. Chẳng mấy chốc, Khung Dực đã tuột xuống giữa đoàn.
"Anh Kỷ Phong! Đây là lúa gì thế? Nhìn không giống lúa ở Kinh Lạc nước em?"
"Lúa mì đấy, lúa của Kinh Lạc là lúa gạo, thưa Hoàng tử."
"Anh Kỷ Phong, chúng ta sắp đến Vương Đô chưa?"
"Đây đã là địa phận Vương Đô rồi."
"Ý em là, chúng ta sắp tới thành Trích Nguyệt chưa?"
"Nếu kịp thì chiều tối nay sẽ đến Trích Nguyệt, thưa Hoàng tử."
Liếc mắt thấy Ngọc Huyên đã thôi không hỏi nửa, Kỷ Phong cười cười:
"Hoàng tử không thắc mắc vì sao kinh thành có tên là Trích Nguyệt ư?"
"Vì sao?" Ngọc Huyên tròn mắt.
"Nhị vương tử biết một câu chuyện hay lắm, giải thích về nguồn gốc của cái tên này đấy." Kỷ Phong làm như vô tình, buông lời hờ hững.
"..."
"Em vào xe ngồi một lát đây." Nói rồi Ngọc Huyên chui trở lại vào xe ngựa.
Kỷ Phong thở hắt ra, quay sang nhìn Khung Dực, miệng thì thào: "Còn-giận-kìa."
Khung Dực trừng mắt trước khi giục ngựa chạy đi: "Ai mượn?"
Đoàn người lại mải miết tiến về phía trước.
Khung Tuấn lúc này đang dẫn đầu đoàn người, ngẩng lên đã thấy tòa thành sừng sững, to lớn uy nghiêm càng lúc càng hiện ra trước mắt. Hắn quay lại ra lệnh cho đám binh sĩ phía sau: "Giương cờ!"
Thấy Khung Dực đang phi ngựa đến, Khung Tuấn nhăn mặt nhắc nhở: "Về đến Trích Nguyệt rồi, đệ đội vương miện vào đi."
"Tuân lệnh Đại hoàng huynh." Khung Dực le lưỡi rồi nhảy lên xe ngựa của mình.
Hai lá cờ thêu chữ Khung và kí hiệu trăng tròn được phất lên, màu tím tượng trưng cho Đại vương tử Khung Tuấn, màu đỏ sẫm tượng trưng cho Nhị vương tử Khung Dực. Hai sắc cờ giương cao ngạo nghễ trên nền trời đỏ rực, tung bay phơi phới. Binh lính gác cổng thành nhìn xuống, giật mình rồi lập tức nghiêm giọng hô:
"Mở cửa thành! Mở cửa!"
Lát sau, cửa thành bằng sắt có khắc hoa văn mặt trăng nặng nề chầm chậm dịch chuyển, mở sang hai bên. Lập tức, hai hàng lính từ trong chạy rầm rập về phía đoàn người, khi đến nơi, tất cả đều đồng loạt khuỵu một gối, chống giáo xuống nền đất gõ ba cái rồi hô vang:
"Cung nghênh nhị vị Vương tử hồi kinh!"
Khung Tuấn và Khung Dực đi đầu, tuy có vài phần phong trần mệt mỏi nhưng cũng không át nổi khí chất hoàng tộc cao quý. Vương miện sắt vòng qua trán, vai khoác áo choàng nặng rũ, hông đeo trường kiếm, nhị vị Vương tử của Đại Thương nghiêm trang uy vũ nhập kinh.
Trên đường chính dẫn thẳng đến hoàng cung, dân chúng hai bên cũng đã dạt ra nhường đường. Đoàn người đi tới đâu, dân chúng quỳ xuống tung hô tới đó. Vài cô thiếu nữ bạo gan ngẩng mặt lên nhìn hai Vương tử, nhìn được rồi thì lại đỏ mặt cúi đầu, bẽn lẽn cười.
Bất giác, Khung Dực lại quay ra phía sau. Từ khoảng cách này, hắn không thấy rõ mặt người ngồi trong xe ngựa, chỉ nhác thấy cánh tay thon thon đặt trên bệ cửa sổ, rèm xe kéo hẳn sang một bên, đong đưa theo nhịp lắc lư.
Nhị vương tử nhếch mép, ngạo mạn điều chi không rõ.
Tầm nửa canh giờ sau, đoàn người đã vào đến hoàng cung Trích Nguyệt. Khung Tuấn, Khung Dực và Ngọc Huyên đều có một đêm nay nghỉ ngơi, chuẩn bị sáng mai được Hoàng đế triệu kiến.
Giống như hoàng tộc Kinh Lạc, hoàng tộc Đại Thương cũng cùng nhau chung sống trong cung, mỗi người sẽ có một cung điện riêng. Do Hoàng đế Khung Vũ chưa hạ lệnh Ngọc Huyên ngụ tại nơi nào, đêm đầu tiên này Ngọc Huyên được xếp ở tạm trong một cung điện dành cho sứ thần nước khác khi sang Đại Thương.
Lúc Khung Dực vừa tắm xong, đang còn trùm trên đầu một chiếc khăn lau cho khô tóc, bên ngoài đã có tiếng lao xao của viên quan truyền lời. Hoàng đế cho gọi hắn và đại ca, ngay lập tức vào diện kiến.
"Bái kiến phụ hoàng." Khung Tuấn và Khung Dực quỳ một gối, chắp tay, cúi đầu cùng hô.
"Đứng cả lên đi." Bên trên có giọng uy nghiêm truyền xuống.
Khung Vũ cũng trạc tuổi Chu An, ngoài năm mươi tuổi, tuy nhiên lại đậm người hơn, tóc cũng bạc nhiều hơn. Ngài vận áo dài tay màu xám thêu hoa văn chỉ bạc, thắt lưng da nạm sắt và một viên bảo thạch màu cam đỏ, đầu đội vương miện sắt và vàng, thoạt nhìn qua có vẻ lạnh lùng, lại còn phảng phất chút tàn nhẫn của đế vương phương bắc.
"Chuyến đi thế nào?" Ngài đặt bản báo cáo đang đọc trên tay xuống, nhìn hai người con rồi hỏi.
Hai anh em hiểu ý, liếc nhau một cái, Khung Tuấn bước lên tâu trước:
"Bẩm phụ hoàng, chỉ phát sinh chút chuyện lúc gặp thú hoang ở Đại Mạc, còn lại đều ổn cả. Vua chủ Kinh Lạc dường như còn có ý đình chiến lâu dài. Hắn còn bảo tự tay ủ rượu mơ, gửi cho người mười vò."
Gặp thú hoang ở Đại Mạc là chuyện rất bình thường, dĩ nhiên khi "thú hoang" này là sói lửa từ Khúc Băng thì lại là chuyện khác. Khi chưa điều tra rõ nguyên nhân, tốt nhất là chưa tấu lên lúc này.
Quả nhiên, Khung Vũ hoàn toàn không chú ý tới chi tiết thú hoang lẫn rượu mơ kia. Ngài im lặng suy nghĩ vài giây rồi hỏi lại: "Hắn đã nói vậy sao?"
"Bẩm phụ hoàng, Chu An bảo không mong thù hận lan xuống lớp trẻ." Khung Tuấn cung kính thưa.
"Đứa trẻ kia thế nào?" Khung Vũ chợt hỏi.
Khung Tuấn hơi giật mình, tuy nhiên đã kịp kìm lại cảm xúc trên gương mặt. Hắn bình tĩnh đáp: "Hoàng tử Kinh Lạc có vẻ nho nhã, thiện lương."
Phụ hoàng hắn vừa gọi Ngọc Huyên là "đứa trẻ". Mặc dù nghe qua có vẻ tỏ ý xem thường, nhưng không hiểu sao Khung Tuấn có cảm giác trong cách gọi này còn xen lẫn một chút tùy ý, không phòng bị.
Lúc này, Khung Dực chợt cất tiếng: "Phụ hoàng, người định bố trí cho Ngọc Huyên thế nào?"
Khung Vũ đưa mắt nhìn con trai, hỏi lại: "Hai con nghĩ nên bố trí thế nào?"
Hiển nhiên Hoàng đế đã có chủ ý từ trước, câu hỏi này chẳng qua chỉ để xem Đại vương tử và Nhị vương tử có cách suy nghĩ ra sao thôi.
Khung Dực thẳng thắn đáp luôn: "Nếu là nhi thần, ngay từ đầu nhi thần đã chẳng phiền phức như thế. Đình chiến thì đình chiến, củng cố quân lực, lương thảo, sản xuất vũ khí. Sau này nếu như lại giao chiến, hai bên lên chiến trường chỉ nói gươm đao, kẻ mạnh thì lại thắng."
Khung Tuấn nghe lời nhị đệ thốt ra, lập tức cau mày.
Hoàng đế chỉ hỏi cách nghĩ của bọn họ, thế nhưng trong câu trả lời của Khung Dực đã nói lên suy nghĩ trong tiềm thức của hắn. Hắn đang đặt mình ở vị trí đế vương. Bốn chữ "nếu là nhi thần" đã mang hàm ý bất kính cực điểm, điều này e rằng ngay cả Khung Dực cũng chẳng nhận ra.
Quả nhiên, Khung Vũ đưa mắt nhìn Khung Dực đăm đăm một hồi, rồi lại dời mắt sang Khung Tuấn: "Con thì sao?"
Khung Tuấn đè xuống hồi hộp, cố định vẻ mặt rồi hơi cúi người xuống trả lời: "Bẩm phụ hoàng, hai nước đã thỏa thuận đối đãi Ngọc Huyên như khách quý, vậy nên nhất định phải giữ lời. Đó là chữ tín của bậc quân vương."
Khung Vũ chưa đáp lời ngay. Ngài đi lại phía cửa sổ, nhìn xuống toàn cảnh kinh thành Trích Nguyệt đang sáng đèn trong đêm tối, xa xa là những nông trại, những cánh đồng uốn lượn chập chùng của ngoại ô Vương Đô, giờ đang bị bóng đêm che khuất.
"Ban đầu ta cũng không có ý định ra yêu cầu giữ Ngọc Huyên, tuy nhiên sau khi biết tuổi của nó, ta đã đổi ý." Khung Vũ buông giọng xa xăm.
"Ngọc Huyên năm nay mười hai tuổi, chúng ta giữ nó đến khi mười tám, tức là sáu năm. Sáu năm này là giai đoạn chủ chốt của thời kỳ trưởng thành, đóng vai trò gần như quyết định trong việc hình thành tính cách, quan điểm sống, chính kiến của một người. Huống chi, nó còn là Hoàng tử duy nhất của Kinh Lạc, tương lai chắc chắn sẽ kế thừa đế vị từ Chu An."
Khung Dực còn đang ngỡ ngàng, Khung Tuấn đã gật đầu, chậm rãi tiếp lời: "Tương lai của Kinh Lạc sau này, hoàn toàn phụ thuộc vào sáu năm này của Ngọc Huyên. Chúng ta muốn Kinh Lạc có Vua chủ như thế nào thì nuôi Ngọc Huyên như thế nấy."
Khung Dực nín lặng. Một bóng áo xanh nhỏ nhắn xẹt qua tâm trí, dường như trong không khí còn thoảng mùi lá sen thơm ngọt.
"Làm thế này không phải là hành vi của người quân tử!" Khung Dực buột miệng thốt ra.
Khung Tuấn nghiến răng, lại thêm một lần bất kính! Giờ mà phụ hoàng hắn có lôi nhị đệ ra đánh một trăm gậy, hắn vẫn còn thấy nhẹ.
Trái ngược với lo âu của hắn, Khung Vũ quay lại nhìn Khung Dực, bất chợt cười rộ lên: "Con nghĩ đi đâu vậy?"
"Ta không những sẽ đối đãi hết mực chu đáo với Ngọc Huyên, mà sẽ còn nuôi dạy đàng hoàng, cho học hành tử tế. Ta muốn sáu năm này nó lớn lên dưới vòm trời Đại Thương ta, ăn hạt lúa, uống nước suối của chúng ta, hát những bài hát của dân tộc ta, cùng chúng ta trải qua mùa đông khắc nghiệt hay mùa hè rực rỡ. Nó phải yêu mảnh đất này da diết, đau cùng một nỗi đau, khóc cùng một dòng nước mắt. Ngày nó trở về Kinh Lạc, bước chân có thể đi nhưng trái tim sẽ vĩnh viễn để lại cho Vương Đô, cho Đại Mạc. Sau này nó lên ngôi Vua chủ, ta muốn nó và Kinh Lạc hướng về phương bắc, cúi đầu xưng thần."
Trong phòng im lặng như tờ, ánh nến nhảy nhót. Một ngọn gió đêm đem theo hơi lạnh phả vào cung điện uy nghi, nơi Hoàng đế Đại Thương và hai người con trai đang đứng trầm ngâm.
"Phụ hoàng, chỉ e Kinh Lạc cũng đã có phòng bị trước." Mãi sau, Khung Tuấn mới lên tiếng. Lời thỉnh cầu của Vũ Miên trước lúc chia tay đã quá rõ ràng. Nàng sớm đã nhìn ra ý định của Khung Vũ, thế mà hắn đã lỡ nhận lời.
"Sẽ không dễ dàng gì. Người Kinh Lạc đã quật cường từ trong máu." Khung Vũ thản nhiên gật đầu.
"Phụ hoàng, tuy là vậy, có những việc cũng nên cẩn trọng một chút. Ngọc Huyên có thể học mọi thứ, trừ việc cưỡi ngựa bắn cung và nhất là cách thuần mã, luyện mã của chúng ta." Khung Tuấn lại cúi người, cung kính đề nghị.
Khung Vũ xua tay: "Việc đó con sắp xếp là được. Học cưỡi ngựa cũng chả sao. Bí quyết luyện mã của Đại Thương ta, nhị đệ con rõ nhất. Không phải muốn học là học đâu."
"Nhưng mà phụ hoàng, tại sao lại phải vòng vo như vậy?" Khung Dực vẫn khó hiểu, nhăn nhăn mũi. "Xét về năng lực chiến tranh, Đại Thương ta vốn khó mà thua Kinh Lạc kia mà."
Hoàng đế chưa vội trả lời mà bước lại phía bàn để tấu chương, rút lấy cái trên cùng đưa cho Khung Dực và Khung Tuấn xem.
Vừa nhìn qua vài dòng trên tấu sớ, Khung Dực đã cau mày: "Hử? Hồ tộc lại xâm phạm, tràn xuống từ sườn đông Tuyết Nhạn?"
"Lúc trước vài năm mới xảy ra một lần kia mà. Năm ngoái chẳng phải bọn chúng vừa cướp vài chục thôn làng trên núi, chiếm gia súc và hoa màu đó sao? Sao giờ lại kéo sang nữa?"
Khung Vũ nâng mắt nhìn hai con: "Rất lạ đúng không? Bởi thế càng phải đề phòng. Ngoài ra, lão tướng Lưu Mục nửa đời chuyên gánh vác việc chinh nam đối phó Kinh Lạc nay cũng đã già, qua đến hết năm nay sẽ cáo lão hồi hương. Lưu Mục chỉ có hai con gái, mọi việc trong quân đội phía nam đành giao cho phó tướng, mà phó tướng hắn thì phải mấy chục năm nữa mới được như hắn bây giờ. Việc đối phó Kinh Lạc sau này, nếu không phải động binh thì vẫn hơn." Khung Vũ ngưng một chút rồi nói: "Hơn nữa, chỉ sợ... trên Tuyết Nhạn có gì bất thường. Nếu đúng là thế, tương lai Đại Thương ta chưa chắc có thể ổn định."
Hai Vương tử ngẩng đầu lên rồi đưa mắt nhìn nhau. Bầy sói lửa.
"Khung Dực, con nghỉ ngơi vài ngày rồi quay lại Khúc Băng đi."
"Nhi thần tuân mệnh. Phụ hoàng, lần này nhi thần có thể đi lâu một chút. Con muốn củng cố lại phòng tuyến Khúc Băng, có thể nghĩ cách nối liền với hàng phòng thủ của dải Chinh Sa, tạo thành một bức tường vững chãi cho Đại Thương ta." Khung Dực quỳ xuống tâu.
"Được, suy nghĩ tốt lắm." Khung Vũ hài lòng gật đầu. "Con lui xuống nghỉ ngơi đi. Khung Tuấn, con nán lại một lát."
Sau khi Khung Dực lui xuống rồi, Khung Vũ ngồi xuống vương tọa trong thư phòng, lẳng lặng bưng chén trà lên nhấp một ngụm.
"Nói rõ ràng cho ta, Kinh Lạc có phòng bị gì?"
Khung Tuấn thấy tim hụt đi một nhịp, tuy nhiên vẫn bình tĩnh thưa: "Bẩm phụ hoàng, phía Kinh Lạc thỉnh cầu cho Ngọc Huyên trong sáu năm này vẫn vận trang phục Kinh Lạc, ngày Tết cũng ăn Tết theo lịch người Kinh."
Ngay cả trong lúc căng thẳng này, Khung Tuấn vẫn khéo léo giấu đi một chi tiết quan trọng. "Phía Kinh Lạc thỉnh cầu" và "Đại công chúa của Kinh Lạc thỉnh cầu" là hai việc hoàn toàn khác nhau.
"Con đồng ý rồi?" Khung Vũ liếc ánh mắt sắc lạnh nhìn Khung Tuấn, Khung Tuấn vội quỳ xuống:
"Nhi thần hồ đồ, mong phụ hoàng trách phạt."
Một tầng mồ hôi mỏng khẽ rịn ra trên trán. Chiếc vương miện sắt trên trán hắn giờ đây bỗng lạnh lẽo, nặng trịch.
"Khung Tuấn, con khác với nhị đệ con. Con là đích tử của Vương mẫu, từ nhỏ đã được nuôi dạy thuật đế vương mà lớn. Khung Dực chỉ là con của phi tần, tính tình lại bộc trực, suy nghĩ đơn giản, xưa nay mạnh võ không mạnh mưu. Những việc như thế này, nhị đệ con có thể không hiểu, nhưng con thì nhất định phải biết cái gì nên làm, cái gì không nên làm."
"Nhi thần biết tội."
"Mẫu thân của các con đều qua đời, các con từ nhỏ cũng khắng khít, ta cũng rất an ủi. Mặc dù ta có ba đứa con trai, nhưng tương lai sau này của Đại Thương chỉ có thể trông cậy vào hai con."
Khung Tuấn dập đầu: "Nhi thần đã rõ."
Mãi lúc sau, Khung Vũ mới thở dài: "Đứng lên đi."
"Khung Tuấn, còn một điều nữa ta chỉ nói riêng với con. Sáu năm này cứ đối xử tốt với Ngọc Huyên, nếu từ chỗ nó biết thêm được gì của phía Kinh Lạc thì tốt. Ta không muốn dụng binh với Kinh Lạc, nhưng lỡ có việc gì không như ý, thì chắc chắn chuyện binh đao là khó tránh."
Khung Tuấn khom người: "Dạ, thưa phụ hoàng."
"Thôi, lui xuống nghỉ ngơi đi, cũng khuya rồi."
Khi Khung Tuấn chuẩn bị bước ra khỏi cửa, bỗng nhiên Khung Vũ gọi giật lại: "Khoan đã!"
Khung Tuấn giật mình, vội vã trở vào: "Phụ hoàng còn gì căn dặn?"
"Ờm... rượu mơ mà con nói đâu?"
Khung Tuấn: "!?"
Lát sau, hòm rượu mơ nọ được dâng lên cho Khung Vũ. Ngài lấy ra một vò trắng muốt, tháo lớp giấy dán niêm phong rồi bật nút gỗ. Một mùi thơm ngào ngạt mang đậm phong vị phương nam lập tức tỏa ra. Khung Vũ khoan khoái uống một ngụm đầy, xong đưa tay chùi khóe miệng rồi lắc đầu cười: "Hừ, Chu An, tay nghề ủ rượu của ngươi lại khá hơn rồi đấy."